Hướng tới sự trưởng thành toàn diện
Lời hướng dẫn

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
Tài liệu tĩnh tâm – 3/2020

Lời hướng dẫn

Các bạn thân mến,

Trong mùa dịch Covid-19, trùng hợp với Mùa Chay và Mùa Phục Sinh 2020, chúng ta có thể có nhiều ngày rảnh rỗi. Vì thế, chúng ta được mời gọi sử dụng thời gian này để tìm về với Chúa, với tha nhân, với vạn vật và với chính mình bằng một cuộc tĩnh tâm tự nguyện theo chủ đề: “Hướng tới sự trưởng thành toàn diện”, mà Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGMVN) đã mời gọi toàn thể cộng đồng tín hữu năm nay.

Tuần tĩnh tâm này sẽ dựa trên 2 tông huấn (TH) của Đức Thánh Cha Phanxicô:

– Tông huấn “Hãy vui mừng hoan hỉ” (Gaudete et Exsultate) về ơn gọi nên thánh trong thế giới ngày nay.

– Tông huấn “ Đức Kitô đang sống” (Christus vivit) gửi tới những người trẻ và toàn thể Dân Chúa.

Vì thế, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu vài điểm căn bản của hai tông huấn này và giới thiệu một vài hoạt động nên làm trong tuần tĩnh tâm.

1. Tông huấn “Hãy vui mừng hoan hỉ”

Lời Chúa mời gọi ta nên thánh, nên hoàn thiện bằng tình yêu: “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa các ngươi là Đấng Thánh” (Lv 19,1). “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Nhưng thánh thiện, hoàn thiện là gì? Có thể đạt được không? Và đạt được bằng cách nào?

1.1. Thánh thiện – hoàn thiện là gì?

ĐTC Phanxicô, vào ngày 19/3/2018, đã gửi cho tín hữu chúng ta một tông huấn có tên là Hãy vui mừng hoan hỉ (Gaudete et Exsultate) để trình bày về ơn gọi nên thánh trong thế giới ngày nay. Tông huấn có 177 số, chia thành 5 chương, giới thiệu lời mời gọi nên thánh theo một phương cách thiết thực cho thời đại chúng ta, một thời đại có nhiều rủi ro, thách đố và cơ hội. Đọc và suy niệm tông huấn, ta sẽ thấy việc trở nên thánh thiện, hoàn thiện vừa là một ơn gọi đầy ân huệ của Chúa, vừa là một sứ mệnh trong tầm tay của mỗi người, đồng thời vừa mang lại niềm vui, bình an, hạnh phúc cho những ai quyết tâm thực hiện ơn gọi đó.

Thánh thiện không phải là biến đổi để trở nên người hiểu biết rộng, có phẩm chất đạo đức cao, vượt lên hẳn người cùng thời, như Đức Phật Thích Ca, Đức Khổng Tử, Lão Tử, hay người có công to lớn trong lịch sử, được tôn thờ ở đền chùa như Đức Thánh Trần Hưng Đạo. Hoặc trở thành Đấng tạo ra trời đất, chúa tể muôn loài theo một số tôn giáo như Đức thánh Allah của đạo Hồi. Thánh thiện chính là phát huy được bản chất tốt đẹp của mỗi con người trong hoàn cảnh độc đáo của lịch sử, vì từng người chúng ta đã được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh của Ngài. Sống đúng phẩm giá cao quý của con người là ta thành thánh, vì Chúa là Đấng Thánh.

Chúa Giêsu hôm nay còn xác định rõ ràng hơn: đó là trở nên hoàn thiện. Nhưng hoàn thiện không phải là “biến đổi thành tốt và đầy đủ, đến mức thấy không cần phải làm gì thêm nữa”1. Cho đến phút cuối cùng của đời người, chúng ta vẫn phải khiêm tốn nhận rằng mình yếu đuối, thiếu sót, vẫn còn bị những tham vọng, dục vọng chi phối, nên không thể gọi là hoàn thiện được. Như thế chỉ có Chúa mới là hoàn thiện, còn ta chỉ cố gắng trở nên hoàn thiện mà thôi. Văn sĩ Locke nói một câu rất hay rằng: “Hoàn thiện là luật của Trời, tiến đến hoàn thiện là luật của người”.

1.2. Chúng ta có thể đạt được sự thánh thiện trọn hảo

Đọc hạnh các thánh trong dòng lịch sử, ta thấy nhiều vị thánh có những gương sáng anh hùng, làm được nhiều điều kỳ diệu, kết hợp đặc biệt với Chúa khi cầu nguyện đến nỗi khuôn mặt toả sáng, thân hình bay bổng lên cao, tác động đến vạn vật như cây cối, chim muông, thú dữ… Rồi nghĩ đến con người tầm thường, đầy tội lỗi của mình, ta lại thấy ơn gọi nên thánh dương như không phải dành cho ta, mà chỉ cho một ít người đặc biệt nào đó trong Hội Thánh.

ĐTC nhắn nhủ rằng: “Chúng ta không nên nản chí trước các mẫu gương thánh thiện dường như không thể đạt đến được đó. Một số chứng cớ có thể hữu ích và gợi hứng, nhưng không phải để chúng ta sao chép cuộc đời của các thánh nhân đó nơi ta, vì mỗi người nên thánh bằng mỗi cách khác nhau” (TH, số 11). Không thể có hai thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu hay hai thánh Gioan Bosco cùng được tôn vinh trên bàn thờ nhưng nhiều người cứ muốn trở thành một Têrêsa hay Gioan Bosco mới! Điều này thúc đẩy mỗi người dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa và đón nhận kế hoạch độc đáo mà Thiên Chúa tiền định cho chúng ta từ muôn thuở. “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã hiến thánh ngươi” (Gr 1,5; TH, số 13).

Tuy nhiên, vì đây là lời mời gọi của Chúa (x. Lv 11,44; 1Pr 1,16), nên chính Chúa Cha và Chúa Giêsu sẽ ban cho ta đầy đủ ân huệ để có thể thực hiện điều này như CĐ.Vaticanô II đã tuyên bố rõ ràng ở số 11 của Hiến chế Lumen Gentium: “Được trao ban nhiều phương tiện cứu độ dồi dào và cao quý như thế, tất cả các tín hữu, dù trong hoàn cảnh hay bậc sống nào, cũng đều được Chúa kêu gọi, để mỗi người mỗi cách, vươn tới sự thánh thiện trọn hảo như chính Chúa Cha là Đấng trọn lành” (TH, số 10).

1.3. Đạt được bằng cách nào?

“Chúng ta có thể đạt được sự thánh thiện trọn hảo bằng đời sống yêu thương và làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa trong mọi việc mình làm, ở mọi nơi mình sống” (TH, số 14).

Bài đọc I của Chúa nhật VII Mùa thường niên A (x. Lv 19,1-2.17-18) xác định: “thánh thiện là không để lòng ghét người anh em, không trả thù, không oán hận nhưng yêu đồng loại như chính mình”. Bài Tin Mừng của Chúa nhật này (x. Mt 5,38-48) còn xác định rõ hơn: hoàn thiện là không đánh trả người ác, hành động quảng đại để cho đi hơn cả cái họ đòi hỏi, thương yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi mình. Hành dộng như thế không phải là nhu nhược, hèn yếu, nhưng là yêu thương như Cha Trên Trời đã cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt và mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương… Chúng ta yêu thương tất cả vì mỗi người đều là con cái của Ngài. Khi yêu thương cách quảng đại, trong sáng, trọn vẹn như thế là ta trở nên thánh thiện như Thiên Chúa, vì Ngài là tình yêu và Đức Giêsu là Con Một Ngài dạy ta yêu thương như vậy. Những bác sĩ, y tá, điều dưỡng dám hy sinh mạng sống của mình để cứu giúp các bệnh nhân trong cơn đại dịch viêm phổi do virus Covid-19 là những vị thánh sống của thời đại hôm nay.

Trong chương II của Tông huấn, ĐTC Phanxicô giải thích cho ta hiểu hai khuynh hướng sai lầm về thánh thiện mà ngài gọi là thuyết Ngộ Đạo đương đại và thuyết Pêlagiô ngày nay. Hai thuyết này có mặt ngay từ những thế kỷ đầu tiên của Giáo Hội, bị lên án nhưng vẫn tồn tại và tác động âm thầm nơi tín hữu, khiến họ hiểu sai về sự thánh thiện đích thực. Thuyết Tân Ngộ Đạo nhấn mạnh đến thành quả của lý trí với những hiểu biết, nhận thức, cảm nhận nào đó về các mầu nhiệm, kinh nghiệm nhất định, rồi đóng kín và xem thường các mầu nhiệm khác. Thí dụ: như xác tín về Chúa Thánh Thần, về đức nghèo khó theo thánh Phanxicô, về tinh thần thơ ấu thiêng liêng của thánh Têrêsa… là tuyệt vời nhất. Thuyết Tân Pêlagiô lại quan tâm đến ý chí với hành động cụ thể nào đó và chối bỏ hay khinh chê hoạt động suy tư của lý trí và các hoạt động khác. Thí dụ: người ta coi việc tôn sùng lòng thương xót của Chúa là đủ để cứu độ, xem việc săn sóc bệnh nhân của dòng thánh Gioan Thiên Chúa là việc bác ái lớn lao nhất… (x. TH, số 36-62).

Vì thế, Đức Thánh Cha dạy rằng: muốn nên thánh thiện ta hãy học với Chúa Giêsu, là Đấng Thánh của Thiên Chúa và là tôn sư của con người, để thực hành Tám mối phúc của Người. Sống theo các mối phúc đó như: tinh thần nghèo khó, hiền hoà, sầu khổ, khao khát công chính, biết xót thương người, có lòng trong sạch, xây dựng hoà bình, sẵn sàng chịu bị bách hại, dường như có vẻ lội ngược dòng với con người trong xã hội hôm nay, nhưng thật sự là con đường dẫn tới sự hoàn thiện tuyệt vời (x. TH, số 63).

Điểm đặc biệt của sự thánh thiện hoàn hảo được ĐTC nhấn mạnh là niềm vui (x. TH, số 122-128), mà Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hoá, khơi dậy trong ta (x. Rm 14,17), vì con người chúng ta là đền thờ Thiên Chúa và Thánh Thần Chúa ngự trong ta, như Bài đọc II (x. 1Cr 3,16-23) nhắc đến. Niềm vui và hân hoan là đặc điểm của thánh thiện và cũng là tên gợi nhớ của Tông huấn. Vì thế, nếu chính mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn chưa cảm thấy vui mừng, hoan lạc trong cuộc sống, ta nên tìm hiểu xem mình đang thiếu sót gì trong ơn gọi thánh thiện này.

Lời kết

Ôn lại vài điểm về ơn gọi nên thánh để hiểu rằng sự thánh thiện không còn là một đích điểm xa vời hay kết quả vĩ đại, mà ta đang cố đạt tới. Nhưng đó là ơn gọi và sứ mệnh được ta thể hiện trong đời sống thường ngày.

2. Tông huấn “Đức Kitô đang sống”

Ngày 25/3/2019, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi tới những người trẻ và toàn thể Dân Thiên Chúa Tông huấn hậu thượng hội đồng có tên là Christus Vivit, nghĩa là Đức Kitô đang sống.

Giáo hội Công giáo Việt Nam cũng xác định chủ đề hoạt động năm nay là “Đồng hành với người trẻ hướng tới sự trưởng thành toàn diện”. Chúng ta sẽ cùng nhau ôn lại một vài điểm cơ bản của tông huấn này để giúp cho mình cũng như những người chúng ta sống với được trẻ trung, tươi mới và tràn đầy sức sống khi gặp được Đức Kitô.

2.1. Tình trạng già nua cằn cỗi của thế giới

Tông huấn gồm có 299 số, được chia thành 9 chương với nhiều điểm cô đọng vì được trích dẫn từ văn kiện kết thúc đại hội thường kỳ thứ 15 của Thượng Hội đồng Giám mục2. Trước khi học hỏi các điểm cơ bản của Tông huấn, có lẽ chúng ta nên tìm hiểu sơ qua tình trạng già nua, cằn cỗi của thế giới cũng như của cả Giáo hội Công giáo để thấy tại sao có thượng hội đồng về giới trẻ và tông huấn này.

2.2. Dân số mỗi ngày một già đi

Theo báo cáo Triển vọng dân số thế giới 2019 của Liên Hợp Quốc, vào ngày 7 tháng 12 năm 2019, dân số thế giới là 7.754.702.439 người. Việt Nam có 97.892.584 người, xếp thứ 15 trên thế giới, sau Trung Quốc 1,4 tỷ; Ấn Độ 1,3 tỷ; Hoa Kỳ 330 triệu; Indonesia 270 triệu; Brazil 213 triệu; Pakistan 206 triệu; Nigeria 203 triệu… Nhờ những cải thiện về y tế và kinh tế, con người sống khoẻ hơn, lâu hơn. Số người già mỗi năm nhiều hơn3.

Có khoảng 10.000 tôn giáo khác nhau trên thế giới. Nhưng có khoảng 84% dân số thế giới theo 1 trong 5 nhóm tôn giáo lớn nhất, đó là Kitô giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo hoặc các dạng tôn giáo dân gian. Tính đến tháng 12 năm 2019, Kitô giáo có khoảng 2,3 tỷ tín hữu, chiếm 31% dân số thế giới; Hồi giáo 1,5 tỷ; Ấn Độ giáo 900 triệu; Đạo giáo (hay Lão giáo) khoảng 400 triệu; tôn giáo dân gian Trung Quốc 394 triệu; Phật giáo 365 triệu4. Trong đó, theo thống kê của Vatican, có 1,313 tỷ người Công giáo, chiếm khoảng 17,7% dân số thế giới5.

Từ vài chục năm nay, kể từ khi kết thúc Công đồng Vaticanô II năm 1965, tỷ lệ Công giáo chỉ ở trong khoảng 17% dân số thế giới. Còn ở Việt Nam, từ năm 1885 khi kết thúc thời kỳ bách hại đạo khốc liệt đến nay, tỷ lệ Công giáo chỉ ở khoảng 7%. Dù số tín hữu có tăng theo đà tăng cơ học của dân số, nhưng số tín hữu mới nhập đạo không là bao so với người bỏ đạo, vì thế tỷ lệ hầu như vẫn giữ nguyên.

Một hiện tượng gây bức xúc là số tín hữu trẻ càng ngày càng vắng mặt trong các thánh lễ mỗi tuần, trong các sinh hoạt cộng đồng. Số tín hữu dự lễ Chúa Nhật ở các nước châu Âu chỉ chiếm khoảng 10%, ở Mỹ Châu khoảng 20%. Nhiều nhà thờ chỉ còn vài chục tín hữu dự lễ, đa số là các người lớn tuổi. Nhiều nơi, giới trẻ hoàn toàn vắng bóng trong mọi sinh hoạt tôn giáo. Nhiều linh mục ở châu Âu phải coi sóc vài chục xứ đạo vì mỗi xứ đạo chỉ còn vài chục tín hữu già nua. Số người trẻ đi tu để làm linh mục hay tu sĩ rất ít, dẫn đến phải đóng cửa nhiều nhà thờ, nhiều chủng viện, dòng tu.

Ở Việt Nam, sau năm 1975, sinh hoạt tôn giáo khá mạnh mẽ. Các nhà thờ vẫn còn đầy tín hữu dự lễ Chúa Nhật và cả lễ hằng ngày. Các bạn trẻ hăng hái tham dự các hội đoàn, ca đoàn, các lớp giáo lý, các lớp học hỏi Thánh Kinh và sinh hoạt mục vụ dành cho những hoạt động từ thiện, bác ái. Tuy nhiên, từ năm 2000 đến nay, việc tham dự của giới trẻ vào các sinh hoạt tôn giáo mỗi năm một giảm sút theo chiều hướng chung của người trẻ trên thế giới.

Tình trạng già cỗi được biểu lộ qua mấy đặc điểm sau đây: cảm thấy khó khăn trong việc hoà nhập với mọi người chung quanh, cảm thấy lạc lõng giữa bạn bè cùng trang lứa, không thích những cái mới lạ và muốn giữ những cái gọi là truyền thống, thích dành thời gian ở một mình, yên tĩnh, thích hoà mình vào thiên nhiên hơn là cộng đồng xã hội hiện tại.

Tình trạng già cỗi được ví như những cây cối: chúng cằn cọc, không lớn lên được vì hết nhựa sống. Người tín hữu Công giáo cũng trở nên già nua cằn cỗi khi thấy mình nặng nề, yếu đuối, mất dần sức sống, không mở tâm trí để đón nhận những điều mới mẻ mà chỉ bám vào những gì cũ kỹ, lỗi thời gọi là truyền thống, không còn sức thu hút người khác đến với Đức Giêsu Kitô nên việc truyền đạo không mấy kết quả, chúng ta muốn sống an thân thay vì dấn thân vào mọi môi trường sống để làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô.

2.3. Nguyên nhân của tình trạng già nua, cằn cỗi

Đại hội thường kỳ thứ 15 của Thượng Hội đồng Giám mục được tổ chức tại Rôma vào tháng 10 năm 2018 với chủ đề “Người trẻ, đức tin và sự phân định ơn gọi”. Mục đích là để giúp người trẻ hướng tới sự trưởng thành trong hành trình đời sống. Thượng Hội đồng đã phân tích tình trạng già nua, cằn cỗi của giới trẻ của thế giới cũng như của Giáo Hội do một số nguyên nhân chính sau đây:

– Người trẻ đang sống trong một thế giới khủng hoảng: trong các vùng chiến tranh hoặc trải qua bạo lực dưới muôn vàn hình thức khác nhau: bắt cóc, tống tiền, tội phạm có tổ chức, buôn người, nô lệ, bóc lột tình dục. Nhiều người trẻ bị lôi cuốn vào các tội ác: lính trẻ em, buôn bán ma tuý, khủng bố dẫn đến lạm dụng, bạo lực, nghiện ngập.

– Người trẻ bị cuốn vào một số hệ tư tưởng như chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa cá nhân, hiện sinh, vô thần, chủ nghĩa hưởng thụ ích kỷ, chủ nghĩa duy vật vô thần…làm mất đi các giá trị thật sự của con người.

