Gìn giữ tiếng Việt trong sáng

Bài 1 / 2 trong loạt bài Giữ gìn tiếng Việt trong sáng

Tác giả: Lê Lành

Trấn an dư luận xã hội “ phát điên” vì cách phát âm đánh vần  “quái dị“ trong sách Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục của phò mã giáo sư tiến sĩ tâm lí học Hồ Ngọc Đại giẫm chân thực nghiệm đằng đẵng hơn ba chục năm, phó thủ tướng Vũ Đức Đam long trọng tuyên bố  “ …chính phủ chưa có chủ trương cải cách tiếng Việt, ít nhất trong thời gian tới “ !?. Dư luận tá hoả, bàng hoàng. cau mày. Tiếng Việt trong thông điệp của ông phó thủ tướng quá ư không trong sáng, không sao hiểu nổi.

Từ cổ chí kim, không một thế lực nào, không một ai dám và có thể cải cách tiếng nói cộng đồng, dân tộc. Tiếng nói tự nhiên (native language), tiếng mẹ đẻ (mother tongue) tự sinh thành, hoàn chỉnh, phát triển, làm công cụ giao tiếp, thông tin ngày một đắc lực, một tinh tế theo tư duy tiến triển không ngừng, thông thái hơn.

Con người tư duy bằng tiếng nói… thầm, có ý thức, hoặc trong tiềm thức. Tiếng nói vật chất hoá tư duy. Nó vừa là khởi nguồn vừa là kết quả tư duy. Nó không chịu tác động bất kể một tác nhân nào bên ngoài ngôn ngữ.  Ai cũng hiểu tiền tố “bất“ là không: bất thành, bất công, bất hiếu… Nhưng bất thình lình lại là thình lình… Đó là tính võ đoán ngôn ngữ (arbritariness), tự nó thế, chỉ có chấp nhận, không tự ý chỉnh, sửa được mô. Tiếng Anh, tiếng Pháp có cả loạt động từ bất bình thường (irregular verbs), không theo một qui tắc chung nào hết trơn, một số danh từ số ít sang số nhiều lại không thêm s vào cuối từ theo qui tắc chung… người bản ngữ cũng phải học thuộc lòng, hoặc tra cứu.

Tiếng nói là nhân tố quyết định đưa con người lên ngôi bá chủ thế giới!

Suốt nghìn năm Bắc thuộc khắc nghiệt, ác độc, dân tộc ta không để giặc Tàu xâm lược đồng hoá, chính là nhờ tiếng Việt tư duy mãnh liệt, bất khuất, trong sáng. Lưu Quang Vũ hào sảng: Tiếng chưa mất khi Loa thành đã mất… Tiếng tha thiết lòng trai ôm ngọc sáng  Dẫu cát vùi sóng dập chẳng hề nguôi

Nhưng tiếng nói có mặt trái tày đình: “lời nói gió bay “. Lưu Quang Vũ thi vị hóa: “Như nước gió không thể nào nắm bắt “ Con ngươi thông minh, khắc phục  bằng cách tạo tác chữ viết, thị giác hoá tiếng nói, lưu truyền tiếng nói bên ngoài con người, hầu như không giới hạn không gian, thời gian. Khi có chữ viết, văn minh con người phát triển vượt bậc. Chữ viết là phương tiện xử lý thông tin chính xác hơn, bền vững hơn. Chữ viết vừa là điều kiện căn bản cho sự phát triển tổ chức xã hội ngày một phức tạp, trình độ sản xuất  ngày một cao, đồng thời lại là kết quả của chính nền văn hoá ấy.

Không đồng hoá được dân tộc ta, giặc Tàu xâm lược xảo quyệt áp văn tự của chúng phiên tiếng ta thành chữ Hán-Việt, hòng cột chặt dân tộc ta trong vòng cương toả Hán học nho giáo hủ lậu.  Nhưng vì những khác biệt căn bản giữa tiếng ta và tiếng Hoa, và chữ Hán nào đã ra gì – nhà Hán hai nghìn năm tuổi, chữ Giáp Cốt đã có từ bốn, năm ngàn năm trước, chỉ kí âm theo chữ Hán chừng 70% tiếng Việt, nhưng vẫn đọc theo âm Việt, ôm gọn nghĩa tiếng Việt – thiên trời địa đất, tử tất tồn còn, tử con tôn cháu, lục sáu tam ba, gia nhà quốc nước… Đúng ra phải gọi là chữ “nho“, viết bằng bút lông, mực đen. Người Hoa đâu đọc được, hiểu được.  Phần còn lại là chữ nôm – bên trái bộ khẩu, bên phải bộ nam,  tiếng nam thuần tuý,  nôm na, dân dã, đối lập với chữ Hán-Việt khoa bảng, thư lại, triều chính.