– Nhiều người trẻ bị đẩy ra bên lề xã hội và bị loại trừ về phương diện xã hội (như giai cấp), vì các lý do tôn giáo, sắc tộc hoặc kinh tế, dẫn đến các phụ nữ mang thai đơn thân, nhiễm HIV, các hình thức nghiện ngập (ma tuý, bài bạc, khiêu dâm, trò chơi trực tuyến), trở thành những người vô gia đình, trẻ em đường phố (TH, số 71-74).

– Sự vô cảm của khá nhiều tín hữu vì họ đang sống đầy đủ, an toàn, đóng kín nên không cảm nhận được nỗi khổ đau của người trẻ (số 75-77).

– Sự thờ ơ hoặc bất lực của chính quyền trước những tội ác. Chính sách thực dân khai thác bóc lột người trẻ (số 78), các công ty khai thác sự trẻ trung, đam mê, vẻ đẹp trên thân xác người trẻ (số 79).

– Sự căng thẳng có khi xung đột giữa hai thế hệ già trẻ, do khác biệt về trình độ văn hoá, không thấu hiểu nhau (số 80).

– Những khám phá mới về tính dục thu hút người trẻ, nhưng Giáo Hội lại ngại ngùng, có khi lên án những vấn đề liên quan đến tính dục (số 81).

– Các tiến bộ về khoa học, nhất là y học, đặt ra nhiều vấn nạn cho người trẻ nhưng không được Giáo Hội quan tâm giải đáp (số 82).

– Người trẻ khát khao được yêu thương, được tha thứ những tội lỗi, được cảm thông vì những thiếu sót nhưng họ lại ít được đón nhận điều đó (số 83-84).

– Nền văn hoá kỹ thuật số ảnh hưởng sâu sắc và làm xáo trộn đời sống người trẻ: thời gian, không gian, nhận thức về bản thân, về người khác và thế giới, thay đổi các mối tương quan dẫn đến một số ích lợi và nhiều tai hại (số 86-90).

– Nhiều triệu người trẻ bị ảnh hưởng bởi hiện tượng di dân dẫn đến việc thay đổi đời sống về nhiều mặt (số 91-94).

– Lạm dụng dưới nhiều hình thức đã xảy ra: lạm dụng về quyền lực, lương tâm, tình dục và tài chính trong lòng Giáo Hội do một số giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân gây ra khiến nhiều người, nhất là giới trẻ, xa lánh Giáo Hội, không muốn đi tu, bắt nguồn từ chủ nghĩa giáo sĩ trị (số 95-102).

– Nên khảo sát thêm về tình hình giới trẻ của mỗii quốc gia, miền đất, giáo phận, giáo xứ hay cộng đoàn mình có những điểm riêng biệt nào ngoài những điểm trên đây (x. số 103).

2.4. Tại sao ta có thể và phải tìm lại sự trẻ trung, tươi mới?

Chúng ta có thể và phải tìm lại sự trẻ trung, tươi mới trong tư cách là con người có tinh thần và là tín hữu Công giáo.

Vì là con người có tinh thần

Tinh thần con người không bao giờ là già cỗi. Vì tinh thần của con người là hình ảnh của Thiên Chúa nên luôn mở ra với siêu việt và hướng tới vô biên (x. HTXHCG, số 130).. “Sự tươi trẻ không chỉ đơn giản là một khoảng thời gian sống, nhưng là một trạng thái của tinh thần” (x. TH, số 34). Tinh thần vì không bị lệ thuộc vào vật chất nên không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Con người ở tuổi nào cũng vẫn có thể có một tinh thần trẻ trung, dù xác thân có già nua, yếu đuối, tật bệnh.

Vì là tín hữu Công giáo

Mỗi tín hữu là thành phần của Giáo Hội và là chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô. Giáo hội Công giáo, dù là một cơ chế cổ xưa, với 2000 năm tuổi, “Giáo Hội có thể trải nghiệm sự đổi mới và trở lại tươi trẻ ở những thời điểm khác nhau trong lịch sử lâu đời của mình… Công đồng Vaticanô II đã lưu ý rằng: ‘Trở nên phong phú với một lịch sử lâu dài và sống động, và tiến tới sự hoàn thiện nhân bản trong thời gian và trong những vận mệnh tối hậu của lịch sử và cuộc sống, Giáo Hội chính là sự tươi trẻ đích thực của thế giới’. Nơi Giáo Hội người ta luôn có khả năng gặp gỡ Đức Kitô, Đấng luôn là người đồng hành và là người bạn của giới trẻ”. (x. CĐ.Vat.II, Sứ điệp dành cho giới trẻ, 7/12/1965, số 18; TH, số 34).

Chúng ta phải tươi trẻ vì “Đức Kitô, đang sống. Người là niềm hy vọng của chúng ta và Người mang sự trẻ trung đến với thế giới của chúng ta một cách thật tuyệt vời, và mọi sự được Người chạm tới đều trở nên trẻ trung, tươi mới, tràn đầy sức sống” (số 1). Đức Kitô đó đang ở trong ta, ở cùng ta, đang kêu gọi ta, đợi chờ ta trở về để xuất phát lại từ đầu. Khi ta cảm thấy mình già đi vì buồn phiền, oán hận, sợ hãi, nghi ngờ, thất bại, Người vẫn ở đó để phục hồi sức mạnh và niềm hy vọng của ta (số 2).

Cứ mở lại Thánh Kinh và đặc biệt Tin Mừng, ta sẽ thấy Đức Giêsu luôn trẻ trung và là gương mẫu cho người trẻ để ta có thể biến đổi nên giống như Người (số 5-21, 22-32).

Đức Thánh Cha đã giới thiệu những khuôn mặt trẻ trung của Thánh Kinh Cựu Ước như Giuse (x. St 37,2-3), Ghedeon (x. Tp 6,13), Samuel (1Sm 3,9-10), David (x. 1Sm 16,6-13), Salomon (x. 1V 3,7) (x. TH, số 5-11) hay Tân Ước như Maria (x. TH, số 43-48) và một số vị thánh trẻ trong dòng lịch sử của Giáo Hội như các thánh tử vì đạo, thánh Sebastianô, Phanxicô Assisi, Gioana d’ Arc, Anrê Phú Yên… (x. TH, số 49-63) để ta hiểu mình có thể và phải trẻ trung trở lại.

2.5. Làm sao để tìm lại được sự trẻ trung

Cần phải theo một tiến trình nếu muốn tìm lại được sự trẻ trung cho mình. Cũng như từ sự trẻ trung của mỗi cá nhân, ta giúp cho Giáo hội Công giáo và thế giới đạt được sự trẻ trung, tươi đẹp, năng động của người trẻ. Đây là một tiến trình dài, nhưng với ơn Chúa, chúng ta có thể đạt được vì Đức Kitô đang sống trong ta và trong thế giới.

Tiến trình này khởi đầu bằng một nhận thức căn bản: “Chúng ta là con cái Thiên Chúa, Đấng muốn ta trẻ trung” (số 64). Chúng ta, cũng như người trẻ, không phải chỉ nói rằng: mình là tương lai của thế giới, nhưng chúng ta là chính hiện tại của thế giới vì đang đảm nhận những trách nhiệm, đang làm phong phú thế giới bằng chính đời sống thực tế của mình.

Tiếp đến là 3 chân lý cao cả về Thiên Chúa Ba Ngôi mà ta phải xác tín và thể hiện trong đời sống: Thiên Chúa yêu thương ta bằng tình yêu vô biên và muôn thuở, tình yêu của Ngài sẽ nâng đỡ ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời (số 112-117).

– Đức Giêsu là tình yêu cụ thể của Thiên Chúa, Người đã yêu ta đến cùng bằng cái chết trên thập giá để cứu chuộc ta và sống lại để giúp ta tươi trẻ mãi mãi (số 118-123).

– Đức Kitô hằng sống (số 124-133) hiện diện mọi nơi, mọi lúc trong đời ta để giúp ta chiến thắng cái sai, cái ác, cái xấu, để ban cho ta niềm vui và hạnh phúc viên mãn, để chia cho ta sự sống kỳ diệu của Thiên Chúa và quyền năng vô tận của Ngài nhờ những ân huệ Thánh Thần. Chính Thánh Thần là thần khí ban sự sống sẽ dẫn ta vào tình yêu muôn thuở của Thiên Chúa (Rm 5,5) để làm cho tất cả được trẻ trung mãi mãi (x. Gr 17,8) (x. TH, 124-133).

Tuỳ theo tình trạng mỗi người và hoàn cảnh xã hội, mỗi người chúng ta cũng như các tổ chức cộng đồng: phải vạch ra được lộ trình của tuổi trẻ (số 134-178), những mối tương quan với các thành phần khác trong xã hội (số 180-201), xác định được những hoạt động của mình trong các môi trường khác nhau (số 203-247), với những ơn gọi khác nhau (số 248-277) để phân định được ơn gọi của mình (số 278-286) nhờ kết hợp với Chúa Giêsu Kitô (số 287-290) và đồng hành với mọi người (số 291-298).

Lời kết

Như thế sự trẻ trung, cũng giống như sự thánh thiện, không phải là những ân huệ ở ngoài đưa vào trong con người, mà nằm trong chính con người, thể hiện ngay trong những hoạt động hằng ngày của ta vì Đức Giêsu Kitô luôn sống động trong ta.

3. Giới thiệu công việc nên làm

3.1. Tài liệu tĩnh tâm

Chúng tôi gửi đến từng tham dự viên tập tài liệu tĩnh tâm Hướng tới sự trưởng thành toàn diện. Tập tài liệu này gồm 27 bài, chia thành 3 phần, để giúp suy niệm hay đọc thêm với các câu hỏi gợi ý ở mỗi cuối bài.

Sự trưởng thành toàn diện đòi hỏi ta phải biết mình là ai và nền nhân bản đang được Giáo hội Công giáo cổ vũ để tập trung vào Đức Giêsu Kitô hằng sống là gì. Đó là nền nhân bản toàn diện và liên đới tạo nên nền văn hoá Công giáo với những giá trị căn bản như sự thật, sự sống, tình yêu, tự do, công bằng và hành động được các tài liệu Giáo Hội thường xuyên nhắc nhở từ Công đồng Vaticanô II đến nay, nhất là trong cuốn Tóm lược Học thuyết Xã hội Công giáo và cuốn Docat. Các giá trị này được trình bày trong phần đầu của tập tài liệu.

Phần thứ hai mời gọi chúng ta để ý đến con người Việt Nam của mình với những nét đặc thù, như ĐTC Phanxicô nhắc nhở trong tông huấn Đức Kitô đang sống, để chúng ta đạt tới sự trưởng thành toàn diện trong bối cảnh xã hội hiện nay của đất nước và Giáo Hội.

Phần thứ ba giới thiệu cho chúng ta những hành động trong cuộc sống hằng ngày với tất cả ý thức và tự do. Những hành động như ăn uống, ngủ nghỉ, học hành, làm việc, nói năng, tắm rửa… khi được thực hiện với Đức Kitô hằng sống sẽ dẫn ta đến sự trưởng thành cũng là sự thánh thiện thật sự.

Chúng tôi cũng xin lỗi vì tập tài liệu này còn nhiều chỗ chưa hoàn chỉnh do đây chỉ mới là bản biên soạn vội cho kịp tuần tĩnh tâm bất ngờ. Chắc chắn tập tài liệu còn nhiều thiếu sót, nhưng chúng tôi muốn gửi đến các bạn trong tháng kính Thánh Cả Giuse để tôn vinh thánh bổn mạng và xin Người chuyển cầu cho tất cả chúng ta. Đây cũng là món quà trao tặng cho nhau trong Mùa Phục Sinh để tìm lại niềm vui và hy vọng trong cơn đại dịch Covid-19. Chúng tôi rất mong được các bạn sửa chữa những thiếu sót trong tập tài liệu này. Chúng tôi xin hết lòng cảm ơn.

3.2. Vài công việc đề nghị

– Cầu nguyện: ngoài những giờ suy niệm và kinh nguyện cộng đồng, chúng tôi cũng đề nghị tham dự viên có thể lần hạt, đi Đàng Thánh giá và cả Đường Ánh sáng theo thánh Ingnatiô Loyola để tạo sự quân bình trong đời sống đạo đức. Tham dự viên có thể sử dụng cuốn Bạn là lời cứu độ, trang 91-141.

– Làm bảng tổng kết năm cũ và hoạch định năm mới: tĩnh tâm năm là dịp để chúng ta nhìn lại mọi sinh hoạt của năm cũ và hoạch định những chương trình, kế hoạch cho năm mới. Dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ nhận ra những điểm tốt xấu để sửa đổi, tăng cường hay loại bỏ cho phù hợp với kế hoạch tổng thể của Thiên Chúa trong đời sống mỗi người. Tham dự viên có thể tìm hiểu cách thực hiện công việc này trong cuốn Bạn là lời cứu độ, trang 28-65.

3.3. Lời cảm tạ

Tuần tĩnh tâm trong mùa đại dịch Covid 19 như một sự an bài của Thiên Chúa để chúng ta nhìn lại mình trong mùa Chay thánh, tìm hiểu kỹ hơn về những đòi hỏi của ơn gọi nên thánh và hành động quảng đại hơn để tìm lại sự trẻ trung cho mình và cho cộng đồng khi kết hợp với Chúa Giêsu Phục Sinh.

Cầu chúc mọi người luôn bình an, khoẻ mạnh và tràn đầy Thánh Thần Tình Yêu trong mùa đại dịch này. Xin Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.

Trân trọng,

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn


Các đề tài được trình bày theo 3 phần chính:

I. Văn hoá Công giáo: nhân bản tâm linh

Bài 1: Con người là gì, là ai
Bài 2: Xây dựng nền nhân bản toàn diện và liên đới
Bài 3: Con đường sự thật giải thoát ta
Bài 4: Tình yêu trong kế hoạch tổng thể của Thiên Chúa
Bài 5: Những con người tự do
Bài 6: Giá trị của công bằng
Bài 7: Vươn tới sự sống dồi dào và sung mãn
Bài 8: Bốn nguyên tắc hành động trong xã hội

II. Cuộc hội nhập văn hoá của người Công giáo Việt Nam

Bài 9: Cuộc hội nhập văn hoá trong lịch sử Việt Nam
Bài 10: Cấu trúc văn hoá xã hội của người Việt
Bài 11: Cuộc hội nhập văn hoá của Giáo hội Việt Nam
Bài 12: Con đường tình yêu mở rộng cho mọi người
Bài 13: Đức Giêsu Kitô là con đường sự thật và sự sống
Bài 14: Thở được linh khí của Trời

III. Nếp sống văn hoá Việt Nam

Bài 15: Ăn để hoà nhập vào sự sống và tình yêu
Bài 16: Uống nước nhớ nguồn
Bài 17: Mặc lấy con người mới
Bài 18: Học với người Thầy tuyệt vời
Bài 19: Nói Lời cứu độ
Bài 20: Chữ cũng là người
Bài 21: Làm tốt cho đời
Bài 22: Chơi đẹp
Bài 23: Bước đi trong ánh sáng
Bài 24: Đi tìm nguồn đẹp
Bài 25: Tẩy sạch bụi trần
Bài 26: Giấc ngủ an bình
Bài 27: Về với cội nguồn

Hướng tới sự trưởng thành toàn diện
Bài 1: Con người là gì, là ai?

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
Tài liệu tĩnh tâm – 3/2020

Lời mở

Kể từ lúc con người biết suy tư (homo sapiens) xuất hiện khoảng 200.000 năm trước cho đến ngày nay với khoảng 7,7 tỷ người đang sống trên trái đất[1], con người không ngừng tìm kiếm câu trả lời về lai lịch của mình – Con người là gì, là ai? (CĐ.Vat II, Hiến chế Gaudium et Spes, số 8) -, về chỗ đứng và vai trò của con người trong xã hội và vũ trụ, về cùng đích của con người và muôn vật (CĐ.Vat II, GS, số 3). Nhờ những khám phá mới mẻ của các ngành khoa học hiện đại, con người có nhiều điều kiện hơn để tìm hiểu về chính mình và trả lời cho các vấn đề trên.

1157c10730413a3

1. Con người là ai hay là gì?

Cuộc tranh luận giữa hai dòng tư tưởng: “con người là ai” như một chủ thể biết suy tư và “con người là gì” như một tổng hợp các yếu tố vật chất kéo dài từ nhiều ngàn năm nay và có thể kết thúc khi chúng ta tìm ra được một định nghĩa đúng đắn về con người.

1.1. Những định nghĩa khác nhau

Theo Từ điển Tiếng Việt: Con người là động vật tiến hoá nhất, có khả năng nói, tư duy, sáng tạo và sử dụng công cụ trong quá trình lao động[2].

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: Con người là sinh vật thuộc giống người, đánh giá trình độ phát triển cao của cơ thể sống trên trái đất[3].

tein hoa darwin 2

Theo Từ điển Công giáo Anh-Việt: Con người là một hữu thể vừa thể xác, vừa tinh thần (GLHTCG, số 362) tạo thành một thể duy nhất (GLHTCG, số 365). Linh hồn thiêng liêng được Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng. Thân xác sẽ hư hoại, nhưng linh hồn bất tử, không hề hư mất khi lìa khỏi xác trong giờ chết và sẽ tái hợp với thân xác trong ngày phục sinh cánh chung (GLHTCG, số 366)[4]. Con người là một ngôi vị được Thiên Chúa tạo dựng để liên hệ với Ngài. Chỉ trong mối liên hệ này, con người mới tìm được sự sống, thể hiện được chính mình và hướng đến Thiên Chúa một cách tự nhiên[5].

Theo Từ điển Công giáo: Con người là thụ tạo hồn-xác, nam và nữ – được Thiên Chúa tình thương dựng nên theo hình ảnh của Ngài và được ban quyền làm chủ vũ trụ (x. St 1,26 – 2,25; GLHTCG, số 369)[6].

Hai định nghĩa đầu tiên tìm hiểu “con người là gì” trong dòng tiến hoá của vạn vật. Hai định nghĩa sau nhận định “con người là ai” trong mối tương quan với nguồn gốc là Thiên Chúa và với muôn loài trong vũ trụ. Để tìm được định nghĩa đúng đắn, chúng ta sẽ sử dụng những dữ liệu của khoa học mới mẻ nhất để khám phá con người trong dòng tiến hoá, rồi mới xác định con người trong các mối tương quan.