Từ đó, đầu thế kỉ trước, nhà ngôn ngữ học lỗi lạc người Pháp A. G Haudricourt, ngộ nhận 70% tiếng Việt gốc Hán ! ? Tệ hại, một số người ta ngày nay mang danh học giả này nọ lại không tư duy độc lập, phản biện mà nhắm mắt rập khuôn. Mặt khác, chính người Hoa cũng  phải du nhập tiếng Nhật sớm tiếp cận trước văn hoá phương Tây nữa là: kĩ sư, vi trùng, dân chủ, chính sách … Phi công có viết dưới dạng chữ Hán chính hiệu, người Hoa cũng không hiểu là người lái máy bay, truyền hình  ở ta,  bên Tàu gọi là điện thị… Giữa thế kỉ 20, liệt xa – đường sắt, đại táo –  bếp ăn tập thể… từ Tàu vừa du nhập sang, bật bãi liền. Nay, những kẻ cơ hội “bảo vệ sự trong sáng tiếng Việt“ lại viện nhận định sai lầm tai hại ấy để đòi dạy và học chữ Hán.  Lố  bịch, ngu đần hết biết, người ta học và dạy tiếng – tiếng Anh, tiếng Pháp, chứ ai học và dạy chữ Anh, chữ Pháp… bao giờ.  Nhà thơ Lưu Quang Vũ đã khẳng định: “Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói.  Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ. Tiếng nước tôi như bùn như lụa. Óng tre ngà mịn mang như tơ “. Có điên khùng mới lôi chữ Hán chết tiệt đã bị quăng vào sọt rác hơn trăm năm để dạy tiếng Việt! Từ điển truyện Kiều giúp ta đọc thông truyện Kiều chữ quốc ngữ, đâu cần phải biết chữ Hán. Các bà mẹ quê ngày xưa thuộc truyện Kiều làu làu, lẩy Kiều hay đáo để. Hơn nữa,  giờ dạy và học chữ Hán nào đây – phồn thể hay giản thể? Trong loạn lạc tùm lum cách mạng văn hoá, Mao Trạch Đông nổi cơn “kách mệnh“ ra lệnh chỉ được dùng chữ Hán giản thể, bãi bỏ tuyệt đối chữ Hán phồn thể –  phức hợp âm và nghĩa. Hậu quả nhãn tiền.  Không những không triệt hạ được nạn mù chữ ngu dân mà người Hoa lục địa  ngày nay  không hiểu thấu tiếng mẹ đẻ ngay trên đất nước mình, không đọc được cổ văn, mất đi tính bản thiện, trở nên “ Gian manh nhận địa phân thiên. Hỗn mang thế thái đảo điên  nhân tình“.

Chính người Hoa loay hoay hoài la tinh hoá tiếng mẹ đẻ trước ta năm, sáu  chục năm, hòng thoát cái văn tự khốn kiếp, lac hậu, kim hãm tiến bộ –  học chữ nào biết chữ nấy, cùng một chữ mỗi nơi một cách đọc, nhưng đâu có được.  Ghen ăn tức ở, quay ra chê bai  đủ điều chữ quốc ngữ ta ngoằn ngoèo, đội nón, đi guốc. không vuông vức, sao còn viết thư pháp được nữa đây !?

Tiếng Việt la tinh hoá hoàn hảo không chỉ là cơ duyên khai hoá, thoát Trung mà còn là minh chứng tiếng Việt linh diệu.  Bộ chữ cái alphabet roman được dùng để kí âm tiếng Việt không có các phụ âm bật hơi aspirated h, kh, ph, th, nhưng các từ gốc Hy Lạp lại có phụ âm đầu khi, phi, thetha. Các nhà truyền giáo Bồ, Pháp, Ý không câu nệ dùng để ghi rẩt trúng các âm tắc bật tiếng Việt, đảm bảo nguyên tắc ngữ âm học mỗi kí hiệu ứng với một âm vị, và ngược lại, đọc sao viết vậy, viết sao đọc đúng thế.

Ngày trước, cao đẳng tiểu học ba lớp cuối cấp đã học tiếng Pháp, chuẩn bị lên trung học toàn bằng tiếng Pháp. Trợ thủ cưng nhứt của giáo sư tiến sĩ Hồ Ngọc Đại trong dạy thực nghiệm và soạn sách giáo khoa công nghệ giáo dục, ông Phạm Toàn, từng học mấy năm trung học thời Tây, giả ngây ngạc nhiên sao các trí thức ta ngày trước giỏi tiếng Việt thế. Sau năm 1945, từ tiểu học đến đại học, dạy và học hoàn toàn bằng tiếng Việt. Sở dĩ ở ta, thực dân Pháp không lấy tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính thức, như ở các thuộc địa bắc Phi thuộc Pháp, là vì tiếng Việt la tinh hoá chữ viết hoàn chỉnh, phong phú, trong sáng, diễn tả trôi chảy, khúc chiết, văn hoa tư tưởng, khoa học, văn hoá, không thua gì tiếng Pháp.  Ngày nay, tiếng Pháp vẫn được giữ làm ngôn ngữ hành chính, ngoại giao ở một vài quốc gia bắc Phi trước đây là thuộc địa.

Giữa thập niên ba mươi thế kỉ trước, thạc si toán Hoàng Xuân Hãn rời Paris về Hà nội dạy học trò trường Bưởi. Tham gia Hội truyền bá quốc ngữ, ông bày ra cách học bình dân học vụ đánh vần i tờ, lấy âm làm trọng tâm, phớt qua mặt chữ. Xướng nguyên âm trước tiên, nối với phụ âm theo sau thành vần, rồi ngược lên kết với phụ âm trước thành tiếng: e mờ em, sờ em xem! Khác hẳn cách dạy và học chính qui ở trường, đọc trực tiếp từ chữ đến âm, ghép lại thành tiếng một cách tự nhiên, tuyệt nhiên không đánh vần, Cả một năm vỡ lòng ngày trước học chữ, đọc thông theo mặt chữ, viết thạo đúng chữ, và hai phép tính cơ bản cộng và trừ. Chậm nhưng rất chắc, đúng theo qui tắc ngữ âm học, không tái mù chữ.  Lớp đồng ấu hiện nay ở Mĩ chỉ học đọc reading  và viết writing tiếng Anh.

Học theo lối đánh vần bình dân học vụ i tờ rất nhanh, nội trong một tháng đã có thể biết đọc, còn viết thì chưa chác . Chỉ lãng một thời gian là mù chữ trở lại liền: Ai về chợ Viền Khánh Vân. Hỏi thăm cô Tú đánh vần được chưa. Đánh vần năm ngoái năm xưa. Năm nay quên hết như chưa học vần. Lại còn viết sai chính tả tùm lum: con cái chanh dành (tranh giành) nhau của cải để giành (dành) của bố mẹ, khuếch thành khuyếch, gần như không đánh vần, không viết được: khúc khuỷu. Nhất là xướng âm lẫn lộn, không trong sáng các chữ cái từ nước ngoài viết tắt: Gờ đê pê GDP, nhóm Gờ bảy – G7 viết tắt tiếng Anh Group of Seven: Nhóm bảy nước.  Rồi thành chuyện tiếu lâm, đăng đàn quốc tế mà ông thủ tướng nhà ta cứ như học trò hồn nhiên tập đọc: Cờ (Campuchia) Lờ (Lào) Mờ (Myanma) Vờ (Việt Nam)…

Nhiệt tình, Hoàng Xuân Hãn bày cách đánh vần bình dân học vụ để nhanh chóng xoá nạn mù chữ mà không thấy chữ viết là một hệ thống kí hiệu ghi âm trên giải thuyết chuyển tiếng nói thành ngôn ngữ văn tự, có cấu trúc chặt chẽ, không thể thao tác vô lối – ngược lại từ âm đến chữ.  Những tiến sĩ dỏm tu nghiệp lôm côm ở Bắc Kinh. Mạc Tư Khoa liều lĩnh cải cách chữ quốc ngữ đã thành chuyện nực cười. Chung qui vì lợi ích nhóm, buôn chữ, bán sách giáo khoa! Thành phố Hồ Chí Minh không chấp nhận sách giáo khoa Tiếng Việt lớp1 Công nghệ giáo dục, Đà Nẵng bác bỏ, Tiền Giang cấm. Gia Lai đốt.

Một thầy tu hậu duệ cha A-lich-sơn Đắc-lộ ở Cồn Sẻ, Quảng Bình, chọn ra một trăm học sinh lớp hai trường tiểu học địa phương đã qua lớp một, học trọn vẹn ba tập Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục, để khảo sát. Kinh hoàng, hầu hết đọc ngắc nga ngắc ngứ, một số chữ đánh vần không xong, còn viết thì nhầm lẫn be bét các chữ cái c, k, q: con kua (cua) bò cua (qua) đường, kủ (củ) khoai trên cái thước qẻ (kẻ), mùa suôn (xuân), xang (sang), nge (nghề), ngiep (nghiệp)… Ông cha đạo gia tô hiền từ không một lời chê trách, phê phán bộ sách giáo khoa, hai tay giơ lên ba tập Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục màu sắc rõ đẹp và sấp giấy viết sai chính tả không thể tưởng tượng của học sinh lớp hai, lặng lẽ đặt câu hỏi vì đâu, ai chịu trách nhiệm thực tế phũ phàng, đau xót này.

Sau biến cố tháng 4-1975, dễ đến trên dưới triệu người Việt phải bỏ nước ra đi, được tiếng thơ Lưu Quang Vũ khắc hoạ: “… phiêu bạt nơi chân trời góc biển “, nhưng vẫn “…gọi thầm tiếng Việt mỗi đêm khuya.“  Dù “Trái đất rộng giàu bao thứ tiếng  Cao quí trầm hùng rực rỡ vui tươi “, nhưng chỉ một “ Tiếng Việt rung rinh nhịp đập trái tim… Như vị muối chung lòng biển mặn. Như dòng sông thân thiết chảy muôn đời “ Một cô gái Mĩ gốc Việt lên facebook, bằng chữ quốc ngữ chuẩn, tâm sự về di huấn của bà ngoại ngoài tám mươi vừa mới mất:  Bà nhắc đi nhắc lại con cháu phải mang hộ chiếu Mĩ rằng những người Việt chúng ta bần cùng bất đắc dĩ phải lưu vong, nhưng ơn trời phật mang theo được của gia bảo: tiếng mẹ đẻ. Cộng đồng người Việt ở hải ngoại phải hết lòng gìn giữ tiếng Việt trong sáng để trường tồn. Ngay ngày đầu rời đất mẹ, bà hăng hái xung phong, miệt mài dạy tiếng Việt cho trẻ ở nhà thờ, sau buổi lễ mỗi sáng chúa nhật. Giờ, một số lớp dạy tiếng Việt nhỏ lẻ tự phát ấy đã thành các trường Việt ngữ phổ biến ở nhiều bang, từ bờ đông sang bờ tây Hoa Kì, gây sự chú ý với cả người Mỹ gốc Âu về cái họ goi là văn hoá khoanh tay Trong các buổi học tiếng Việt, bất kể học trò lớn bé nào cũng ngoan ngoãn đứng lên, nghiêm trang khoanh tay, lễ phép thưa thốt từng tiếng từng lời trang trọng với thày cô. Cái văn hoà khoanh tay ấy như một ngôn ngữ cử chỉ giới thiêu: Tôi, người Việt đây Tự hào biết mấy tiếng Việt thân thương.