1.2. Khoa học khám phá con người

Sau nhiều chục thế kỷ chìm đắm trong các huyền thoại của các dân tộc và tôn giáo, con người đặt niềm tin vào khoa học vì “khoa học là hệ thống tri thức tích luỹ trong quá trình lịch sử và được thực tiễn chứng minh, phản ánh những quy luật khách quan của thế giới bên ngoài cũng như những hoạt động của tinh thần con người, giúp con người có khả năng cải tạo thế giới hiện thực[7]. Chúng ta có thể lưu ý một vài cột mốc của vài ngành khoa học giúp con người khám phá ra chính mình.

Từ thế kỷ XII, các đại học được mở ra trên vài nước ở châu Âu, thúc đẩy con người tìm hiểu một cách khách quan về vạn vật, trong đó có con người. Những tiến bộ về Y khoa và Dược khoa giúp cho con người có thể chữa lành bệnh tật, thoát khỏi cái chết trước mắt, thay thế được những bộ phận hư hỏng trong cơ thể khiến con người thấy mình không còn phải là món đồ chơi trong tay các thần linh hay hoàn toàn thụ động trước sự an bài của Thiên Chúa.

con-nguoi-la-ai

– Học thuyết Tiến hoá của C. Darwin (1809-1882). Năm 1859, nhà tự nhiên học người Anh này đã xuất bản cuốn “Nguồn gốc các loài” đề xướng giả thuyết về tiến hoá sinh học: mọi loài sinh vật sinh ra không phải do Chúa Trời hay thần thánh, mà là xuất hiện và phát triển nhờ quá trình chọn lọc tự nhiên. Trong quá trình này, những biến dị cá thể hay biến dị di truyền nhỏ nhất, nếu làm tăng khả năng cạnh tranh, sinh tồn và sinh sản của cá thể sẽ được chọn lọc (được giữ lại, củng cố và tăng cường), trở thành đặc điểm thích nghi… Người ta đã đưa học thuyết này vào trong nhiều ngành khoa học, trong nhiều hệ tư tưởng để ám chỉ tới nguồn gốc sự sống: ví dụ sự sống con người do ngẫu nhiên mà có[8].

images555537_1Thuyết Big Bang (Vụ nổ lớn) là mô hình vũ trụ học, miêu tả giai đoạn sơ khai của sự hình thành vũ trụ. Vụ nổ lớn xảy ra cách đây 15 tỷ năm và được các nhà vũ trụ học coi là tuổi của vũ trụ. Chính xác là 13,8 tỷ năm theo tính toán từ tàu Planck năm 2013. Lý thuyết này do nhà vũ trụ, cũng là linh mục, Georges Le Maître đề xuất: một nguyên tử nguyên thuỷ ở một trạng thái cực nóng và đậm đặc đã phát nổ và các hạt bụi hình thành nên các thiên hà, trong đó có thiên hà của chúng ta. Thuyết này được nhiều nhà bác học, vũ trụ học chứng minh như Albert Einstein, Alexander Friedmann, Hoyle, E. Hubble[9]. Thuyết Big Bang như một cách giải thích nguồn gốc hình thành vũ trụ mà không cần đến một đấng sáng tạo nào.

Khoảng 12 tỷ năm trước, mặt trời là ngôi sao xuất hiện trong thiên hà này. Khoảng 8 tỷ năm trước, trái đất là một hành tinh tách ra từ mặt trời. Các chất khởi đầu như C H O N phối hợp với nhau. Hydro phối hợp với Oxy thành nước. Các chất vô cơ phối hợp với nhau càng ngày càng phức tạp. Rồi đến các chất hữu cơ xuất hiện. Khoảng 1 tỷ năm trước, tế bào sống đầu tiên xuất hiện, rồi đến các đa bào, các sinh vật hạ đẳng cho đến các sinh vật thượng đẳng dần dần xuất hiện theo thuyết tiến hoá của Darwin.

Sự tiến hoá của loài người. Theo sinh vật học, con người được xếp vào linh trưởng, thuộc họ người. Trên cây tiến hoá, loài linh trưởng phân nhánh từ những nhóm thú khác cách đây từ 65 triệu năm. Trong nhóm linh trưởng, con người có chung các đặc điểm giải phẫu với nhóm khỉ dạng người, xuất hiện ở Đông Phi cách đây 20 triệu năm. Khoa học cho thấy người và tinh tinh có chung tổ tiên cách đây khoảng 5-8 triệu năm. Nhưng loài người có hai đặc điểm chính: đi thẳng đứng trên hai chân và có não bộ lớn: sọ người có thể tích từ 1.100-1.700cm3, trong khi sọ tinh tinh 300-500cm3. Tinh tinh sống thành từng nhóm lớn, có trật tự xã hội với các cử chỉ thể hiện sự quan tâm chăm sóc như bắt ve bọ cho nhau. Tổ chức xã hội của con người phức tạp hơn nhiều. Dù tinh tinh có thể học cách sử dụng ngôn ngữ dấu hiệu, nhưng con người là loài duy nhất có thể truyền đạt các ý tưởng và suy nghĩ qua các hệ thống ngôn ngữ phức tạp[10].

tien hoa darwin 3

Các tổ tiên của loài người: nhờ những khám phá mới trong ngành cổ sinh vật về phương pháp so sánh protein và ADN của các loài, người ta xây dựng cây gia hệ và phân tích các di tích hoá thạch của loài người cách chính xác hơn và đẩy lùi niên đại của các tổ tiên ban đầu của tông người xa hơn.

Hoá thạch cổ xưa nhất là Sahelanthropus tchadensis ở Đông Phi cách đây 7-6 triệu năm: đứng thẳng trên hai chân, lỗ tuỷ sống chui ra khỏi sọ não, thể tích não khoảng 300cm3. Chi vượn người phương Nam (Australopithecus) xuất hiện khoảng 4-3 triệu năm trước: tư thế đi thẳng nhưng chưa có bàn chân dài và não bộ lớn như chi Người (380-485cm3). Homo erectus là loài đầu tiên trong tông người rời khỏi châu Phi và sang đến Trung Quốc, Indonesia, Việt Nam xuất hiện cách đây 1,8 triệu – 30.000 năm, não 750-1300cm3.

Homo heidelbergensis tồn tại ở châu Phi và châu Âu cách đây khoảng 600.000-100.000 năm, não 1100-1400cm3, tiến hoá thành người Neanderthal ở châu Âu xuất hiện 400.000-28.000 năm, não khoảng 1412cm3 và thành người hiện đại (Homo sapiens), do Richard Leakey – nhà nhân chủng học người Kenya – tìm thấy ở niềm Nam Ethiopia cách đây khoảng 200.000 năm với não bộ 1200-2000cm3. Người hiện đại phát triển ra ngoài châu Phi khoảng 50.000 năm trước, theo bờ Ấn Độ Dương tới Australia, về phía Bắc tới châu Âu, châu Á và cuối cùng là châu Mỹ[11].

Atlas dua vao bai 2

Con người vô cùng kỳ diệu

Các khoa di truyền học và sinh học trong 20 năm gần đây tiến bộ vượt bậc cho chúng ta biết rõ hơn con người là một cái gì vô cùng kỳ diệu và phức tạp. Con người có khoảng 75 ngàn tỉ tế bào trong một cơ thể bình thường. Mỗi ngày có hàng triệu trong số các tế bào này được thay thế. Tế bào là đơn vị chức năng của cơ thể người. Chúng gồm một trung tâm kiểm soát, gọi là nhân, để chứa các vật liệu di truyền (ADN), màng bên ngoài và các ti thể tiêu hoá các chất béo và đường để sản sinh ra năng lượng ADN (acid deoxyribonucleic) bao gồm các khối cấu trúc gọi là base. Bộ gen người gồm khoảng 3 tỉ base của ADN. ADN tập trung thành những cấu trúc dày đặc gọi là các nhiễm sắc thể: mỗi tế bào chứa 23 cặp nhiễm sắc thể, 1 bộ từ mẹ và 1 bộ từ cha.

Những tế bào này được tổ chức chính xác, giữ vị trí riêng của chúng trong một cấu trúc có trật tự. Một số tế bào làm việc đơn độc như hồng cầu hoặc tinh trùng, nhưng nhiều tế bào khác được tổ chức thành nhiều nhóm khác nhau (khoảng 200 nhóm) và tạo thành các mô với những chức năng khác nhau để hoàn thành một hay nhiều nhiệm vụ riêng biệt như tiêu hoá thức ăn, suy nghĩ, chuyển động, sinh sản[12].

Atlas 5

d61a109d5847bc19e556

Hệ thần kinh giúp con người thích nghi với hoàn cảnh chung quanh, cảm nhận được thế giới quanh mình. Hệ thần kinh trung ương gồm não và tuỷ sống tiếp nhận thông tin từ tất cả các bộ phận của cơ thể và đáp lại bằng các chỉ thị đến mọi mô và cơ quan. Các tế bào chính của hệ thần kinh được gọi là Neuron. Não có khoảng 100 tỉ neuron và chúng liên lạc với nhau qua các tín hiệu thần kinh gọi là các xung động điện. Phân tích việc truyền tín hiệu thần kinh, người ta thấy các neuron không hoàn toàn chạm vào nhau tại các điểm tiếp giáp. Các túi chứa chất dẫn truyền để từ thân tế bào của neuron gửi đến màng khớp thần kinh, một xung động điện đến giải phóng các chất chứa trong túi, các chất này vượt qua khe khớp thần kinh lại tạo nên xung điện ở neuron tiếp theo[13].

Phân tích não bộ, người ta thấy các vùng vỏ não phụ trách một số chức năng nhất định: như vùng vỏ não thị giác nhận các tín hiệu đến từ hai mắt; vùng Broca, Wernicke và Geschwind phụ trách ngôn ngữ, vùng thính giác, vùng cảm giác, vùng vận động thân thể, vùng cảm xúc, vùng điều hành trung tâm, tổng hợp các tín hiệu ở các vùng khác và lập ra kế hoạch hành động[14].

anh nao, phan giai thuong Các vùng của não liên quan đến trí nhớ không phải chỉ đơn thuần là lưu trữ và gợi nhớ lại các sự kiện, nhưng bao gồm đủ loại thông tin, sự việc, kinh nghiệm và hoàn cảnh, từ tên người đến khuôn mặt, nơi chốn và cả trạng thái cảm xúc của con người vào thời điểm đó[15].

Nhờ não bộ, con người đã suy nghĩ biết bao điều kỳ diệu, sáng tạo nên các khoa học, làm nên các công trình văn học, nghệ thuật, chế tạo nên các sản phẩm hết sức tiện dụng để giúp cho con người sống an vui, sung túc và hạnh phúc.

Mở rộng ra ngoài cộng đồng xã hội, con người quy tụ lại thành những dân tộc, những tổ chức với những luật pháp chặt chẽ để cùng nhau phục vụ lợi ích chung và tạo nên hạnh phúc bền vững cho muôn loài.

Con người đã đi vào lĩnh vực tinh thần với các giá trị không còn bị lệ thuộc vào vật chất, không gian, thời gian. Đó là những giá trị của tình yêu, sự thật, cái tốt, cái đẹp, tự do, hạnh phúc, nhân vị, hoà bình… Con người vượt qua giới hạn của “cái gì” để khám phá ra mình “là ai”, nhận thức được đối tượng mình sống với, mình yêu thương, mình phục vụ, mình hy sinh là những ngôi vị. Con người bước vào một chân trời mới của hiện hữu và suy tư để đi tìm nguồn gốc của mọi hiện hữu, lý do hiện hữu và cùng đích của mọi hiện hữu trong các mối tương quan. Tất cả những khám phá và vấn đề do con người đặt ra bây giờ lại không còn là những đối tượng có thể cân đo đong đếm của các khoa học thực nghiệm vì chúng là những đối tượng có thật, vì con người đang nghĩ, đang yêu, đang sống với chúng. Con người bắt đầu đi tìm câu trả lời trọn vẹn cho câu hỏi “mình là ai, là gì” trong các hệ tư tưởng, các tôn giáo, trong khoa học và cả thần học.

2. Những hệ tư tưởng về con người trong dòng lịch sử

Đứng trước thực tại vừa tầm thường vừa phi thường của con người, nhiều tôn giáo, chủ nghĩa đã cố gắng giải thích, làm thành những hệ tư tưởng và tạo nên những thái độ sống khác nhau của con người. Chúng ta có thể lược thuật vài quan điểm nổi bật trong dòng lịch sử được nhiều người đón nhận sau đây:

2.1. Bái vật (Tiền sử, Thời đồ đá cũ – thời đồ đá mới)

bua an 1

Con người không ý thức về mình, không nhận ra những giá trị của mình, nên tôn thờ những sức mạnh thiên nhiên và vạn vật làm thần linh. Đây là thái độ của những người nguyên thuỷ, hay người tiền sử, chưa biết đến khoa học, chỉ nhìn vào các hiện tượng bên ngoài, thấy hổ báo, sấm sét, lửa nước, gió bão mạnh mẽ hơn mình thì tôn thờ chúng. “Đất có thổ công – Sông có hà bá”.

Con người không đặt câu hỏi về mình, về những sự việc liên quan đến mình như cái chết, khổ đau, bệnh tật và coi chúng là những chuyện tự nhiên của kiếp người giống như bao sinh vật khác. Thái độ bái vật này vẫn còn xuất hiện trong thời đại hiện nay, khi con người tôn thờ tiền của, coi chúng là giá trị tuyệt đối trong đời sống: “Có tiền mua tiên cũng được!”.

2.2. Bái thần (từ thời Cổ đại – thời Cận đại, thế kỷ 18)

than-thoai-hy-lap Nhờ trí thông minh, con người thắng được các sức mạnh thiên nhiên: lấp sông, phá núi, ngăn biển và không tôn thờ chúng nữa. Nhưng con người lại tạo ra cho mình các thần linh mới và thể hiện lòng sùng bái đó qua các tôn giáo.

Con người tìm ra phương pháp làm nông nghiệp với lúa gạo, lúa mì, các cây lương thực khác, thuần hoá các động vật hoang dã thành gia súc nên bỏ đời sống du mục sang định cư lâu dài. Con người phát triển giao thông vận tải, phát minh ra hệ thống chữ viết (chữ hình nêm, chữ Hy Lạp, chữ Latinh). Nhiều thành phố phát triển bên cạnh hồ, sông và các cửa biển. Con người sống ấm no, sung túc nên có nhiều thời giờ suy nghĩ về mình, về thế giới, tạo nên các nền văn minh ở đồng bằng Lưỡng Hà Mesopotamia, bờ sông Nil ở Ai Cập, sông Indus, nền văn minh Tây Á, văn minh Hy Lạp, văn minh La Mã. Các dân tộc giàu mạnh, văn minh hơn sáng tạo ra các phương tiện chiến tranh, dùng sức mạnh, vũ khí để xâm lăng các dân yếu kém hơn mình và bắt họ lệ thuộc về mặt văn hoá, tinh thần, tôn giáo[16].

Các tôn giáo tạo nên những hệ tư tưởng giải đáp các thắc mắc về nguồn gốc, giá trị, cùng đích của con người. Nói chung, con người bắt nguồn từ thần linh, do thần linh điều khiển, chi phối con người. Các thần thoại Hy Lạp, La Mã coi con người là đồ chơi của các thần linh, chỉ có thần linh là bất tử như thần Zeus, Jupiter, Mars, Minerva, Venus, Diana… Ấn Độ giáo cho con người là một phần của Brahman, Đại Ngã tối cao, gọi là Atman (tiểu ngã) khi con người dùng tinh thần của mình hoà nhập với Brahman. Phật giáo cho con người chỉ là một dạng sống biến đổi trong sáu đường (Lục đạo, Lục thú): địa ngục, ngã quỷ, súc sinh, Atula, nhân gian, thiên thượng[17] trong hàng tỉ kiếp của vòng luân hồi trước khi thoát ra để vào được Niết Bàn thành Phật. Do Thái giáo giải thích con người là thụ tạo do Đức Chúa Giavê dựng nên, có tinh thần giống như Ngài, nhưng đã phạm tội không tuân phục, nên cắt đứt sự hoà hợp với Đức Chúa, phải đau khổ và phải chết. Do Thái giáo đưa con người hướng về niềm hy vọng sẽ được giải thoát, được cứu độ bởi Đấng Mêsia (Đấng Kitô: Đấng được xức dầu).

HOP NHAT Kitô giáo xuất hiện vào đầu thế kỷ I giới thiệu Đức Giêsu, người Nazareth của nước Do Thái chính là Đấng Mêsia để cứu độ con người và vũ trụ. Kitô giáo nhận lời giải thích của Do Thái giáo về con người và xác định rằng con người đã được Đức Giêsu biến đổi hoàn toàn, trở thành một con người mới, có giá trị vô cùng, được chia sẻ sự sống vĩnh hằng của Thiên Chúa và có thể trở thành quyền năng vô tận như Thiên Chúa vì đã được trở thành con cái Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu đã chết để đền tội cho con người và sống lại vì con người. Kitô giáo là tôn giáo có lời giải thích rõ ràng nhất về con người nên số tín đồ đã phát triển mạnh và hiện nay có khoảng 2 tỉ 400 tín đồ trong số 7,7 tỉ người sống trên trái đất.

2.3. Nhân văn (từ thời cận đại, thế kỷ 15 đến hiện đại, thế kỷ XXI)

Thái độ sống quy hướng vào con người, lấy con người làm trung tâm cho mọi hoạt động và giá trị. Từ thế kỷ XV, khi Johannes Gutenberg phát minh ra máy in, máy điện báo do ông Chapper phát minh năm 1793, điện thoại năm 1876, truyền thanh (1920), truyền hình (1937), máy tính điện tử, internet (1974), nhất là trong thời hiện đại, con người phổ biến và chia sẻ rất nhanh những suy tư cảm nghĩ của mình, tạo nên những chủ nghĩa, hệ tư tưởng, thái độ sống rất khác nhau về con người. Tuy nhiên, dù là chủ nghĩa duy tâm hay duy vật, duy lý hay duy nghiệm, tư bản hay cộng sản, vô thần hay hữu thần, tất cả đều muốn tập trung vào con người chứ không muốn dành cho thần thánh mọi chú ý để không còn bị vong thân.

Những khám phá của khoa học tác động sâu xa vào suy nghĩ của con người, nhất là thuyết tiến hoá, thuyết Big Bang. Con người nghĩ rằng mình có thể giải thích về nguồn gốc của chính mình, mà không cần đến bàn tay sáng tạo của Thiên Chúa, mình có thể xây dựng cho nhân loại phát triển nhờ trí thông minh mà không cần cầu xin ơn lành của thần linh và khoa học tiến bộ có thể giải đáp tất cả những vấn đề khó khăn của con người như nghèo đói, bệnh tật và cả cái chết.

Những niềm tin vào Thiên Chúa, vào thần linh dần dần biến mất khỏi tâm trí con người do đời sống muốn tự do hưởng thụ vật chất, dành thời giờ nhiều cho việc học hành, làm việc, giải trí. Niềm tin vào một Thiên Chúa bị lung lay tận gốc sau hai cuộc chiến tranh thế giới (1914-1918) và (1939-1945). Hàng chục triệu người chết, hàng trăm triệu căn nhà, tài sản bị phá huỷ khiến cho con người thấy cuộc sống thật ngắn ngủi, vô nghĩa và phi lý. Hệ tư tưởng hiện sinh theo các nhà văn Jean Paul Sartre, Simone de Beauvoir, Albert Camus được phổ biến rộng rãi, nhất là trong giới trẻ. Chúng ta thấy thái độ sống đó thể hiện ở rất nhiều nơi trên thế giới: những đền thờ, chùa chiền của các tôn giáo vắng bóng người trẻ, chỉ còn ít người già tham dự các buổi cầu kinh trong khi các sân vận động, trung tâm giải trí, các nơi du lịch đầy ắp người vào các ngày nghỉ cuối tuần.

khu-du-lich-qua-tai-ngay-nghi-le-3

2.4. Nhân bản tâm linh

Dù đang bị cuốn theo cơn lốc của vật chất và các phương tiện truyền thông xã hội, nhiều người vẫn đang muốn đi tìm một hệ tư tưởng có thể giải đáp trọn vẹn cho con người biết mình là ai, mình sẽ đi về đâu sau cái chết ở cuộc đời trần thế, mình có thể phát huy những khả năng vô tận của tinh thần và thể xác như thế nào để sống mãi, trẻ mãi, đẹp mãi, quyền năng vô tận và hạnh phúc vô biên. Phim ảnh, sách báo nói rất nhiều về những mơ ước đó của con người: Super Man, Super Girl, Harry Potter, các truyện võ hiệp Trung Quốc…

Những khám phá mới của khoa học về con người càng thúc đẩy những người hiểu biết đi tìm nguồn gốc của những gì hiện hữu nơi con người: sự sống, tình yêu, tư tưởng, tự do, hạnh phúc. Dù với tất cả những máy móc hiện đại nhất, con người cũng không thể tìm thấy sự sống là gì, tình yêu ở đâu, tư tưởng cao thấp như thế nào trong con người. Người ta chỉ thấy những chất liệu hoá học, những xung động điện chuyển vận trong các tế bào, các neuron thần kinh. Vì thế, nhân loại đang hướng về một nền nhân bản tâm linh có thể giải đáp cho con người sự thật toàn vẹn của con người.

Nhiều nhà khoa học đã nhắc nhở và vạch trần những sai lầm trong giả thuyết tiến hoá của Darwin[18]. Rất nhiều người Cộng sản ở Nga và các nước Đông Âu đã ân hận về việc đã phổ biến những luận chứng sai lầm để phá bỏ tôn giáo và hô hào hệ tư tưởng duy vật, vô thần khiến cho nền luân lý, đạo đức của đất nước bị suy đồi. Các nhà lãnh đạo dân tộc Việt Nam cũng hô hào mở những lễ hội tôn giáo, mỗi năm có hơn 5000 lễ hội, thay vì đả phá như trước để phục hồi con người sống đạo đức hơn[19].

Nhưng xây dựng thế nào để có được một nền giáo dục nhân bản thoả mãn được mọi yêu cầu của con người và chứng minh nền nhân bản đó có thật bằng những con người cụ thể như các tông đồ và môn đệ của Đức Giêsu Kitô đã làm trong thời Giáo hội Công giáo sơ khai là một công trình đòi hỏi chúng ta phải suy nghĩ và quyết tâm thực hiện. Đó cũng là niềm mơ ước của cả nhân loại hôm nay.

anh dep 6

3. Tóm lược Giáo huấn Xã hội Công giáo về con người

3.1. Vài dòng lịch sử

Mặc dù Thánh Kinh nói rõ về nguồn gốc và cùng đích của con người, cũng như Chúa Giêsu và các môn đệ của Người dạy rất cụ thể về tình yêu thương của con người đối với Thiên Chúa, với anh chị em mình và với vạn vật như là những điểm căn bản của một nền nhân bản tâm linh, người Kitô hữu trong suốt gần 20 thế kỷ qua có vẻ như vẫn giữ thái độ bái thần, nhất là từ khi đạo Công giáo được vua Constantinus nhìn nhận là tôn giáo hợp pháp trên toàn đế quốc Rôma năm 313.

Trong nhiều thế kỷ trước cho đến thời Trung cổ, người Kitô hữu tập trung nguồn lực vào việc xây dựng các cơ sở vật chất, tổ chức các nghi lễ trang trọng, quản lý các địa phận tôn giáo bằng các quan chức như giám mục, linh mục tạo thành giai cấp tăng lữ. Giai cấp này cộng tác mật thiết với chế độ quân chủ. Hầu hết Kitô hữu giáo dân, do học vấn thấp kém, hiểu đạo, giữ đạo là tôn thờ Chúa qua các lễ nghi, kinh nguyện, bí tích và tuyệt đối vâng phục các người đại diện cho Chúa là vua quan và hàng giáo phẩm, giáo sĩ. Họ quan niệm rằng mọi sự đều quy về Chúa, chịu đựng vì Chúa dù có bị bóc lột, thiệt thòi. Karl Mars, Engel và nhiều nhà hoạt động xã hội đã cho thái độ bái thần ấy làm cho con người vong thân và cho tôn giáo chỉ là thứ thuốc phiện ru ngủ quần chúng.

sach 8 Trước những vấn nạn xã hội nghiêm trọng liên quan đến con người, nhất là những con người đang lao động kiệt lực, Đức Giáo hoàng Lêô XIII đã công bố thông điệp Rerum Norarum (Các sự việc mới) năm 1891. Thông điệp này được coi như “học thuyết Công giáo đầu tiên về lao động, về quyền tư hữu, về nguyên tắc hợp tác thay vì đấu tranh bạo động, về phẩm giá của người nghèo và nghĩa vụ của người giàu…”[20].

Nhiều vị giáo hoàng tiếp theo đã công bố những văn kiện về những vấn đề xã hội liên quan đến con người tạo thành “học thuyết xã hội” Công giáo. Từ này được Giáo hoàng Piô XI nói đến đầu tiên năm 1941 và được nhiều giáo hoàng nhắc đến[21]. Gọi là học thuyết, vì “đây là toàn thể nói chung những quan niệm có hệ thống dùng để lý giải các hiện tượng và hướng hoạt động của con người” trong lĩnh vực xã hội[22]. Một số người chỉ dùng từ “giáo huấn xã hội” như một tập hợp những lời dạy của Giáo hội Công giáo về xã hội.

Công đồng Vaticanô II (1962-1965) với Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes “giới thiệu một Giáo Hội thật sự liên đới sâu xa với loài người và lịch sử nhân loại. Hiến chế trình bày một cách có hệ thống các chủ đề về văn hoá, đời sống kinh tế và xã hội, hôn nhân và gia đình, về cộng đồng chính trị, về hoà bình và cộng đồng các dân tộc, dựa trên quan điểm nhân học Kitô giáo và sứ mạng Giáo Hội”[23].

Sau nhiều năm nghiên cứu và biên soạn, nhất là dưới sự điều hành của vị chủ tịch là Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Hội đồng Giáo hoàng Công lý và Hoà bình đã giới thiệu cuốn Tóm lược học thuyết Xã của hội Công giáo vào tháng 4 năm 2004 cho toàn thể Giáo hội Công giáo và mọi người. “Người tín hữu có thể tìm thấy trong học thuyết này những nguyên tắc để suy tư, những tiêu chuẩn để phán đoán và những chỉ dẫn để hành động là bước đầu để thăng tiến một nền nhân bản toàn diện và liên đới”[24].

Bản tóm lược này tuy xuất hiện hơi muộn, nhưng hết sức cần thiết để có thể giúp người tín hữu vượt qua thái độ “bái thần”, tập trung sự chú ý vào con người và các vấn đề xã hội của con người, trước những thách đố do các hệ tư tưởng và khoa học đặt ra muốn chỉ tập trung vào con người và chối bỏ Thiên Chúa.

3.2. Nội dung

Bản Tóm lược giới thiệu nền “nhân bản tâm linh vì lấy con người duy nhất và toàn diện với thể xác và linh hồn, với tình cảm và lương tâm, với lý trí và ý chí làm then chốt cho toàn bộ phần trình bày của mình. Giáo hội Công giáo muốn phục vụ con người trong thời đại này qua cuốn Tóm lược theo cung cách đối thoại, mà chính Thiên Chúa đã thực hiện qua Con Một đã làm người của mình, đối thoại như với bạn hữu để làm chứng cho sự thật cũng như để cứu độ con người”[25].

Sách Tóm lược gồm 583 số trình bày thành 12 chương với phần nhập đề và kết luận. Tất cả nội dung trình bày xoay quanh con người và các vấn đề xã hội của con người. Ta có thể nói rằng Học thuyết Xã hội Công giáo chính là học thuyết của Giáo Hội về con người vì như Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô xác định: “Con người là con đường của Giáo Hội” đồng thời cũng là con đường của Thiên Chúa vì Thiên Chúa đã trở thành người là Đức Giêsu Kitô.

yêu thuong ke thu

Con người là lý do tồn tại của Giáo Hội vì Giáo Hội được Chúa Giêsu lập nên là để cứu độ con người. Khi Giáo Hội quay lưng lại với con người thì con người cũng bỏ Giáo Hội và cũng đánh mất luôn cả Thiên Chúa cùng với Đức Giêsu Kitô vì họ không nhận ra Đức Giêsu chính là con người lý tưởng mình mơ ước đạt tới, như cùng đích cho mọi hoạt động của con người. Trong quá khứ, không ít lần nhiều cá nhân và tập thể Kitô hữu đã quay lưng lại với con người hoặc đã bỏ quên con người như một chủ thể sống động để tập trung vào nghi thức, lễ lạc hoặc vào cơ sở vật chất. Kinh nghiệm đó như đang thúc đẩy chúng ta phải quan tâm nhiều hơn đến con người và tích cực hành động như Chúa Giêsu và cùng với Giêsu để cứu độ họ.

Chúng ta có thể nêu tên các đề tài của 12 chương sau đây:

Nhập đề: Một nền nhân bản toàn diện và liên đới.

Chương 1: Kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa đối với nhân loại.

Chương 2: Sứ mạng của Giáo Hội và học thuyết xã hội.

Chương 3: Con người và nhân quyền.

Chương 4: Các nguyên tắc của HTXHCG.

Chương 5: Gia đình – tế bào sống của Giáo Hội.

Chương 6: Lao động con người.

Chương 7: Đời sống kinh tế.

Chương 8: Cộng đồng chính trị.

Chương 9: Cộng đồng quốc tế.

Chương 10: Bảo vệ môi trường.

Chương 11: Cổ vũ hoà bình.

Chương 12: Học thuyết xã hội và hoạt động của Giáo Hội.

Kết luận: Vì một nền văn minh tình yêu.

Năm 2016, nhân Ngày Giới trẻ Thế giới tại Cracow, Ba Lan, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã trao cho các bạn trẻ cuốn Docat, như là bản tóm lực học thuyết xã hội Công giáo theo phong cách Youcat năm 2011 để các bạn trẻ hành động như Chúa Giêsu, vì “Chúa Giêsu chính là giáo huấn xã hội của Thiên Chúa”[26]. Cuốn Docat gồm 328 câu hỏi và câu trả lời có thêm phần trích dẫn các văn kiện của Giáo Hội và các giáo hoàng. Sách cũng chia thành 12 chương tương ứng với cuốn Tóm lược HTXHCG.

docat 1

Kết luận

Nhìn vào Giáo hội Công giáo Việt Nam hiện nay, những vấn đề về con người càng thôi thúc chúng ta hơn nữa để mỗi tín hữu Kitô giáo phải trở thành một con người thật sự như Đức Giêsu. Có thế chúng ta mới hy vọng tăng thêm tỉ lệ 7% người tín hữu Công giáo mà từ 1885 đến nay vẫn giữ nguyên tỉ lệ này là tín hiệu báo động chúng ta cần xét lại thái độ và hành động của mình đối với con người!

Câu hỏi

1. Thách đố đầu tiên mà con người phải đối mặt là tìm được sự thật về con người: Con người là gì? Con người có thể làm được những gì? Con người phải như thế nào để đạt được cùng đích của đời mình? (x. Tóm lược HTXHCG, số 16). Bạn thấy còn thách đố nào khác không?

2. Trong 4 thái độ: bái vật, bái thần, nhân bản và nhân bản tâm linh, bạn có thể xếp loại các tôn giáo và hệ tư tưởng mình biết vào thái độ nào? (ví dụ: Phật giáo, Khổng giáo, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa xã hội…).

3. Bạn nghĩ mình hay cộng đồng mình sống đang thuộc loại thái độ nào?

4. Bạn dự tính sẽ có hành động xã hội nào cho những đồng bào nghèo khổ, bệnh tật, dốt nát, yếu kém quanh mình nhân danh tình yêu của Đức Giêsu Kitô?

  1. x. Liên Hiệp Quốc, Báo cáo Triển vọng dân số thế giới 2019: Những điểm nổi bật, internet, 19/6/2019.

  2. x. Vietlex Trung tâm Từ điển học, Từ điển Tiếng Việt 2013, in lần thứ năm, NXB Đà Nẵng, mục từ Người, tr.899.

  3. x. Hội đồng Quốc gia Biên soạn, Từ điển Bách khoa Việt Nam, NXB Từ điển Bách khoa, mục từ Con người, q.1, tr.706.

  4. x. Nguyễn Đình Diễn, Từ điển Công giáo Anh-Việt, NXB Đồng Nai, mục từ Man, tr.1226.

  5. x. Tóm lược HTXHCG, số 102; GS, số 12; Evangelnim vitae, số 34; GLHTCG, số 27-49; Mục từ Homo est Der Capevx, tr.971.

  6. x. HĐGMVN, Từ điển Công giáo, NXB Tôn Giáo, 2016, mục từ Con người, tr.161.

  7. x. Từ điển Tiếng Việt, mục từ Khoa học, tr.648.

  8. x. Wikipedia, Bài Học thuyết Darwin, Internet, 6/3/2019.

  9. x. Wikipedia, Các bài về Big Bang – Vụ nổ lớn, Internet, 2/5/2019.

  10. x. Bs Alice Roberts, Atlas Giải phẫu Cơ thể Người, NXB Y Học, 2015, tr.12-13.

  11. x. Bs Alice Roberts, Atlas Giải phẫu Cơ thể Người, NXB Y Học, 2015, tr.14-15.

  12. x. Bs Alice Roberts, Atlas Giải phẫu Cơ thể Người, NXB Y Học, 2015, tr.20-22.

  13. x. Bs Alice Roberts, Atlas Giải phẫu Cơ thể Người, NXB Y Học, 2015, tr.300.

  14. x. Bs Alice Roberts, Atlas Giải phẫu Cơ thể Người, NXB Y Học, 2015, tr.305.

  15. x. Bs Alice Roberts, Atlas Giải phẫu Cơ thể Người, NXB Y Học, 2015, tr.306.

  16. x. Wikipedia, Lịch sử thế giới, internet.

  17. x. Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Từ điển Phật học, NXB Phân viện Nghiên cứu Phật học, 1992, q.1, mục từ Luân hồi, Lục đạo, Lục thú, tr.766, 774, 789.

  18. x. Thuyết Tiến hoá của Darwin – Đã đến lúc phải chấm dứt sự lừa dối vĩ đại, Youtube, 1/1/2018; 9 lý do chứng minh Thuyết Tiến hoá của Darwin sai, Youtube, 14/10/2018; …

  19. x. Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, Cẩm nang Tân Phúc Âm hoá, NXB Tôn Giáo, 2014, tr.355-358.

  20. x. Tóm lược HTXHCG, số 89.

  21. x. Tóm lược HTXHCG, số 87-95.

  22. x. Viện ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt 2013, mục từ Học thuyết, tr.587.

  23. x. Tóm lược HTXHCG, số 96.

  24. x. Tóm lược HTXHCG, số 7.

  25. x. Tóm lược HTXHCG, số 13.

  26. x. Lời giới thiệu cuốn Docat của ĐGH Phanxicô, ngày 6/11/2015.

 

Hướng tới sự trưởng thành toàn diện
Bài 2: Xây dựng nền nhân bản toàn diện và liên đới

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
Tài liệu tĩnh tâm – 3/2020

Lời mở

Xây dựng nền văn minh tình yêu là đích điểm cuối cùng cho mọi hoạt động của Giáo hội Công giáo ở trần thế này[1]. Để đạt được mục đích đó, Giáo Hội cổ vũ mọi tín hữu xây dựng một nền nhân bản toàn diện và liên đới. Đường hướng này được Giáo Hội xác định ngay trong lời mở đầu của cuốn Tóm lược HTXHCG (số 6, 19; được nhắc lại ở phần kết luận số 582) và nội dung của nền nhân bản này được trình bày trong suốt 12 chương của cuốn Tóm lược (2004) và cuốn Docat (2016). Tuy nhiên, rất nhiều học viện Công giáo ít quan tâm và hầu hết tín hữu Công giáo chưa hiểu biết nền nhân bản này là gì và bao gồm những nội dung nào.

1. Nền nhân bản Công giáo là gì?

1.1. Phân biệt từ ngữ

download Từ “nền nhân bản” chỉ được sử dụng vài ba lần trong cuốn Tóm lược HTXH, được Công đồng Vaticanô II nhắc đến ít lần trong Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes (số 7,55,56) vì sợ rằng một số người có thể hiểu sai ý nghĩa của nó.