Xuất ngoại. tiếng Việt thêm giá trị sứ giả ngôn ngữ cao đẹp. Thật tình ngưỡng mộ khi còn là sinh viên, nay lại càng bất bình những thiên kiến độc địa của những kẻ đầu óc hẹp hòi, mưu tính đầu cơ, hướng dẫn viên du lịch tên Trường lặn lội các nghĩa trang Iran Ba Tư tít bên tây Á, tìm mộ cha A – lịch – sơn Đắc – lộ (Alexandre de Rhodes), nhà truyền giáo dòng Tên, nhà ngôn ngữ học xứ Avignon, Pháp. Còn hơn cả đáy bể mò kim, cha đạo công giáo mất đã hơn ba trăm năm rưỡi, trên đất nước quốc giáo đạo Hồi, táng nhờ nghĩa trang mênh mông 300 ngàn mét vuông của người thiếu số Armenie. May mắn, những người bạn trẻ Iran cùng nghề ngưỡng mộ, thông cảm nguyên vọng thiêng liêng,cao cả của đồng nghiệp Việt, lần tìm và chắp nối từng thông tin nhỏ nhoi để tìm bằng được mộ cha Đắc – lộ lạc lõng giữa những ngôi mộ vô thừa nhận Tất cả thành kính đặt chậu hoa tím trên ngôi mộ cổ mấy trăm năm, lần đầu tiên được tảo mộ, trang nghiêm cúi đầu tưởng niệm một linh hồn công đức với người Việt, với tiếng Việt, nhưng lại bị lãng quên, thậm chí còn bị những kẻ táng tận lên án, kết tội.  Năm ngoái, giáo sư hưu trí trường đại học Liège, vương quốc Bỉ, Nguyễn Đăng Hưng, 77 tuổi, đi dựng văn bia “Tri ân cha Alexandre de Rhodes đã có đóng góp to lớn trong việc tạo tác chữ quốc ngữ – chữ Việt viết theo kí tự latin “. bằng bốn thứ tiếng – tiếng Việt trong sáng, Pháp, Anh, A rập. Phải qua ba ải: Cục quản lí văn hoá thành phố Isfahan, một trong bốn trung âm kinh tế văn hoá Iran,  Ban giao dịch công chúng  nhà thờ VANK. Ban quản lí nghĩa trang cơ đốc giáo Isfahan. Lòng thành được chúa chứng giám, hanh thông vô cùng. Ông giám đốc Cục quản lí văn hoá thành phố Isfahan bắt chặt tay giáo sư Nguyến Đăng Hưng, chân thành: “ Tiếng Việt dạy chúng tôi lòng biết ơn “ . Không tri ơn sao được, tiếng nói của người Việt được chắp cánh văn tự la tinh bay lên, thoát ao tù nước đọng tăm tối, nhờ ở ai !

Nguồn: viet-studies.net ngày 19-8-19

Chữ quốc ngữ tiếng Việt

Bài 2 / 2 trong loạt bài Giữ gìn tiếng Việt trong sáng

Tác giả: Lê Lành

Xưa, chữ Nôm chế tác từ chữ Hán chỉ là quốc âm – ký âm tiếng Việt. Sau đó, Latin hóa hoàn chỉnh thành chữ quốc ngữ tiếng Việt hiện nay.

Đà Nẵng rục rịch đặt tên phố Francisco de Pina, Alexandre de Rhodes, vinh danh công ơn Latin hoá tiếng Việt thành chữ quốc ngữ Năm 1623, Dòng Tên, một dòng tu Công giáo lớn các linh mục học thức trình độ tiến sĩ ở Tây Ban Nha, đặt cơ sở ba ở danh trấn Thanh Chiêm, thủ phủ đàng trong chúa Nguyễn, cử cha Francisco de Pina cải đạo Kitô cho người Quảng.

Nói với người bản địa bằng tiếng mẹ đẻ của họ, họ tin yêu bằng cả tấm lòng. Thông tuệ, cha Francisco de Pina dùng chữ cái Latin kí âm tiếng Việt để học tiếng, để con chiên đọc kinh bổn mỗi ngày.

Đặc trưng nổi bật tiếng Việt là thanh điệu, nảy sinh từ cái hồn tiếng nói dân tộc: “Tiếng xào xạc gió thổi giữa cau tre. (Câu thơ tám tiếng đủ sáu thanh điệu)…Tiếng trong trẻo như hồn dân tộc Việt “(Lưu Quang Vũ).

Theo ngữ âm học, thanh điệu tiếng Việt là sự khác biệt về cao độ vật lí (pitch), chất giong cảm xúc (voice quality) trong phát âm các âm tiết, giữ chức năng khu biệt ngữ nghĩa Giàu thanh điệu, tiếng Việt phong phú, âm vang, hay và đẹp là thế: “Một tiếng vườn rợp bóng lá cành vươn. Nghe mát lịm ở đâu môi tiếng suối. Tiếng heo may gợi nhớ những con đường“ (LQV)

Nhưng lại là điều cực khó với người phương Tây. Với lại chữ la tinh không có dấu thanh. Không nề hà, Francisco de Pina áp luôn dấu thanh cùng các phụ âm đôi ph, th tiếng Hi Lạp kí âm hài hoà tiếng Việt: “Như nước gió không thể nào nắm bắt. Dấu huyền trầm dấu ngã chênh vênh. Dấu hỏi dựng suốt ngàn đời lửa cháy”(LQV)

Ngày nay, bao phương tiện hiện đại hỗ trợ đắc lực học tiếng là thế Thế mà theo thống kê chính thức, chừng 70 % người phương Tây ngã lòng hai tháng đầu học tiếng Việt . vì rào cản thanh điệu . .