Từ này nguyên ngữ Latinh là humanismus (Anh ngữ: humanism) bắt nguồn từ từ homo – con người (nhân). Nhiều từ điển Việt Nam dịch là chủ nghĩa nhân bản, chủ nghĩa nhân văn (theo Trung Quốc), chủ nghĩa nhân đạo[2].

Từ điển Công giáo 2016 của HĐGMVN nói đến “nền nhân bản Kitô giáo” trong mục từ cùng tên ở trang 637: “là hệ thống quan niệm Kitô giáo về ‘căn tính’ (bản chất) của con người vốn được biểu hiện trong các mối tương quan của con người với Thiên Chúa, với nhau và với vũ trụ”[3].

Từ điển Công giáo Anh Việt của Nguyễn Đình Diễn dịch từ humanism: chủ nghĩa nhân văn, chủ nghĩa nhân bản[4]. Thuật ngữ này bao gồm các phong trào trí thức, văn học và khoa học từ thế kỷ 14 đến 16, nhấn mạnh đến sự phát triển toàn diện con người dựa trên văn hoá Hy Lạp – La Mã cổ điển.

Ngày nay người ta phân biệt chủ nghĩa nhân văn thế tục, nhân văn vô thần với nhân văn tôn giáo. Chủ nghĩa nhân văn thế tục cho rằng thế giới mà con người đạt tới là tất cả thực tại, không có thế giới của những giá trị siêu việt và loài người là giá trị cao quý nhất. Chủ nghĩa này còn cho rằng niềm tin vào Thượng Đế làm cho con người mất đi phẩm giá và tính sáng tạo, khiến cho họ không còn thiết tha đến việc phát triển năng lực và trau chuốt sự cao quý của nhân loại, và làm trì trệ khả năng vươn lên về kinh tế khoa học, thẩm mỹ và đạo đức. Các tác giả tiêu biểu cho chủ nghĩa này: L. Fenerbach (1804-1872), Karl Marx (1818-1883), F. Nietzsche (1844-1900) và Signund Freud (1856-1939).

“Chủ nghĩa nhân văn tôn giáo trong Kitô giáo ý thức phẩm giá đặc biệt của con người trong tương quan với Thiên Chúa”[5].

Công đồng Vaticanô II đã lưu ý nhắc nhở ta về một “nền nhân bản mới, trong đó con người được định nghĩa trước hết dựa trên trách nhiệm của mình đối với anh em và đối với lịch sử”[6]; đồng thời cũng lưu ý ta về chủ nghĩa nhân bản thế tục thuần tuý đối nghịch với tôn giáo[7].

hop nhat 4

1.2. Xác định từ ngữ

Trước hết, chúng ta dùng từ “nền nhân bản”: nền là cơ sở của một việc gì, nhân là người, bản là gốc, cội rễ.

Chúng tôi dùng từ “nền nhân bản” thay vì chủ nghĩa nhân bản để tránh sự hiểu lầm rằng Giáo hội Công giáo đang muốn xây dựng một chủ nghĩa đối kháng với các chủ nghĩa đang có mặt trong đời sống con người như Tư bản, Cộng sản, Duy thực, Duy nghiệm, Duy lý, Duy tâm, Duy vật… Đây là nền nhân bản được xây dựng cho con người và vì con người nên bất cứ chế độ chính trị, tổ chức chính quyền, loại hình kinh tế, văn hoá, xã hội, tôn giáo nào cũng có thể tiếp nhận và hoà hợp, miễn là không đi ngược với bản chất và những quyền lợi căn bản của con người.

Chúng ta dùng từ nhân bản chứ không dùng từ nhân văn, vì nhân văn thuộc về văn hoá con người. Văn hoá là tổng thể những giá trị vật chất hay tinh thần do con người sáng tạo nên trong một giai đoạn nhất định của lịch sử. Nhân bản có ý nghĩa rộng lớn, bao gồm tất cả những gì thuộc về con người, nhưng không phải chỉ là những giá trị do con người sáng tạo mà còn cả những giá trị được ban tặng cho con người.

Nhân bản cũng không đồng nghĩa với nhân đạo (humanitarian), vì nhân đạo là đạo đức thể hiện ở sự yêu thương, quý trọng và bảo vệ con người. Nhân bản bao gồm nội dung cao cả và rộng lớn hơn nhiều, vì bao gồm mọi lĩnh vực hoạt động và mối tương quan của con người trong vũ trụ, trong đó có cả Thiên Chúa và vạn vật.

Thật ra, từ “chủ nghĩa” hay “nền” có thể dùng hoán đổi cho nhau, khi hiểu chủ nghĩa nhân bản vừa là một hệ tư tưởng về các bản chất và mối tương quan của con người, đồng thời vừa là một đường hướng hành động trong mọi lĩnh vực của con người.

Ta cũng cần phân biệt rằng nền nhân bản toàn diện và liên đới là do Công giáo giới thiệu cho cộng đồng nhân loại, chứ không phải là của tất cả Kitô giáo như ghi nhận trong Từ điển Công giáo 2016 của HĐGMVN. Nền nhân bản này lấy Đức Giêsu Kitô là con người mới, hoàn hảo, nhưng nhiều hệ phái Tin Lành không đồng quan điểm với Công giáo về Đức Giêsu Kitô, nhất là từ khi nhà thần học Rudoft Bultmann (1884-1976), vào những năm 1940-1960, chủ trương giải trừ huyền thoại ra khỏi Phúc Âm, loại bỏ những phép lạ và thậm chí cả cuộc sống lại của Đức Giêsu để cho con người thời nay chuộng khoa học thực nghiệm dễ đón nhận Lời Chúa hơn[8].

1.3. Nền nhân bản Công giáo

Sau khi xác định từ ngữ, ta có thể tạm thời định nghĩa rằng nền nhân bản mới này là một hệ thống suy tư và hành động lấy con người làm gốc, làm nền tảng, làm trung tâm để quy chiếu như các nền chủ nghĩa nhân bản khác, thay vì lấy vật chất hay thần linh. Đây là hệ thống suy tư giúp con người có những nhận thức đúng đắn về bản chất, về nguồn gốc, về hướng đi, về mối tương quan, về mục đích cuối cùng của con người và cộng đồng nhân loại trong vũ trụ này[9]. Đồng thời đây cũng là hệ thống hành động bao gồm những kỹ năng sống để con người thể hiện cách tốt đẹp và hiệu quả các nhận thức trên.

HOP NHAT Trong dòng lịch sử nhân loại, nhiều tôn giáo, trong đó có cả Kitô giáo, đã có những lúc quá chú trọng đến các hình thức lễ nghi dành cho thần linh, cho Thiên Chúa mà coi nhẹ những hoạt động dành cho con người. Đây cũng là một trong các nguyên nhân phát sinh ra những thái độ từ chối thần thánh của con người tạo nên những chủ nghĩa vô thần, chủ nghĩa này đã nhân danh con người hay xã hội loài người để đòi lại những gì mà các tôn giáo lấy của con người để đem về cho thần linh, cho Thiên Chúa[10].

Nền nhân bản Công giáo đặt con người và xã hội con người vào điểm trung tâm để quy chiếu mọi hoạt động của Giáo hội Công giáo vào đó. Con người này, từ muôn thuở, được Thiên Chúa yêu thương, được tạo dựng theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa, nghĩa là có tinh thần với tình yêu và tự do theo kế hoạch tổng thể của Thiên Chúa là tình yêu[11]. Con người này dùng tự do để chối từ tình yêu với Thiên Chúa, cắt đứt với nguồn sống vĩnh hằng, tình yêu vô biên, quyền năng vô tận là Thiên Chúa dẫn đến cái chết và muôn vàn hậu quả tai hại khác cho mình và cộng đồng xã hội.

Nền nhân bản này có thể được gọi là nền nhân bản Kitô (không phải Kitô giáo), vì được xây dựng trên Đức Giêsu Kitô là Ngôi Lời Thiên Chúa tự nguyện trở thành người theo kế hoạt của Thiên Chúa Cha (x. Ga 1,14; 3,16; Dt 4,15). Ngài sống như con người để làm cho mọi giá trị của con người thành cao cả vô biên, vì “mầu nhiệm về con người chỉ thực sự được sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể” (GS, số 22). Đức Giêsu Kitô, Người đã tự nguyện chết trên thập giá để hoà giải con người và vạn vật với Thiên Chúa, và đã sống lại để chia sẻ sự sống kỳ diệu, vĩnh hằng của chính Thiên Chúa, nhờ đó, con người mở ra với siêu việt và hướng tới vô biên (TLHTXHCG, số 130; Docat, câu 53).

Nền nhân bản Công giáo nhằm mục tiêu đổi mới và xây dựng mỗi tín hữu và những ai thành tâm thiện chí thành hiện thân sống động của Đức Giêsu Kitô (TLHTXHCG, số 58). Người là con người mới, con người hoàn hảo vì nhờ Người mà bản tính nhân loại được nâng cao và đạt tới một phẩm giá siêu việt. Nhờ kết hợp với Đức Giêsu Kitô, người tín hữu sẽ nhận được “những hoa trái đầu mùa của Thánh Thần” (Rm 8,23) để trở thành con người mới (TLHTXHCG, số 19, 36), có khả năng chu toàn luật yêu thương mới (x. Mt 22,40; Ga 15,12; Rm 8,1-11), xây dựng được nền văn minh tình yêu cho cộng đồng nhân loại vì Đức Giêsu Kitô là nguyên mẫu và là nền tảng của nhân loại mới này[12]. Lúc đó loài người sẽ vượt qua bí ẩn của đau khổ và sự chết để sống trọn vẹn trong niềm vui, bình an và tình yêu của Thiên Chúa[13].

loan bao tin Mùng

Nền nhân bản Công giáo được gọi là nhân bản tâm linh vì liên quan đến “con người duy nhất và toàn diện với thể xác và linh hồn, tình cảm và lương tri, trí khôn và ý chí[14]. Đồng thời, nó cũng để ý đến mọi lĩnh vực hoạt động và tương quan của con người trong đó có tương quan với Thiên Chúa.

Con người được mời gọi hãy khám phá nguồn gốc, mục tiêu và lịch sử đời mình nơi sự hoà nhập yêu thương của Thiên Chúa (TLHTXHCG, số 34), nhờ mạc khải Kitô giáo, con người đã hiểu biết bản sắc, ơn gọi và định mệnh cuối cùng của con người và của nhân loại (TLHTXHCG, số 35).

Vì thế, nền nhân bản này không chỉ nhìn con người theo quan điểm duy vật thuần tuý và chối bỏ sự hiện diện của Thiên Chúa theo quan điểm vô thần của các chủ nghĩa nhân bản thế tục. Do đó, nó được gọi là nền nhân bản toàn diện và liên đới (TLHTXHCG, số 19).

2. Nền nhân bản toàn diện

“Nền nhân bản toàn diện bao gồm mọi lĩnh vực của con người như thể xác và tinh thần, cá nhân và tập thể, tự nhiên và siêu nhiên, nội tâm và ngoại giới, vì con người là một mầu nhiệm không thể nào khám phá cho cùng…”[15].

2.1. Thể xác và tinh thần

a42b6cc3c41920477908 Con người được Thiên Chúa tạo dựng thành một thể thống nhất với tinh thần và thể xác. Hai yếu tố thể xác và tinh thần đều do Thiên Chúa dựng nên, không phải bắt nguồn từ hai sức mạnh đối nghịch nhau[16]. Thông qua thân xác mình, con người thống nhất nơi mình các yếu tố của thế giới vật chất. Mỗi ngày, qua đồ ăn, thức uống, khí trời… con người hoà hợp với vạn vật trong vũ trụ và thống nhất chúng nơi mình[17]. Nhờ tinh thần, con người có thể khám phá vạn vật với cấu trúc của chúng và thấy mình vượt lên trên thế giới vật chất nhờ phẩm giá độc đáo và lương tâm ngay chính (TLHTXHCG, số 129).

Các nhà khoa học đã khám phá con người bao gồm khoảng 75 ngàn tỉ tế bào tồn tại trong một cơ thể con người bình thường. Mỗi tế bào là một đơn vị phức tạp với nhiều hoạt động khác biệt bên trong. Nhiều tế bào kết cấu với nhau thành những mô với khoảng 200 loại khác nhau. Các mô lại tập hợp thành 10 hệ cơ quan như xương, cơ, thần kinh, hô hấp, tim mạch, bạch huyết và miễn dịch, tiêu hoá, tiết niệu, sinh sản, nội tiết với cấu trúc của da, lông, tóc. Nhưng tất cả đều tác động qua lại với nhau thành một cơ thể thống nhất cho phép chúng ta hoạt động và tồn tại[18].

Tinh thần con người còn kỳ diệu hơn nữa. Tất cả những cảm giác, cảm xúc, những gì ta thấy, ta nghe, ta nhớ, ta nghĩ, ta yêu thương, suy luận đều chỉ là những xung động điện trong bộ não trung ương và hệ thần kinh, với những hoá chất phóng ra từ các đầu khớp nối thần kinh[19]. Các nhà khoa học cho đến nay vẫn chưa tìm ra được và giải thích được thế nào là sự sống, tình yêu, tư tưởng. Nếu chúng đang hiện hữu, theo nguyên lý của khoa học, chúng phải bắt nguồn từ đâu đó, từ một đấng nào đó là nguồn sự sống, tình yêu, tư tưởng và mọi hiện hữu. Chỉ có tinh thần con người mở ra với siêu việt, vô biên mới có thể khám phá được nguồn hiện hữu này.

65755898f042141c4d53

2.2. Cá nhân và tập thể

Lịch sử loài người đã cho chúng ta thấy những xung đột giữa hai hệ tư tưởng hay chủ nghĩa cá nhân và tập thể với những cuộc chiến tranh, tàn sát ghê rợn. Nguyên nhân là vì con người không nhận ra phẩm giá cao quý của mình và của người khác đó là mọi người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa[20], dù họ là nam hay nữ (TLHTXHCG, số 110-114, 146-148), mạnh khoẻ hay khuyết tật x. TLHTXHCG, số 148 hoặc thuộc bất cứ giai cấp xã hội nào.

“Con người không phải là một hữu thể cô độc mà là một hữu thể xã hội, không thể nào sống cũng như không thể nào phát triển tiềm năng của mình bao lâu con người không liên hệ với người khác” (GS, số 12; TLHTXHCG, số 110). Con người là một cá nhân độc đáo[21] và không thể sao chéo trong số hơn 7,7 tỉ người đang sống trên trái đất hiện nay (thống kê tháng 6 năm 2019 của Liên Hiệp Quốc), nhưng mỗi con người đang sống với những người khác làm thành một gia đình nhân loại[22].

cuoc-doi-se-that-dep-neu-chung-ta-biet-dat-minh-vao-vi-tri-cua-nhau

Nhờ tinh thần, con người có thể gặp gỡ những người khác để xây dựng thành những cộng đồng yêu thương. Cộng đồng đầu tiên và cơ bản là gia đình (chương 5 của TLHTXHCGDocat), xí nghiệp và nơi mình lao động (chương 6), hay làm kinh tế (chương 7), làm chính trị (chương 8) hay hoà nhập với mọi người trong cộng đồng quốc tế (chương 9) để cùng xây dựng và đem lại hạnh phúc cho nhau.

2.3. Tự nhiên và siêu nhiên

Tự nhiên chỉ toàn bộ những gì tồn tại sẵn có trong con người, xã hội và vũ trụ mà không phải do con người tạo ra hoặc tác động hay can thiệp vào. Còn siêu nhiên là có tính chất, khả năng vượt ra khỏi phạm vi tự nhiên, không thể giải thích bằng các quy luật tự nhiên[23].

Từ này gợi ý cho chúng ta về thuyết Big Bang với tất cả những diễn tiến xảy ra trong vũ trụ trong 14 tỉ năm, làm cho con người tưởng lầm rằng vũ trụ tự nhiên mà có. Còn trái đất và các sinh vật tiến hoá cho đến con người biết suy tư hiện nay đang theo quy luật tự nhiên của cuộc tiến hoá mà chẳng cần đến bàn tay sáng tạo của Thiên Chúa.

Nền nhân bản tâm linh Kitô xác định cho chúng ta rằng: Thiên Chúa là nguồn của mọi hiện hữu”[24]. Ngài dựng nên thế giới và loài người chúng ta theo một kế hoạch đã định trước: đó là diễn tả bản tính yêu thương của Ngài, vì Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,16; x. Docat, chương 1).

Related image Thật ra, khi nói đến quy luật tự nhiên là ta phải nghĩ ngay đến người đặt ra hay tạo nên quy luật, dù ta không nhìn thấy người đó. Thí dụ: 1 cây bút bi với vài thành phần cấu tạo: chiếc lò xò, ruột chứa mực, nắp bút, thân bút; hay chiếc đồng hồ với vài chục thành phần. Ta không thể bỏ chung vào một chiếc bình rỗng rồi lắc liên tục cho đến khi ngẫu nhiên những thành phần đó ráp lại với nhau theo một trật tự đúng đắn để thành một cây bút viết được, hay một cái đồng hồ chạy được. Sự hiện diện của chúng tự nhiên đã đòi hỏi phải có một chủ thể tạo thành nên chúng theo một quy luật chính xác.

Nếu ta nhìn vào con người với 23 đôi nhiễm sắc thể trong đó bộ gen người có 3 tỉ base ADN được sắp đặt theo một trật tự lạ lùng. Một quả chuối có một nửa thành phần giống gen của người. Tuy nhiên, không thể thay một gen người bằng một phiên bản từ quả chuối vì sự khác biệt trong thứ tự các cặp base bên trong mỗi gen. ADN của con người khác biệt với ADN của tinh tinh khoảng 5%, nhưng từ hàng triệu năm nay, chẳng có tinh tinh nào biến hoá thành người cả![25]. Mặc dù bề ngoài chúng ta trông khác nhau về màu da, màu tóc, hình thể to lớn hay thấp bé, nam hay nữ, nhưng cấu trúc căn bản của ADN chúng ta lại đồng nhất[26]. Điều này dẫn chúng ta đến một kết luận khá lý thú: chúng ta đều là anh chị em của gia đình “người”, có một người Cha Tạo Hoá vô cùng kỳ diệu tạo nên!

Nếu trong “trật tự tự nhiên” đã kỳ diệu như thế, thì những gì thuộc “trật tự siêu nhiên” còn tiến hoá khôn lường. Tinh thần của con người mở ra đến vô biên vì không bị lệ thuộc vào vật chất, không gian, thời gian. Tinh thần đó được biểu lộ qua những tư tưởng, ước muốn, tình cảm, hành động để con người sáng tạo nên những khoa học, theo đuổi nghệ thuật, đi tìm những gì thuộc về chân thiện mỹ tồn tại mãi mãi, vươn tới sự thật toàn diện và điều thiện tuyệt đối. Vì thế, HTXHCG quả quyết: “mở ra với siêu việt là một đặc tính của con người: con người mở ra với Đấng vô biên cũng như với mọi thụ tạo” trong đó có các thiên thần, hồn người đã khuất và cả vũ trụ vạn vật[27]. Đây là điểm khá mới mẻ đối với con người hiện nay, nhưng lại không xa lạ với Đức Giêsu Kitô và các môn đệ thời Giáo Hội sơ khai khi Người và họ phán bảo cho gió im, biển lặng, bánh cá hoá nhiều, chữa lành bệnh tật, cho kẻ chết sống lại, xua trừ ma quỷ để giải phóng con người.

2.4. Nội tâm và ngoại giới

Con người đã không lầm khi nhận biết mình cao quý hơn vũ trụ vật chất và không coi mình chỉ như một mảnh nhỏ của thiên nhiên hay như một phần tử vô danh trong xã hội loài người. Bởi vì nhờ có nội tâm, con người vượt trên vạn vật: khi con người quay về với lòng mình là lúc họ tìm về nơi nội giới thâm sâu này. Ở đó, Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm hồn đang chờ đợi họ và cũng chính nơi đó, con người tự định đoạt về vận mệnh riêng của mình dưới ánh mắt của Thiên Chúa[28]. Đó chính là hồn thiêng bất tử mà Thiên Chúa dựng nên cho con người.

mo ra 2 Vì được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, con người có phẩm giá của một ngôi vị, là một ai đó chứ không phải là một thứ gì đó. Con người có khả năng nhận biết bản thân và suy ngẫm về chính mình, đưa ra những quyết định tự do và bước vào mối tương quan với người khác. Hơn nữa, con người được ơn Chúa thúc đẩy để đáp lời mời gọi của Thiên Chúa bằng đức tin và tình yêu, đi tìm Thiên Chúa hoà nhập với Thiên Chúa và Đức Giêsu Kitô để phát triển trọn vẹn tiềm năng làm người của mình[29].

Ngoại giới được hiểu là toàn thể thế giới ở bên ngoài con người. Khi hiểu con người hiện hữu như một cái “tôi” có khả năng hiểu mình, làm chủ mình và tự quyết về mình, thì cần phải tôn trọng nhân phẩm siêu việt của con người. Không một tổ chức chính trị, xã hội, khoa học, văn hoá, kinh tế nào được quyền sử dụng con người như là một phương tiện để thực hiện các dự án của mình, hoặc lèo lái con người vào những mục tiêu xa lạ với sự phát triển trọn vẹn của con người[30].

Tuy nhiên, con người cũng hiểu rằng ngoại giới và mình cần phải liên kết mật thiết với nhau. Con người thống nhất nơi mình các yếu tố của thế giới vật chất và thông qua con người, chúng tự do cất lời ca ngợi Đấng Tạo Hoá[31]. Con người có trách nhiệm phải bảo vệ thiên nhiên và môi trường sống của mình[32].

3. Nền nhân bản liên đới

Con người toàn diện có 4 quan hệ căn bản với 4 tinh thần phải giữ để làm cho các mối quan hệ tốt đẹp và bền vững:

– Đối với Thiên Chúa, giữ tinh thần thảo hiếu.

– Đối với người khác, giữ tinh thần huynh đệ.

– Đối với vạn vật, giữ tinh thần huynh trưởng.

– Đối với chính mình, giữ tinh thần tự chủ.

3.1. Tinh thần thảo hiếu trong quan hệ với Thiên Chúa

om chan thanh gia Khi con người nhận thức mình được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và Thiên Chúa là nguồn của mọi hiện hữu, của chân thiện mỹ, của sự sống vĩnh hằng và hạnh phúc vô biên mà mình luôn mong đợi, thì con người mới nhận ra được phẩm giá cao quý vô song của mình mà không một thụ tạo nào có thể so sánh được. Con người được mời để đáp lại tình yêu của Thiên Chúa bằng đức tin và tình yêu[33].

Hơn nữa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa làm người, con người nhận biết mình được tha thứ, được nhận làm con người cái của Ngài và được chia sẻ thần tính của Thiên Chúa nên con người đối xử với Thiên Chúa bằng tinh thần thảo hiếu chân thành, khác hẳn thái độ sùng bái các thần thánh trong lo sợ của các tôn giáo khác[34].

Con người khám phá tận đáy lòng mình lương tâm ngay chính như tiếng nói của Thiên Chúa như một lề luật phải theo, dạy con người phải yêu mến và làm điều thiện cũng như phải tránh điều ác[35]. Tuân theo các lề luật ấy là tuân theo các giá trị đạo đức. Các giá trị này bắt nguồn từ luật tự nhiên được ghi khắc trong lương tâm con người, nhờ đó phẩm giá con người được nâng cao và xã hội được ổn định[36].

Từ lòng thảo hiểu đối với Thiên Chúa, con người sẽ bày tỏ tinh thần thảo hiếu này đối với cha mẹ, thầy cô, ông bà, tổ tiên, dân tộc… là những người thay mặt Chúa chuyển giao hay chia sẻ sự sống, sự thật, hạnh phúc, tình yêu, kiến thức và các ơn lành cho mình. Chính trong mối tương quan với Thiên Chúa, con người được đào tạo để hiểu biết và giữ lòng ái quốc với dân tộc, tinh thần bảo vệ các nền văn hoá và lòng quảng đại chia sẻ vô điều kiện những ơn lành của Cha Trên Trời cho mọi người, mọi vật, thay vì đòi hỏi quyền sở hữu và tác quyền cách bất công như hiện nay.

3.2. Tinh thần huynh đệ trong tương quan với mọi người

Từ nền tảng lòng thảo hiếu với Thiên Chúa, con người mới nhìn nhận mọi người sống trên trái đất và trong cả vũ trụ đều là anh chị em trong một đại gia đình của mình để đối xử với nhau bằng tình huynh đệ, không kỳ thị vì bất cứ lý do gì.

vh Vượt lên trên đòi hỏi của Thiên Chúa: “Ngươi phải yêu thương người khác như chính mình” (Lc 19,18), Đức Giêsu còn mời gọi con người: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 1…) để dám chết thay cho mọi người, tha thứ và cầu nguyện cho kẻ đóng đinh mình và diễn tả tình yêu cụ thể đó thành những hành động chăm lo cho các nhu cầu của người khác (HTXHCG, số 112; x. Mt 22,37-40; Mc 12,29-31; Lc 10,27-28).

Thuyết Big Bang đưa con người hiểu rằng Thiên Chúa là người Cha Tạo Hoá thì vũ trụ bao la này vẫn có thể có những “người khác” ở ngoài hành tinh của mình để tìm hiểu, gặp gỡ, yêu thương và cùng nhau xây dựng một nền hoà bình giữa các vì sao (star peace), thay cho cuộc chiến tranh (star war) mà những phim ảnh đang cổ vũ.

Thiên văn học cho chúng ta biết thiên hà của chúng ta có khoảng 400 triệu ngôi sao giống như mặt trời và có khoảng 8000 hành tinh có điều kiện giống như trái đất, nghĩa là vật chất có thể phối hợp tiến hoá thành những “con người”. Vũ trụ có khoảng 100.000 thiên hà đã được kính thiên văn Hubble chụp được. Như thế, có hàng trăm ngàn hành tinh có những điều kiện phát triển sự sống và những con người nơi ấy có thể có những nền văn minh bằng hoặc hơn con người ở trái đất (x. báo Tuổi Trẻ online, ngày 9/3/2009).

Image result for người ngoài hành tinh Khi Giáo hội Công giáo tôn vinh Đức Giêsu Kitô là Vua Vũ Trụ vào Chúa Nhật cuối cùng của năm Phụng vụ và Kinh Thánh nhắc nhở ta về việc mọi sự trong vũ trụ được tạo dựng nhờ Người và cho Người (Ga 1,3), thì mọi con người ở bất cứ nơi nào trong vũ trụ đều có thể đón nhận được ơn cứu độ của Đức Giêsu. Khi Đức Giêsu đón nhận thể xác được cấu thành bởi vật chất của trái đất này thì Người cũng là thành viên của vũ trụ và cứu độ tất cả theo kế hoạch của Chúa Cha. “Thiên Chúa yêu thương thế giới nên đã ban Người Con Một” (Ga 3,16). Thế giới này trước tiên hiểu về những con người biết tin vào Đức Giêsu. Nếu tinh thần của những con người ở các hành tinh khác mở ra đến vô biên, thì họ cũng có thể gặp gỡ được Đức Giêsu một cách nào đó để nhận được ơn cứu độ (HTXHCG, số 130).

3.3. Tinh thần huynh trưởng trong quan hệ với vạn vật

Đối với vạn vật và các thụ tạo không phải là con người, con người giữ tinh thần của người anh lớn, chị lớn để lo lắng cho các đứa em của mình. “Con người có khả năng và bổn phận lấy các thụ tạo khác phục vụ mình và hưởng dùng chúng, nhưng việc chế ngự thế giới đòi hỏi họ phải thi hành trách nhiệm, chứ không được tự do khai thác cách tuỳ tiện và ích kỷ” (HTXHCG, số 113). Thiên Chúa đã giao phó vạn vật cho con người để thay Ngài quản trị muôn loài (x. St 1,26-28; Kn 2,23). Con người thống trị thụ tạo bằng cách đặt tên cho chúng (x. St 2,19-20) và như thế, Ngài mời gọi con người có trách nhiệm với chúng (HTXHCG, số 113; GLHTCG, số 373).

dptrienlam 6 Khi hiểu được vạn vật làm nên xương thịt của mình qua đồ ăn, nước uống, khí thở, con người sẽ thể hiện trách nhiệm huynh trưởng với tình yêu mãnh liệt đối với vạn vật như Đức Giêsu. Tình yêu ấy làm cho con người nhận ra đúng sự thật của vạn vật để điều khiển chúng đến độ nói cho gió yên, biển lặng, bánh cá hoá nhiều, đi trên mặt nước… như Chúa Giêsu. Vì vạn vật hy sinh sự sống cho con người, nên con người cũng sẵn sàng tự nguyện chết cho vạn vật để bảo vệ và phát triển chúng như Đức Giêsu để giải thoát và đưa chúng vào chung hưởng vinh quang vĩnh hằng của con cái Thiên Chúa (HTXHCG, số 123).

Tinh thần huynh trưởng được thể hiện qua việc chuyên cần học hỏi, nghiên cứu vạn vật qua các khoa học tự nhiên, siêng năng lao động, làm ra của cải vật chất và biết chia sẻ những của cái đó cho người yếu kém, bảo vệ môi trường sống cho sạch, xanh, đẹp và an lành cho mọi người và mọi vật khác.

3.4. Tinh thần tự chủ trong quan hệ đối với chính mình

EssayContest_552 Trong tương quan với chính mình, con người giữ tinh thần tự chủ. Con người chú ý lắng nghe những khát vọng sâu xa của tâm hồn mình, con người cũng cảm nghiệm những khắc khoải muốn được nghỉ ngơi trong Chúa[37], cảm nghiệm những thôi thúc của bản năng, của dục vọng và những hậu quả tai hại của tội lỗi[38]. Vì thế, con người phải cố gắng làm chủ bản thân, thời giờ, tình cảm, ân huệ, tham vọng và dục vọng để trở thành một con người tự do thật sự trước mọi ràng buộc của đời sống. Khả năng tự chủ này được đào tạo qua việc giáo dục và tập luyện những kỹ năng sống sau đây:

Làm chủ ân huệ Chúa ban qua đời sống kết hợp với Chúa, Đức Mẹ, các thần thánh bằng cầu nguyện, phụng tự, đón nhận bí tích. Tất cả đều là hồng ân để luôn sống trong tâm tình tạ ơn.

Làm chủ cá tính cần làm các trắc nghiệm tâm lý để biết mình thuộc loại cá tính nào, có những ưu điểm, khuyết điểm nào, tài năng nào, cảm năng hoạt động cao hay thấp…

140930_cai1_pp_512Làm chủ tài năng tinh thần như trí hiểu, trí nhớ, trí tưởng tượng, ý chí để trở thành con người biết sống tự lập, sáng tạo và đem lại hạnh phúc cho mình cũng như cho mọi người.

Làm chủ thời giờ bằng việc hiểu rằng mỗi giây phút sống đều có giá trị vĩnh hằng khi kết hợp với Thiên Chúa và đều có thể đem lại niềm vui, hạnh phúc, ơn cứu độ cho muôn loài[39]. Vì thế, cần lập chương trình sống mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm để tận dụng thời giờ Chúa ban.

Làm chủ các phương tiện vật chất để bảo đảm những điều kiện cần thiết cho một đời sống tự lập[40]. Của cải không phải chỉ làm lợi cho người sở hữu và còn cho người khác, vì Thiên Chúa ban trái đất chung cho con người[41]. Đó là mục tiêu phổ quát của vật chất và nhờ đó tạo ra một thế giới công bằng và liên đới[42]. Người chủ sở hữu vật chất cần biết tự nguyện sống tinh thần nghèo khó của Đức Giêsu (x. 2Cr 8,9) để làm giàu cho thế giới và nhân loại.

Kết luận

Khi hiểu nền nhân bản mà được Giáo hội Công giáo cổ vũ trong HTXHCG là một nền nhân bản toàn diện và liên đới, người tín hữu rất tự hào và quyết tâm xây dựng cho mình cũng như cho cộng đồng của mình thành những con người mới trong một trời mới, đất mới (x. GS, số 39; HTXHCG, số 123) mà Đức Giêsu Phục Sinh đã bắt đầu ngay tại trần thế này. Chỉ nhờ nền nhân bản này, con người mới có thể phát triển trọn vẹn và cộng đồng xã hội mới đạt được an vui, hạnh phúc vững bền.

———————————————————

Câu hỏi

1. Đâu là điểm cần phân biệt khi nói Chúa là nguồn gốc mọi sự và là cùng đích mọi loài, trong khi lại xác định “con người là nền tảng, là trung tâm” để quy hướng mọi hoạt động của Giáo Hội và xã hội?

2. Nguyên nhân nào đã khiến các hệ tư tưởng đòi trả lại cho con người vị trí trung tâm của mọi quan tâm và hoạt động?

3. Lĩnh vực nào của con người ít được quan tâm nhất trong thời đại hiện nay?

4. Trong các mối tương quan của con người, tương quan nào bị bỏ bê hơn cả?

5. Tương quan nào là nền tảng để xây dựng các tương quan khác?

6. Bạn nghĩ mình đang cần làm chủ điều gì hơn cả trong thời điểm hiện tại?

———————————————————

Chú thích:

  1. x. Tóm lược HTXHCG, số 103, 391, 582.

  2. x. Từ điển Tiếng Việt 2013, mục từ chủ nghĩa nhân bản, nhân văn, nhân đạo, tr.24-27; Từ điển Bách khoa Việt Nam, q.I, 2005, NXB Từ điển Bách khoa Việt Nam, mục từ chủ nghĩa nhân bản, nhân văn, nhân đạo, tr.638.

  3. x. Tóm lược HTXHCG, số 6-7.

  4. x. Nguyễn Đình Diễn, Từ điển Công giáo Anh Việt, NXB Đồng Nai, 2014, mục từ humanism, tr.982-983.

  5. x. ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Christifideles Laia, số 5.

  6. x. CĐ. Vat. II, GS, số 55.

  7. x. CĐ. Vat. II, GS, số 56.

  8. x. Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, Cẩm nang Tân Phúc Âm hoá, NXB Tôn Giáo, 2014, tr.201.

  9. x. CĐ. Vat. II, GS, số 3.

  10. x. CĐ. Vat. II, GS, số 19-21.

  11. x. CĐ. Vat. II, GS, số 12-18; Tóm lược HTXHCG, chương 3; Docat, chương 3.

  12. x. Tóm lược HTXHCG, số 431.

  13. x. Tóm lược HTXHCG, số 583.

  14. x. CĐ. Vat. II, GS, số 3; Tóm lược HTXHCG, số 13; Docat, câu 47.

  15. x. Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, Cẩm nang Tân Phúc Âm hoá, NXB Tôn Giáo, 2014, tr.315-317.

  16. x. Tóm lược HTXHCG, số 127; GS, số 14.

  17. x. Tóm lược HTXHCG, số 128.

  18. x. Bs. Alice Roberts, Atlas Giải phẫu Cơ thể Người, NXB Y Học, 2015, tr.10-26.

  19. x. Bs. Alice Roberts, Atlas Giải phẫu Cơ thể Người, NXB Y Học, 2015, tr.294-320.

  20. x. Tóm lược HTXHCG, số 144.

  21. x. Docat, câu 54.

  22. x. Tóm lược HTXHCG, số 125-126.

  23. x. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt 2013, mục từ Tự nhiên, tr.138 và Siêu nhiên, tr.1105.

  24. x. Tóm lược HTXHCG, số 20.

  25. x. Bs. Alice Roberts, Atlas Giải phẫu Cơ thể Người, NXB Y Học, 2015, tr.18.

  26. x. Bs. Alice Roberts, Atlas Giải phẫu Cơ thể Người, NXB Y Học, 2015, tr.16.

  27. x. Tóm lược HTXHCG, số 130; Docat, câu 53.

  28. GS, số 14; TLHTXHCG, số 128; Docat, câu 47.

  29. x. Tóm lược HTXHCG, số 108-109, 131; Docat, câu 47.

  30. Tóm lược HTXHCG, số 132-134.

  31. x. CĐ. Vat. II, GS, số 14; Tóm lược HTXHCG, số 128.

  32. x. Chương 10 của Tóm lược HTXHCGDocat.

  33. x. Tóm lược HTXHCG, số 108; GS, số 12; GLHTCG, số 357

  34. x. Tóm lược HTXHCG, số 105.