Kế tục, Alexandre de Rhodes A Lịch Sơn Đắc Lộ hệ thống hoá, kiện toàn thành chữ quốc ngữ, in ấn thành công ở thủ phủ Roma toà thánh Công giáo Từ điển Việt – Bồ – La, sách Phép giảng tám ngày.

Bằng chữ quốc ngữ, Hồ Dzếnh, người Minh Hương, mẹ là con gái xứ Thanh dô tá dô hò hò sông Mã, làm thơ chững chạc cổ phong ngũ ngôn, nhưng lai láng âm điệu dân dã trầm buồn trong ráng Chiều bâng khuâng nỗi nhớ. Thơ là tiếng, thánh thót thành dòng âm điệu rót vào lòng người. Thơ hay ở âm điệu. Âm điệu hay chủ yếu từ sự sắp xếp hài hoà các thanh bằng không dấu, dấu huyền, các âm trắc dấu sắc,e hỏi, ngã, nặng trong câu thơ. Âm điệu trầm buồn lai láng ấy được thể hiện sâu lắng bằng 12 thanh phù bình không dấu, phù trầm dấu huyền trong ba câu đầu 15 tiếng “Trên đường về nhớ đầy- Chiều chậm đưa chân ngày Tiếng buồn vang trong mây “ Rồi ba âm trắc tịnh tiến từ chữ tư câu đầu lên chữ thứ hai câu hai để đúng đầu câu ba,e dựng lên giai điệu thướt tha, làm Dương Thiệu Tước không thể không phổ thành ca khúc trữ tình để đời: Chiều, thơ Hồ Dzếnh.

Không chỉ thơ hay, Hồ Dzếnh viết văn chân chất tiếng Việt trong sáng, như nghe thấy hơi thở hài hoà âm điệu, tiết tấu các con chữ: “Trời đã ngả màu tím. Khách không tin còn đò. Nhưng rồi con đò ở bờ bên kia cũng rời bến sang với khách. Đêm ấy khách được ngủ đỗ trong nhà cô lái đò tốt bụng. Người khách sang sông chiều muộn ấy về sau này là cha tôi. Và cô lái đò, là mẹ tôi“.

Trải lòng với Thạch Lam đỡ đầu văn chương buổi ban đầu, Hồ Dzếnh chân tình: Tôi không chỉ yêu mà thực sự trân quí hết mực tiếng Việt mẹ đẻ. Tình cảm nồng hậu ấy đã neo Hồ Dzếnh trụ vững trên đất mẹ, bất chấp những thủ đoạn mưu toan bứng bằng được Hồ Dzếnh khỏi đất nước này, vì là nhà văn tiền chiến, không đi theo kháng chiến, bị khép vào thành phần phản động. Không còn được làm thơ, viết văn, Hồ Dzếnh sống còm cõi đến cuối đời.

Nhà cầm quyền Đà Nẵng, khốn nỗi, định đặt tên phố Francisco de Pina, Alexandre de Rhodes không hẳn từ cái nghĩa tình mà có thể từ tánh xấu đố kị, tị nạnh. Chả là hai năm trước, người phát kiến mộ hoang Alexandre de Rhodes lạc lõng bên Ba Tư Iraq quốc giáo đạo Hồi tận Tây Á. Rồi một đoàn đông đảo các trí thức, nghệ sĩ rộn ràng sang tận nơi tảo mộ, đặt bia tri ân, gây tiếng vang lớn văn hoá quốc tế…Tịnh không một ai người Quảng.

Không mảy may đắn đo, nhà cầm quyền Đã Nẵng cho ngưng ngang xương dự án đặt tên phố các cố đạo phương Tây, khi 11 ông trí giả ngoài Huế om sòm phản kháng. Nỏ mổm nhất là mệ Huế học sử gia Nguyễn Đắc Xuân nhảy núi trắng trợn vu cáo Alexandre de Rhodes bày ra chữ quốc ngữ để bắc cầu cho thực dân Pháp đưa lính sang chiếm nước ta làm thuộc địa !?

Cứ như Đà Nẵng không một cơ duyên với một tác giả chữ quốc ngữ, từng ăn dầm ở dề trên đất Quảng. Nghìn năm văn vật Thăng Long, điêu khắc gia Phạm Văn Hạng xin hiến tượng chân dung Alexandre de Rhode đặt trên hoa viên nho nhỏ bên hông đền Bà Kiệu, đối diện tháp Tả thanh thiên bên hồ Hoàn Kiếm, nơi Hội truyền bá quốc ngữ năm 1941 dựng bia tri ân Alexandre de Rhodes, nhưng sau 1945, bị hốt đi mất tiêu. Nghệ sĩ tạo hình Phạm Văn Hạng thổ lộ đây là ước nguyện của ông Sáu Dân Võ Văn Kiệt biểu thị hàm ơn, vinh danh người có công, bày tỏ sự quí trọng văn hóa, khoa học. Vậy mà Hà nội ngó lơ, không một lời hồi đáp tử tế người Tràng An.

Đâu vô cớ. Đầu thập niên 50 thế kĩ XX, Ban văn sử địa của đảng cộng sản Động Dương rút vào bí mật trên rừng xanh Việt Bắc đã chủ trương dựng điều đả kích A. de Rhodes thế kỉ XVII đề xuất Pháp thế kỉ XIX đưa quân chinh phục cả phương Đông, mang về thần phục chúa !? Sau hiệp định Genève 54, Ban văn sử địa về Hà nội, ra chỉ thị cấm tuyệt đối lưu hành sách sử chữ quốc ngữ Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, xuất bản 1919, ghi chính xác, rõ ràng: Tàu dấy binh xâm lăng nước ta lần cuối cùng là thế kỉ XIX . Từ Hi thái hậu xuống chiếu Phùng Tử Tài thống lĩnh quân Thanh cùng tàn quân Thái Bình thiên quốc Giặc cờ đen đánh chiếm tứ tung Bắc Kỳ. Quân Pháp đánh bại cuộc xâm lăng ấy, mở đường cho Việt nam thoát khỏi Hán học hủ lậu, tiếp cận văn minh thế giới tự do, bình đẳng, bác ái.

Bịa đặt vu oan giá hoạ không lọt tai ai, Nguyễn Đắc Xuân công khai não trạng nô dịch, nhắm vào tâm lí hủ bại một số tinh hoa còn nặng lòng Hán học: “Nước ta hàng ngàn năm trong vùng ảnh hưởng sâu đậm chữ Hán – Hán học. Chữ quốc ngữ cậy thế thực dân Pháp đẩy chữ Hán vào quá khứ quên lãng, xoá bỏ Hán học uyên thâm, làm đứt mạch văn chương cổ xưa sân Trình cửa Khổng! Truyện Kiều chữ Nôm của Nguyễn Du dịch ra chữ quốc ngữ mất hết ý, mất hết nghĩa, mất cả hồn dân tộc.” !? “Ngu chi mà ngu rứa “, truyện Kiều chữ Nôm hay chữ quốc ngữ đều là tiếng Việt, dịch là dịch thế nào, dịch cái chi, dịch ra sao!

Bỏ chữ Hán là bỏ tư duy tổng hợp áp đặt hủ lậu, chuyển sang chữ quốc ngữ là chuyển sang tư duy phân tích tiếp cận tiến bộ, văn minh.

Thập niên ba mươi thế kỉ trước, người con “minh mẫn nhất xứ Quảng “, Phan Châu Trinh chủ trương cứu nước không bằng bạo lực mà bằng khai phóng nâng dân trí, mất nước là mất văn hoá, mất hệ qui chiếu là người Việt. Phan Chu Trinh cùng Lương Văn Can mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục năm 1905, hô hào tân học, bỏ Hán học, học chữ quốc ngữ. Ông nêu tôn chỉ: “Giành độc lập không chỉ là đánh đuổi quân xâm lăng khỏi bờ cõi mà còn là tẩy sạch não trạng nô lệ Hán học “.

1945, triết gia Lý Đông A, 16 tuổi, còn mang tên cha sinh mẹ đẻ Nguyễn Hữu Thanh, hầu hạ Phan Bội Châu suốt thời gian bị thực dân an trí ở Huế, giác ngộ Duy Tân, cảnh báo: Bọn nô tài chưa bao giờ từ bỏ âm mưu phá chữ quốc ngữ, khôi phục chữ Hán!

2020, ông nghị gật Dương Trung Quốc chớp luôn ý tưởng ngông cuồng một tiến sĩ giấy đòi dạy chữ Hán ngay bậc tiểu học, tâng lên quốc hội định kiến sai lầm tiếng Viêt 70% từ Hán của ông tây đa năng A. G. Haudricourt.

Hoang tưởng, láo xược hết chỗ nói! Sao lại cưỡng ép quái dị chữ Hán tiếng Việt thành từ Hán – Việt !? Chữ chỉ là vật thay thế, kí âm. Không một tên Tàu giỏi đến mấy có thể đọc hiểu chữ Nôm của ta, cho dù chữ Nôm là phó bản chữ Hán “Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói,… Ống tre ngà mịn mang như tơ “ (LQV)

Ngoài ra, lai tạp đến 70% tiếng Hán, không bị Hán hoá thì cũng suy thoái thành tử ngữ, đâu còn “Tiếng Việt rung rinh nhịp đập trái tim. Như tiếng sáo như dây đàn mau nhỏ … Ai ở phía bên kia cầm súng khác,.Cùng tôi chung tiếng Việt quay về” (LQV).

1911, trong buổi tiệc chiêu đãi, thủ tường Nhật Tsuyoshi Inukai té tát Tôn Dật Tiên nói bậy bạ người Việt Nam có căn tính nô lệ, để người Hán đô hộ nghìn năm, giờ thực dân Pháp…: “Người Việt Nam duy nhất trong nhóm các sắc tộc Bách Việt chống, kháng thành công quá trình Hán hoá thâm độc, có chữ viết Latin tân tiến, rồi sẽ giành được độc lập, tự do!”.