  35. x. Tóm lược HTXHCG, số 140-142; GS, số 12; Docat, câu 57, 62, 85, 128.

  36. x. Tóm lược HTXHCG, số 22, 37, 53, 89, 93; GS, số 20.

  37. x. Tóm lược HTXHCG, số 14.

  38. x. Tóm lược HTXHCG, số 115-123.

  39. x. CĐ. Vat. II, GS, số 22.

  40. x. Tóm lược HTXHCG, số 176.

  41. x. Tóm lược HTXHCG, số 177.

  42. x. Tóm lược HTXHCG, số 174.

Hướng tới sự trưởng thành toàn diện
Bài 3: Con đường sự thật giải thoát ta

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
Tài liệu tĩnh tâm – 3/2020

Lời mở

Nền nhân bản Kitô giáo giới thiệu bốn giá trị căn bản trong đời sống xã hội của con người, đó là: sự thật, tự do, công bằng, tình yêu[1].

Giá trị đầu tiên là sự thật. Đây là giá trị khởi đầu để giúp con người nghĩ đúng, nói thật, làm thật, sống thật trong một xã hội đầy vẻ hào nhoáng, câu nệ vào hình thức bên ngoài, tràn ngập những thông tin giả để lừa dối và những hoạt động kinh tế thiếu minh bạch. Đó là lý do tại sao từ “sự thật” được nhắc đến ở 86 số trong 583 số của sách Tóm lược Học thuyết Xã hội Công giáo và ở 38 câu trong số 328 câu của sách Docat.

Vì thế, chúng ta tìm hiểu sơ qua sự thật trong đời sống con người hiện nay ra sao, nhân loại đi tìm sự thật như thế nào và sự thật toàn diện của con người là gì.

lighted-path

1. Sự thật trong đời sống

Hiện nay, mỗi ngày hàng tỉ người đang theo học trong các trường lớp, miệt mài nghiên cứu trong các phòng thí nghiệm, say mê tìm hiểu qua các sách báo, phim ảnh, internet, chia sẻ điều mình tìm được qua các buổi nói chuyện và các phương tiện truyền thông xã hội… Mục đích chỉ nhằm khám phá ra sự thật ẩn chứa trong thiên nhiên, trong vạn vật, trong lòng người và trong cả Thiên Chúa hay các thần linh. Nhân loại khát khao sự thật, mơ ước tìm ra sự thật trong một ngọn cỏ vì nó có thể cứu chữa cho hàng triệu bệnh nhân ung thư. Con người mong mỏi tìm ra sự thật trong lòng người để có thể kết ước trăm năm, nhưng “Dò sông dò biển dễ dò. Nào ai lấy thước mà đo lòng người!”.

Thật ra, vì được Thiên Chúa chân thật tạo dựng nên muôn vật, muôn loài đều phản ánh sự thật. Sự thật không phải là một cái gì ở bên ngoài, nhưng ở trong ta, trong mọi sự và ta có thể cảm nhận được ngay. Nhìn vào một bông hoa, ta cảm nhận được sự thật vì màu sắc của cánh, của nhuỵ, của đài hoa, dù rực rỡ hay đơn sơ, đều là thật chứ không tô vẽ, giả tạo bằng những nét sơn phết bên ngoài. Một lời nói, dù có vẻ thô lỗ, cộc cằn, nhưng ta biết đó là lời thật, chứ không phải rào trước đón sau của những người khéo ăn khéo nói.

5

Con người nào cũng muốn sống thật với chính mình, muốn người khác sống thật lòng với mình. Chẳng ai muốn đóng kịch trên sân khấu cuộc đời, dù những vai diễn có cao sang như vua quan hay đẹp tươi như đại gia kiều nữ. Chẳng ai muốn người khác lừa bịp mình bằng những lớp quần áo hoá trang, những lớp son phấn vật chất giả tạo. Ai cũng muốn sống hạnh phúc, an lành giống như nguyên tổ Adam – Eva trong vườn Eden, vì thân thể trần truồng và thân phận thụ tạo của họ đã được bao phủ bằng hào quang chân thật của Thiên Chúa (x. St 1-2).

Học thuyết Xã hội Công giáo giải thích việc con người đánh mất sự thật nơi mình bằng bi kịch của tội[2], khi con người đầu tiên Adam vi phạm giới răn của Chúa, đánh mất sự thánh thiện và công chính mà mình đã có khi được tạo dựng, cắt đứt với nguồn sống vô tận và chân thật là Thiên Chúa. “Hậu quả của tội làm con người xa rời, không phải chỉ với Chúa, mà còn với chính mình, với người khác và với thế giới chung quanh” (HTXHCG, số 116).

140930_cai1_pp_512 “Hậu quả cụ thể là con người phải chết vì xa rời nguồn sống vĩnh hằng. Con người tố cáo nhau (x. St 3,12), lừa dối nhau, giết hại nhau (x. St 4,2-16). Các hậu quả của tội làm cho cơ cấu của tội kéo dài mãi mãi. Những cơ cấu này lại ẩn sâu trong tội cá nhân… khiến cho tội trở nên trầm trọng hơn, dễ lan truyền và trở thành nguồn phát sinh các tội khác, chi phối cách ứng xử của con người” (HTXHCG, số 119; GLHTCG, số 1869). Nhất là khi con người ham muốn thu nhiều lợi nhuận và khát khao quyền lực bằng bất cứ giá nào[3].

Từ đó ta hiểu tại sao có tin giả, hàng giả và mọi thứ giả dối trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá, chính trị và cả tôn giáo nữa.

Khi Adam – Eva cắt đứt mối tương quan với Thiên Chúa chân thật, xé rách vầng hào quang ân sủng bao phủ, họ chỉ còn thấy mình là thụ tạo trần trụi, yếu đuối và cái chết ở cuối cuộc đời. Họ không nhận ra người khác cùng xương thịt với mình mà chỉ đánh giá nhau theo những lớp áo hoá trang, màu da bên ngoài và trở thành những chú Cuội với nhau. Họ cũng chẳng nhận ra vạn vật là những đứa em nhỏ trong đại gia đình Thiên Chúa đã làm nên xương thịt của mình, mà chỉ coi chúng là loài vô tri, vô giác và khai thác chúng cạn kiệt như những ông chủ keo kiệt, bạo tàn.

anh-1-khu-vuc-mo-da-tan-hoang

Vì thế, nền nhân bản Kitô mời gọi con người đi tìm một sự thật toàn diện về Thiên Chúa, về con người, về vạn vật, về chính mình.

“Thiên Chúa là chính sự thật”[4]. Nhưng vì là tinh thần tuyệt đối, siêu việt, nên con người tương đối, bất toàn không thể cảm nhận trực tiếp sự thật này nếu không được Thiên Chúa bày tỏ mình ra cho con người. Con người chỉ có thể dùng tinh thần để nhận biết sự thật đó qua những thụ tạo hữu hình (x. Dc 1,1-4), đồng thời nhận ra Ngài là nguồn của mọi sự thật.

2. Nhân loại đi tìm sự thật

Kể từ khi biết suy nghĩ về thân phận con người, sự hiện hữu của vạn vật, trong suốt dòng lịch sử văn minh của mình, con người luôn khao khát sự thật và cố gắng đi tìm để giải đáp cho mình những câu hỏi về nguồn gốc, giá trị, cùng đích của con người, cũng như về đau khổ, về cái chết, về sự sống vĩnh hằng để tìm được sự giải thoát cho mình và cho vạn vật. Những chủ nghĩa, hệ tư tưởng, khoa học và tôn giáo đủ loại mô tả cho ta con đường đi tìm sự thật của loài người.

download

Con người biết suy tư xuất hiện cách đây khoảng 196.000 năm, khởi đầu ở châu Phi, sau đó di chuyển và xuất hiện ở châu Âu cách đây khoảng 40.000 năm. Con người sử dụng trí óc để tìm hiểu sự thật. Nhờ khám phá ra ngôn ngữ (khoảng 10.000 năm TCN), chữ viết (khoảng 4000 năm TCN), ngành in (khoảng 1000 năm) và các phương tiện truyền thông như điện thoại, truyền thanh, truyền hình, internet (thế kỷ 20), con người có nhiều phương tiện để khám phá, tìm hiểu, chia sẻ và phổ biến sự thật cho nhau. Bước vào thế kỷ 21, những khám phá và phát minh của tin học đã mở rộng con đường sự thật cho mọi người.

Sự thật, theo nghĩa thông thường, là cái có thật, cái có trong thực tế. Theo nghĩa triết học: là điều phản ánh đúng hiện thực khách quan[5]. Theo nghĩa sau, sự thật đồng nghĩa với chân lý (lẽ thật) sự phản ánh chính xác sự vật khách quan và quy luật của chúng vào ý thức của con người[6]. Chân lý là lẽ thật vốn có một cách khách quan, người ta phải nhìn nhận nó, không tuỳ thuộc vào sở thích hay ý muốn cá nhân[7]. Thánh Thomas de Aquino định nghĩa: “chân lý là sự tương hợp giữa thực tại và trí khôn” (Veritas est adequatio rei et intellectus)[8]. Sự thật trong triết học kinh viện được định nghĩa là “sự tương hợp giữa trí khôn và thực tại” (veritas est conformitas intellectus cum re).

Người thời tiền sử nhận biết những cái có thật trong đời sống thực tế: cây cối, động vật, biển cả, núi non, mặt trời, mặt trăng, lửa khói. Họ thấy nhiều thứ như hổ báo mạnh hơn mình, có thể gây chết chóc cho mình. Khi trí khôn phát triển hơn, họ nhận ra sự thật là mình mạnh hơn khi dùng trí khôn để thắng được hổ báo, ngăn sông, phá núi, lấp biển… Khoa thiên văn ngày nay dạy cho con người biết rằng mặt trời, mặt trăng và các vì sao không phải là các vị thần chi phối đời sống con người, mà chỉ là những khối vật chất.

Như thế, chân lý hay sự thật thường xuyên phát triển. Con người ngày càng thâm nhập sâu sắc vào các đối tượng, hiện tượng thì tri thức của con người về thế giới ngày càng chính xác hơn, đầy đủ hơn, khách quan hơn. Hơn nữa, thế giới con người cũng thường xuyên biến đổi, phát triển cho nên nó cũng quy định sự biến đổi của tri thức về nó. Tính đúng đắn của chân lý hay sự thật được kiểm tra bằng thực tiễn[9].

download (1)

hanh-phuc Cách đây khoảng 5000 năm, khi trí khôn con người vượt qua những thực tại vật chất để suy tư về những thực tại tinh thần như tình yêu, sự sống, cái đẹp, cái tốt, cái đúng, chiến tranh hay hoà bình… con người muốn biết chúng thật sự là gì. Khi thấy chúng vượt quá trí khôn của mình, không thuộc quyền hạn của mình, con người đưa chúng vào lĩnh vực của thần linh. Đó là thời kỳ của những huyền thoại và tôn giáo giải thích sự thật cho con người: mỗi thứ đều có những vị thần cai quản. Thần Mars về chiến tranh, thần Venus về sắc đẹp, thần Minerva về thi ca, thần Jupiter là thần cao nhất. Các tôn giáo cũng cố gắng giải thích cho con người sự thật về cái chết, về sự sống, về niềm mơ ước được sống mãi mãi, về ơn cứu độ.

Những lời giải thích về những thực tại tinh thần đó hầu hết chỉ mang tính chủ quan và không thể kiểm tra bằng thực tiễn, nên chúng không phải là những sự thật và cũng không đem lại sự giải thoát cho con người. Con người cứ sinh ra, lớn lên, già cỗi, bệnh tật và chết đi, dù mong ước được sống mãi, trẻ mãi, đẹp mãi. Xã hội con người vẫn cứ xung đột, giết hại nhau, lừa dối nhau với bao trò bịp bợm và chiến tranh lớn nhỏ, dù ai cũng mong ước được sống sung túc, bình an, hạnh phúc. Con người chưa tìm được sự thật giải thoát mình nên vẫn còn đang phải đi tiếp trên con đường tìm sự thật đúng nghĩa.

Cách đây khoảng hơn 2000 năm, vào đầu kỷ nguyên của chúng ta, Kitô giáo xuất hiện với vị sáng lập là Đức Giêsu. Vào thời điểm quyết định trong lịch sử, Thiên Chúa như là nguồn của sự thật, sự sống và mọi hiện hữu đã muốn bày tỏ cho loài người biết một sự thật cụ thể và siêu việt để quy tụ tất cả các sự thật tương đối về một mối. Sự thật không phải là những lý lẽ trừu tượng theo định nghĩa của con người, nhưng là một con người cụ thể để mọi người, mọi vật đều có thể tìm đến với người đó, đi vào con đường sự thật và sự sống của chính Thiên Chúa. Thiên Chúa đã cho Con Một Ngài là Ngôi Lời trở thành người, trở thành Đức Giêsu Kitô (x. Ga1,1-18). “Lời Cha là sự thật” (Ga 17,17) sẽ giải thoát con người và vạn vật khỏi u mê, lầm lạc do sự bất toàn của con người và sự lừa dối của quỷ ma. Đức Giêsu đã chứng minh Người là sự thật giải thoát bằng lời giảng dạy đầy uy quyền, bằng đời sống, bằng những phép lạ chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ, bằng cái chết cứu độ và sự sống lại của Người.

Trong hàng chục thế kỷ tiếp theo, những sự thật về Thiên Chúa, về con người, về vạn vật được truyền bá khắp vùng Địa Trung Hải, trong khắp đế quốc Roma và lan rộng ra khắp thế giới. Tuy nhiên, nhiều vùng ở châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản và Đông Nam Á người ta vẫn giữ những quan niệm của các tôn giáo cổ xưa như Ấn Độ giáo, Phật giáo. Nhiều nước ở miền Trung Đông và châu Phi lại theo các quan niệm của Hồi giáo.

Từ thế kỷ 13, khi các đại học được mở tại nhiều nước châu Âu, các giáo sĩ, tu sĩ Kitô giáo trở thành những người tiên phong cổ vũ con người đi tìm sự thật và phát triển các ngành khoa học, đặc biệt là triết học và thần học. Nhưng nền triết học và thần học kinh viện của Kitô giáo dựa trên những suy tư trừu tượng đã dần dần xa rời thực tiễn của con người và xã hội.

buon-den-chua Từ thế kỷ 18-19, cuộc cách mạng khoa học đã đưa nhân loại đến các miền đất mới của tri thức là khoa học tự nhiên và khoa học xã hội nhân văn, để con người khám phá các sự thật của vạn vật (khoa học vật lý, hoá học, sinh học, y học, thực vật học, động vật học, vũ trụ học, thiên văn học…), của chính mình (tâm lý học, phân tâm học, luân lý, đạo đức…), của xã hội mình sống (xã hội học, kinh tế học, nhân học). Những khám phá này càng giúp con người hiểu hơn sự thật về chính mình, về vạn vật, về vũ trụ lại càng thôi thúc con người đi tìm sự thật cho các câu hỏi: “Con người là gì? Đâu là ý nghĩa của đau khổ, sự dữ, cái chết? Sao chúng vẫn tồn tại mặc dù đã có bao nhiêu tiến bộ… Con người có thể đem lại gì cho xã hội và có thể trông đợi gì ở xã hội? Điều gì sẽ xảy ra tiếp theo sau cuộc sống ở trần gian này?”[10].

Thế kỷ 20-21, chứng kiến sự phân hoá về quan điểm sự thật giữa nhiều hệ tư tưởng khác nhau, nhất là chủ nghĩa tư bản và cộng sản, chủ nghĩa duy lý và duy thực, chủ nghĩa duy tâm và duy vật, nhưng tất cả đều chú tâm vào con người, vào khoa học vì tin tưởng khoa học tiến bộ có thể giải thoát con người. Thật sự, các khoa học kỹ thuật giúp ích cách thiết thực cho con người. Tuy nhiên, con người cũng ý thức rằng: dù khoa học có phát triển đến đâu, chúng cũng không thể nào vượt qua được những giới hạn nằm trong chính bản chất của sự vật và bản tính của con người có thể xác và tinh thần. Sự vật và thể xác con người luôn bị giới hạn bởi vật chất, không gian và thời gian. Con người không thể tự giải thoát chính mình để trở thành tuyệt đối, vĩnh hằng, vô biên. Con người cần một sự thật tuyệt đối ở bên ngoài mình để mình vươn tới siêu việt, đồng thời ở bên trong mình để thúc đẩy và biến đổi chính mình.

Con người cũng cần một sự thật tuyệt đối để đảm bảo cho mọi hoạt động đúng đắn của con người được đón nhận và có giá trị mãi mãi. Sự thật này chỉ có nơi Đức Giêsu Kitô, và chỉ có Người mới có thể chia sẻ sự thật đó cho những ai tin vào Người (Ga 17,17).

Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã phân biệt “chân lý tuyệt đối phản ánh hoàn toàn đầy đủ và trọn vẹn bản chất của khách thể, không thể bổ sung và cũng không thể bác bỏ” với “chân lý tương đối phản ánh được khách thể một cách đúng đắn, nhưng không đầy đủ”[11]. Chủ nghĩa này cho rằng con người không thể đạt được chân lý như vậy ngay một lúc, bởi vì nhận thức là một quá trình đi sâu mãi vào bản chất của khách thể. Chủ nghĩa này không công nhận tinh thần con người mở ra với siêu việt vì được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và Đức Giêsu là chân lý tuyệt đối cụ thể của Thiên Chúa đã đến với con người và hoà nhập vào trong con người.

2 Người tín hữu Công giáo, nhất là các linh mục, tu sĩ, khi học trong các học viện trong nhiều thế kỷ, đã quá chú tâm vào những vấn đề triết học, thần học và ít quan tâm đến những khoa học tự nhiên, xã hội nhân văn, những vấn đề thiết thực của con người cũng như những biến chuyển trong xã hội. Bài giảng của họ hầu như xoay quanh đến những vấn đề luân lý, những lời giải thích theo Thánh Kinh. Do không theo dõi những tiến bộ của khoa học, họ không thể giải thích kịp thời những vấn nạn của con người liên quan đến đức tin, luân lý. Thí dụ như: thuyết Big Bang và giả thuyết tiến hoá của Darwin. Do cứ lẩn quẩn trong những câu định nghĩa về sự thật siêu hình, sự thật mạc khải, sự thật tự nhiên và siêu nhiên, họ quên mất Đức Giêsu chính là sự thật toàn vẹn giải thoát muôn loài.