Đương nhiên. như mọi ngôn ngữ trên thế giới, tiếng Việt cũng du nhập tiếng nước ngoài để chuyển tải tư tưởng, văn hoá, kiến văn. Nhưng Việt hoá đến cùng, theo các qui tắc ngôn ngũ học thành tiếng ta “Chung tiếng làng tiếng nước của riêng tôi“ (LQV).

Âm vi / p / chỉ đứng cuối âm tiết type – típ, típ 1 tiểu đường, đứng đầu âm tiết thay bằng b: pompe – bơm, bơm chân không hoặc cặp vơi h – phụ âm đôi ph: savon – xà phòng ngoài Bắc, xà bông trong Nam.

Lợi thế chữ quốc ngũ cùng văn tự Latin, chuyển âm thật êm, ngọt: automobile: ô tô, caoutchuc – cao su, logic – lô gích học, chuyển ý phân tích ngọn ngành téléphone – điện thoại, république – nền cộng hòa, logiciel- phần mềm.

Tàu cũng du nhập, phiên âm điện thoại téléphone – đức luật phong, bệnh thổ tả chlorera – hồ liệt la…không ra sao. Cái tệ của người Tàu không phát âm được các phụ âm đầu hữu thanh b, d: Xi Jin – ping Tập Cận Bình, Mao Tse – tung Mao Trạch Đông. Dịch ý xã hội social là quần, kinh tế economie là lí tài… bất ổn Chữ Hán tư duy tổng hợp tượng ý, áp đặt nghĩa.. Cuối cùng phải sao chép y chang tiếng Nhật du nhập tiếng phương Tây. Sau này, Mao Trạch Đông làm chúa, bằng quyền lực tối cao ra sức thúc ép Latin hóa tiếng Tàu, nhưng đâu có được, phải thoả hiệp giản thể chữ Hán ấm ớ, đứt mạch văn hoá cổ.

Ông trùm tuyên huấn miền nam khét tiếng Trần Bạch Đẳng đăng đàn, chỉ khẩu hiệu trên sân khấu hội thảo chuyên đề ngôn ngữ, dõng dạc: Từ Hán Việt! Bên dưới, nhà ngôn ngữ học cao ngạo Cao Xuân Hạo bật đứng dậy: “Cái thằng dốt nát nhất trần đời cái gì cũng xía vô !. Rôi cắp đít ra về. bỏ hội thảo.

Thuật ngữ dị dạng “đầu ngô mình sở“ từ Hán Việt xuất hiện ở Hà nội đầu thập niên 60 thế ki trước. Tiếng Việt có một loạt từ vựng cùng cú pháp chủ yếu phổ biến nơi triều chính, khoa bảng, văn chương bác học, ít được dùng trong sinh hoạt giao tiếp dân gian hằng ngày, không bị mài mòn, trở nên khác biệt, sang trọng lên: Đức ông quận công phu quân nữ hoàng Anh quốc chúc mừng đồng bào Tô Cách Lan bị cúm Vũ Hán Trung cộng thập tử nhất sinh bình phục, hồi hương an khang – chứ không bỗ bã “chồng vua đàn bà nước Anh … “, Nhưng vẫn cứ là tiếng Việt trong sáng, do cha ông sáng tạo, trau chuốt thành di sản, cho muôn đời sau tự tin làm chủ, sử dụng nhuần nhuyễn, phổ cập thành công cụ tư duy, phương tiện truyền bá tư tưởng, giao lưu quốc tế

Saigon thời trước gọi là cổ văn, giảng dạy kĩ lường ở bậc trung học, chuyên khoa. Không tréo ngoe yếu điểm là điểm yếu, bao biện là biện minh, khuất tất là mờ ám.. bác sĩ ghi biên bản “tử vong ngoại viện“ công an điều tra ngơ ngác, phải giảng giải mới hiểu “chết bên ngoài bệnh viện, chết trước khi đưa vào nhà thương cứu chữa “

Chạy được ngân sách 9.000 tỉ đồng cho dự án dạy và học ngoại ngữ tiếng Anh, tiếng Pháp bậc phổ thông, bộ trưởng giáo dục nói nhịu thêm tiếng Trung chữ Hán, cho tròn 16 chữ vàng, 4 tốt.

Đương thời thủ tướng, ông Võ Văn Kiệt có chuyến công du sang Pháp. Ông nghe quân sư đi gặp Hoàng Xuân Hãn. Bảo vệ thành công luận án thạc sĩ toán, Hoàng Xuân Hãn về nước dạy học trường Bưởi, soạn Danh từ khoa hoc, tham gia hội Truyền bá quốc ngữ, bày lối học tắt đánh vần “i tờ “, xoá nhanh nạn mù chữ trong dân. Làm bộ trưởng giáo dục chính phủ Trần Trọng Kim bốn tháng ngắn ngủi năm 1945. Hoàng Xuân Hãn quyết định dạy và học từ tiểu học đến đại học hoàn toàn bằng tiếng Việt cho đến nay. Rời chính trường năm 1945, Hoàng Xuân Hãn trùm mềm nghiên cứu chữ Nôm, chế tác từ chữ Hán luôm thuộm tượng ý, tượng hình, tượng âm, áp nghĩa à uôm, không theo một qui tắc nào, cứ phải phỏng đoán chữ Tác thành chữ Tộ. Chữ Nôm ấy cột chết tri tuệ Việt bạc nhược trong Hán học tăm tối. Chữ quốc ngữ ra đời, giải cứu dân tộc khỏi vòng kim cô Hán học tắc tị, thoát Trung. Chữ quốc ngữ khai sinh báo chí, Gia Định báo năm 1885, sách truyện Thầy Lozaro Phiền giữa Saigon, dần dà trở thành dòng văn xuôi tự sự, diễn giải, biện luận, đảm đang chức năng khai phóng, nâng dân trí, chấn dân khí. Chữ quốc ngữ kịp thời mở mắt thực dân Pháp thấy tiếng Việt là một ngôn ngữ ngang tầm tiếng Pháp về khả năng diễn giải mọi ngành, mọi trình độ tri thức mà bãi bỏ ý tưởng thực dân đưa tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính ở Đông Dương. như ở các thuộc địa Phi châu thuộc Pháp. Hiện nay, 29 quốc gia độc lập ở châu Phi vẫn dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính – khối Pháp ngữ Francophone.

Chỉ mấy ngày sau ông Võ Văn Kiệt về nước, biển đề tên phố Alexandre de Rhodes rực rỡ màu sơn mới được khôi phục trên con phố cận kề dinh Đôc Lập trước 75, nay là Thống Nhất. Từ đấy, tết đến, một đoạn đường Duy Tân rợp bóng me xanh ngày xưa, Phạm Ngọc Thạch ngày nay, thành phố ông đồ cho chữ, nhưng là chữ quốc ngữ viết cách điệu bay bổng, hoa mĩ. Không như chợ bán toàn chữ Hán mặt tiền Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội. Kì một nỗi, rất phổ biến chữ nhẫn – chữ đao trên đè chết chữ tâm bên dưới. Năm mới, nhà ông đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng trang hoàng một chữ “Nhẫn“ thư hoạ mực tàu, trên giấy hồng điều. Sao lại nhẫn – nhẫn nhục, nhẫn nhục giặc Tàu lấn biên cương, cướp đảo. ép kinh tế- chánh trị đủ đường ư!?

Tết âm lịch mang danh con chuột 2020, Trung tâm lưu trữ quốc gia trống chiêng khai trương triển lãm 100 phiên bản châu phê bút tich chữ Hán của các vua triều Nguyễn. Chế độ này đâu ưa phong kiến nhà Nguyễn. Hiển nhiên triển lãm công khai phô trương, tâng bốc chữ Hán, như một tín hiệu khôi phục Hán học chết tiệt. Vắng tanh, chẳng ma nào vào, một hai ngày sau tắt điện, đóng cửa im ỉm.

Khinh khi tiếng mẹ đẻ, ông nhà thơ mang lon đại tá Nguyễn Hữu Thỉnh ngồi ì ghế chủ tịch hội nhà văn hàng chục năm hoắng lên làm sang, bắt dịch khẩu hiệu ngày thơ Việt Nam lần thứ XVII năm 2019 “Non sông trên vai“ sang tiếng Anh giả cầy “Mountains and rivers on the shoulder”. Thế là lòi cái đuôi dốt tiếng Việt quá chừng. Từ kép đẳng lập “non sông“ hoán dụ thành tổ quốc, quê hương. Một học trò phổ thông có học tiếng Anh cũng dễ dàng dịch đúng: Homeland, motherland. Hơn nữa, đây là khẩu hiệu của các nhà thơ, “trên vai“ không thể trung tính the shoulder mà phải rõ ràng trên vai thi sĩ đã thành chiến sĩ: our shoulder.

Không thể nào khác. Tiếng Việt nay oằn lưng cõng chức năng phi ngôn ngữ: tuyên truyền bỉ ổi, tuyên truyền xảo trá. Ông phó chủ tịch thành phố Hồ Chí Minh, Võ Văn Hoan ngang nhiên dẫn câu hát “phố bỗng là dòng sông uốn quanh” nhâng nháo ca tụng: “Ngập của thành phố phần nào là một hình ảnh rất đẹp“.

Nhà thơ Lưu Quang Vũ kêu than “Tiếng Việt ơi, tiếng Việt xót xa tình”.

Dịch giả Dương Tường nhờ nhà xuất bản Nhã Nam xuất bản không tiền tác quyền để phổ biến quốc tế Truyện Kiều trong bản diễn giải Dương Tường – tiếng Anh “Kieu in Duong Tuong’s version“ để trả nợ tiếng Việt đã nuôi dưỡng ông thành người, đáp lại lớp trẻ ngày nay trên đài truyền hình quốc gia Vờ Tờ Vờ làm mất đi sự trong sáng tiếng Việt nhiều quá.

Tiếng Việt cùng chữ quốc ngữ trải qua một quá trình dài lâu, khắc nghiệt những thử thách cam go để hình thành, phát triển, trưởng thành thành một bộ phận cơ hữu tinh thần, trí tuệ dân tộc, ngày một trong sáng, hay đẹp, thăng hoa cùng dân trí được khai phóng. Song cũng có khi tạm thời mất thăng bằng, trong sáng, ngọng nghịu, què quặt, thui chột vì sự xử sự thô bạo, kém trí tuệ của giới cầm quyền bá đạo.

Cách nay hơn nửa thế kỉ, nhạc sĩ Phạm Duy hát bài Tình ca: Tiếng nước tôi bốn nghìn năm ròng rã buồn vui. Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi.

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 19-8-20

Nguồn: viet-studiesnet ngày 19-8-20