3. Sự thật toàn diện là chính Đức Giêsu

Con người sa ngã kéo theo vạn vật bị cưỡng bách phải chịu hư nát chung với con người (x. Rm 8,28) nhưng Thiên Chúa vẫn yêu thương con người và vũ trụ vật chất này. Ngài hứa ban Đấng Cứu độ ngay khi con người vừa phạm tội (x. St 3,1-24).

Đấng đó là Người Con Một của Ngài (x. Ga 3,16), “đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1,14). Đó là Ngôi Lời Thiên Chúa tự nguyện làm người, trở thành Đức Giêsu Kitô để dạy cho con người biết sự thật toàn diện là gì. Chính Người đã tự giới thiệu mình: “Tôi là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6).

obs-en-33-02 Khi tự nguyện trở thành con người mang thể xác vật chất, Con Một Thiên Chúa đã hoà mình vào dòng lịch sử của loài người, trở thành anh em của mọi người cũng như mọi vật. Người chia sẻ cho tất cả sự thật, sự sống và ân huệ của Thiên Chúa để tất cả cùng nhận ra nhau là con cái của người Cha Trên Trời. Người còn cho con người khả năng nhận biết sự thật trong vạn vật nhờ những tài năng tinh thần và ân huệ của Thánh Thần như ta thấy thể hiện trong đời sống của nhiều vị thánh như Antôn Padôva, Phanxicô Khó Nghèo, Martinô de Porres. Hơn nữa, nền nhân bản Kitô được diễn tả trong Học thuyết Xã hội Công giáo, đề cao sự thật như một giá trị căn bản. Sự thật ở đây không xác định là tương đối hay tuyệt đối, là chủ quan hay khách quan, là tự nhiên hay siêu nhiên, thuộc về hữu thể học, luân lý học hay luận lý học, thuộc về thần khải hay do lý trí con người khám phá ra.

Ngay trong số đầu tiên của phần nhập đề, Học thuyết này xác định: “Đức Giêsu Kitô chính là con đường, là sự thật và là sự sống (Ga 14,6), khi nhìn ngắm dung nhan Người, chúng ta càng thêm tin tưởng và hy vọng nơi Người, Vị Cứu Tinh duy nhất và cũng là mục tiêu duy nhất của lịch sử”[12]. Người không phải là những ý niệm trừu tượng của suy luận bằng lý trí, nhưng là một con người cụ thể, để ta nhìn ngắm, tiếp xúc, gắn bó trong tin tưởng và yêu thương.

2018_11_22_jux8z40o458

Đức Giêsu Kitô, vì là sự thật cụ thể của Thiên Chúa, nên Người vừa mang tính tuyệt đối của Thiên Chúa, vừa mang tính tương đối của con người. Người vừa là sự thật khách quan ở ngoài con người, nhưng đồng thời vừa hoà nhập với con người để họ nhận ra một sự thật chủ quan theo lương tâm ngay chính của mình. Người vừa là sự thật tự nhiên có thể dùng lý trí tìm hiểu về đời sống của Người trong lịch sử, đồng thời là sự thật siêu nhiên để khám phá bằng đức tin và ân huệ. Như thế sự thật Giêsu Kitiô là một tổng hợp tuyệt vời có thể nối kết và quy tụ mọi quan điểm của các hệ tư tưởng, tôn giáo của loài người trên đường tìm kiếm sự thật toàn diện và hoàn hảo. Học thuyết này xác định: “Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa làm người, trong Người và nhờ Người, thế giới và con người đạt tới sự thật đích thực và trọn vẹn của mình”[13].

Đức Giêsu dạy những sự thật căn bản để giải phóng con người và mang lại ơn cứu độ: “Người nói với những người Do Thái đã tin Người rằng: ‘Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi. Các ông sẽ biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng các ông'” (Ga 8,31-32). Người dạy ta sự thật về Thiên Chúa là người Cha yêu thương đến nỗi ban Con Một mình (Ga 3,16) và chỉ muốn con người thờ phượng Ngài trong Thần Khí và sự thật (Ga 4,23-24). Người giải phóng ta khỏi mọi loại tôn giáo cổ vũ cho những hành vi sai lạc, mê tín, làm tha hoá con người.

natural-umbrella_1188936 Người dạy ta sự thật về con người không phải là một đám vật chất tình cờ tụ lại, sống ít năm ở trần thế rồi lại tan rã thành bụi đất, nhưng là những người con yêu quý của Chúa Cha và là anh em của nhau, để sống mãi mãi và chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa. Qua việc làm người, Đức Giêsu đã đón nhận tất cả những gì thuộc về con người để biến đổi chúng thành những thứ thuộc về Thiên Chúa với giá trị phi thường. Mọi tư tưởng, lời nói, hành động của con người khi gắn kết với Người là sự thật tuyệt đối vĩnh hằng, sẽ tồn tại mãi mãi.

Điều này vừa là một lợi thế giúp con người can đảm sống theo sự thật một cách độc lập vượt ra ngoài mọi áp lực xã hội. Nhưng đây cũng là một thách đố cho tất cả những ai đang sống trái với sự thật vì họ sẽ bị chính Đức Giêsu Kitô là thẩm phán xét xử những hành vi dối trá, giả tạo của họ.

3 Đức Giêsu đã minh chứng Người là sự thật toàn diện cho con người khi rao giảng Tin Mừng cứu độ, chữa lành những người bệnh tật, cho người đói được ăn bánh no nê, giải thoát cho những người bị ma quỷ kiềm chế, tha thứ cho tội nhân, cho kẻ chết sống lại, chia vui sẻ buồn với con người, lao động như con người. Người còn chia sẻ quyền năng và sự sống kỳ diệu của Người cho các môn đệ để họ đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng cứu độ và làm chứng cho Người. Như thế là Người phá vỡ mọi giới hạn do tội lỗi đặt ra để giúp con người đạt đến sự thật phi thường mà họ vẫn ước mơ: đó là họ có thể mở ra với Đấng Siêu Việt và mọi chân trời của hiện hữu[14].

han-phuc-kho-dau Đức Giêsu dạy ta sự thật về vạn vật không phải là những thứ vô tri vô giác để hành xử với chúng như những ông chủ khắc nghiệt. Chúng thật sự là những đứa em trong đại gia đình Thiên Chúa và chúng ta là những anh chị lớn của chúng. Vì thế, càng yêu thương và tìm hiểu chúng qua các khoa học để biết sự thật về chúng, ta càng có khả năng cứu độ chúng, điều khiển chúng như Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ trên thiên nhiên. Trời đất đã tối sầm lại như đồng cảm với Đức Giêsu khi Người hấp hối trên thập giá và vui mừng trong cơn động đất khi Người sống lại để mời gọi ta nên có cái nhìn mới về vạn vật quanh ta.

cau-nguye-tinh-nguyen-pray-cdnvn-45 Đức Giêsu dạy ta sự thật về một con người toàn diện và xã hội mới mẻ gồm những con người biết vượt qua những xung đột và đối kháng để tìm được sự thật trong khoa học (HTXHCG, số 78), trong triết học (số 77), trong luân lý (số 83), trong tôn giáo (số 141), trong luật tự nhiên (số 142) cũng như siêu nhiên (số 70). Người đưa con người biết đón nhận nhau trong cộng đồng xã hội (số 150) để hành động theo những nguyên tắc và sự thật của xã hội (số 163-167), xây dựng những mối quan hệ trên nền tảng sự thật (số 199,200), xây dựng gia đình theo sự thật khách quan của hôn nhân (số 218-219), xây dựng trật tự xã hội với các tổ chức chính quyền (số 397), hoạt động thông tin dựa trên sự thật về con người (số 415).

Cuối cùng, chúng ta cần lưu ý rằng sự thật này không phải chỉ để biết, nhưng còn là để sống. “Sống trong sự thật” là điều đặc biệt quan trọng trong các quan hệ xã hội. Mọi người có nghĩa vụ đặc biệt là phải luôn hướng tới sự thật, tôn trọng sự thật và làm chứng về sự thật một cách có trách nhiệm”[15]. Như thế, trong mọi mối tương quan của con người, chúng ta được mời gọi để nghĩ thật, nói thật, làm thật. Điều này người tín hữu Công giáo có thể làm được, nhờ gắn bó với Đức Giêsu và đón nhận những ân huệ của Thánh Thần Chân Lý (Ga 14,26; 15,26-27; 16,12-13) mà Người ban cho tất cả những ai tin vào Người.

7

Lời kết

Sự thật mà nhân loại tìm kiếm trong suốt dòng lịch sử đã được khám phá. Câu hỏi Philatô đặt ra cho Đức Giêsu “Sự thật là gì?” (Ga 18,38) đã được giải đáp. Đó là Đức Giêsu Kitô, Người thật sự là con đường dẫn đến sự thật giải thoát, nhưng ta chỉ cảm nghiệm được sự giải thoát đó nếu ta cùng bước đi trên con đường này. Bạn có dám bước theo Đức Giêsu không?

———————————————————

Câu hỏi

1. Bạn có kinh nghiệm gì về sự thật qua những “thông tin” trên báo chí, truyền thanh, truyền hình và các mạng xã hội?

2. Có nhiều lúc trong cuộc sống, ta bất đắc dĩ phải nói dối để cho gia đình an vui, cộng đồng không hỗn loạn. Bạn có nghĩ đó là một giải pháp tốt không? Tại sao?

3. Những định nghĩa khác nhau của các chủ nghĩa, hệ tư tưởng về sự thật đã đồng quy về một con người, là Đức Giêsu Kitô. Bạn tìm được hiệu quả gì nơi sự kiện này?

4. Bạn đã có kinh nghiệm nào về sự giải thoát của Đức Giêsu khi biết được sự thật về Thiên Chúa, về con người, về vạn vật, về chính mình?

———————————————————

Chú thích:

  1. x. CĐ. Vat. II, GS, số 26; ĐHG Gioan XXIII, Thông điệp Pacem interris, số 55; Tóm lược HTXHCG, số 197-208.

  2. x. Tóm lược HTXHCG, số 115-123.

  3. x. ĐGH Gioan Phaolô II, TĐ. Sollicitudo Rei Socialis, số 36, năm 1988.

  4. x. Tóm lược HTXHCG, số 144, 214, 215-17, 2465.

  5. x. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt 2013, mục từ sự thật, tr.1129

  6. x. Từ điển Tiếng Việt 2013, mục từ chân lý, tr.195.

  7. x. HĐGMVN, Từ điển Công giáo, 2016, mục từ chân lý, tr.123.

  8. x. Nguyễn Đình Diễn, Từ điển Công giáo Anh Việt, 2014, mục từ truth, tr.2088.

  9. x. Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo Biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, q1, 005, mục từ chân lý, tr.516.

  10. x. CĐ. Vat. II, GS, 1965, số 10.

  11. x. Hội đồng Quốc gia Biên soạn, Từ điển Bách khoa Việt Nam, mục từ chân lý tuyệt đối, q.I., tr.516

  12. x. Tóm lược HTXHCG, số 1.

  13. x. Tóm lược HTXHCG, số 45.

  14. x. Tóm lược HTXHCG, số 130.

  15. x. Tóm lược HTXHCG, số 198; GLHTCG, số 2467.

Hướng tới sự trưởng thành toàn diện
Bài 4: Tình yêu trong kế hoạch tổng thể của Thiên Chúa

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
Tài liệu tĩnh tâm – 3/2020

Lời mở

TY 1 Giá trị thứ hai làm nền tảng cho đời sống xã hội của con người là tình yêu. Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội Công giáo nói đến tình yêu ở 129 số trong 583 số của toàn cuốn sách. Sách Docat nhắc đến tình yêu ở 72 câu trong 328 câu. Chúng ta cũng ghi nhận Công đồng Vaticanô II nhắc đến tình yêu hàng trăm lần trong tất cả các văn kiện. Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo nói đến 101 lần. Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã giải thích rất rõ về tình yêu trong 2 thông điệp: “Thiên Chúa là Tình yêu” (Deus est Caritas) và “Bác ái trong sự thật” (Caritas in veritate). Những số thống kê này cho ta hiểu ý nghĩa phong phú và tầm quan trọng của tình yêu trong đời sống Kitô hữu cũng như trong kế hoạch của Thiên Chúa[1].

Vì thế chúng ta sẽ tìm hiểu những quan niệm khác nhau của con người về tình yêu, tình yêu thật sự và toàn diện theo Kitô giáo được trình bày trong Học thuyết xã hội Công giáo để tiến tới việc xây dựng nền văn minh tình yêu như mục đích cuối cùng của mọi hoạt động xã hội.

1. Những quan niệm khác nhau về tình yêu trong đời sống

Yêu là một trong các hành động thường ngày của con người, liên hệ mật thiết với sự sống: sống để yêu và yêu để sống. Tình yêu vừa là cội nguồn tạo ra sự sống vừa là cùng đích của sự sống. Thậm chí ngay cả khi không còn sống trên trần thế, người ta vẫn có thể tiếp tục yêu để sống trọn vẹn và sung mãn như bao tổ tiên anh hùng của đất nước và các bậc thánh hiền của nhân loại.

Tuy nhiên, thực tế của đời sống hiện nay lại là một thảm trạng về tình yêu. Chỉ tính riêng ở Việt Nam đã có hàng triệu cuộc tình tan vỡ và hàng triệu bào thai bị phá bỏ mỗi năm, chưa kể hàng ngàn người bị giết hại, lừa bịp, tự tử và hàng chục triệu bệnh nhân tâm thần, chỉ vì con người không hiểu được nghĩa tình yêu và không biết yêu thương. Người ta có nhiều quan niệm khác nhau về tinh yêu.

1.1. Những quan niệm khác nhau về tình yêu

TY 3 – Trước hết, rất nhiều người không tin có tình yêu, nên họ cũng không cần tìm hiểu tình yêu bắt nguồn từ đâu. Nếu phân tích con người bằng tất cả máy móc khoa học tân tiến nhất, người ta cũng không thấy chỗ nào chứa đựng tình yêu, dù rằng người ta vẫn nói trái tim là biểu tượng tình yêu của con người, cũng như của Thiên Chúa.

Dù “yêu” là một từ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong ngày: yêu cha mẹ, yêu vợ con, yêu người tình, yêu bè bạn, yêu công việc, yêu tổ quốc, yêu đồng bào, yêu đất nước… nhưng thật khó giải nghĩa tình yêu là gì nên cũng không thể xác định yêu như thế nào mới tốt đẹp. Nhà thơ Xuân Diệu, là một thi sĩ nổi tiếng về tình yêu, đã viết bài Vì sao trong tập “Thơ Thơ”, sáng tác năm 1938, rằng:

Làm sao cắt nghĩa được tình yêu,
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều,
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu
“.[2]

TY 4 Ông cho rằng tình yêu là cái gì đó mờ ảo, bàng bạc trong thiên nhiên cũng như trong lòng người, nhưng không thể giải thích và xác định được.

Quả thật, những người theo chủ nghĩa duy vật biện chứng không tin có tình yêu. Điều này được minh chứng: trong hơn 4.000 trang khổ lớn của bộ Từ điển Bách khoa Việt Nam do hàng trăm giáo sư tiến sĩ của Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo biên soạn và xuất bản năm 2005, người ta không tìm thấy mục từ “tình yêu” mà chỉ có “tình bạn”, “tình cảm”, “tình dục”. Các người theo hệ tư tưởng duy vật không tin có tình yêu và cho rằng tình yêu là sản phẩm tưởng tượng của người theo chủ nghĩa duy tâm. Điều nực cười là trong khi các thầy cô dạy các học sinh lớp mẫu giáo, tiểu học phải “yêu cha mẹ, yêu bạn bè, yêu tổ quốc, yêu đồng bào”, thì học sinh và sinh viên lớp lớn lại được dạy tình yêu chỉ là sản phẩm bịa đặt của thuyết duy tâm sai lạc.

TY 16 Hậu quả là trong cộng đồng gồm những con người không biết yêu thương và không tin có tình yêu chân thật nơi con người, thì tất cả các mối tương quan chỉ được kết nối bằng sợi dây cơ học vật chất: tiền bạc, danh lợi, quyền lực, những rung động cảm xúc trên thân xác. Gặp trắc trở hay hết tiền bạc, hết danh lợi, hết cảm xúc thì người ta cũng hết tình. Những con người trong xã hội này không cảm nghiệm được hạnh phúc chân chính của tình yêu. Họ chỉ cảm nghiệm được niềm vui khi thoả mãn được các đòi hỏi của thể xác, chứ không biết đến những nhu cầu của tinh thần. Vì thế cộng đồng xã hội họ sống đầy dẫy những bất công, gian dối, tham lam, giết hại lẫn nhau.

Các tôn giáo khác rất ít khi nói đến tình yêu vì thường hiểu đó là tình cảm yêu đương nam nữ của con người bị bản năng sinh lý chi phối, nên xem thường và còn nhắc nhở các tu sĩ phải xa tránh hay kiêng cữ cho xứng đáng với thần linh.

Chúng tôi thử tìm định nghĩa về tình yêu trong các từ điển của Phật giáo nhưng không thấy[3]. Anh em Phật giáo cho tình yêu chỉ là vô thường, tình cờ tụ lại trong một kiếp người hay trong một ít năm sống, sau đó lại tan biến. Vì vậy mà Sư Giác Duyên nói với Thuý Kiều rằng: “Tu là cõi phúc, tình là dây oan[4]. Tín đồ Phật giáo thường đưa tình yêu vào một trong ba, hay vào cả ba loại phiền não căn bản, quấy nhiễu thân tâm, đầu độc con người là tham-sân-si, vì tình yêu, hiểu theo nghĩa tình dục, làm cho người ta tham lam, giận dữ, ngu si và phải dùng các phương pháp đối phó như phép quán bất tinh, quán từ bi, quán nhân duyên để giải trừ[5]. Chắc hẳn còn nhiều bộ từ điển Phật giáo khác có thể đề cập đến định nghĩa tình yêu mà chúng tôi chưa có điều kiện để tham khảo.

– Những người không biết tình yêu bắt nguồn từ đâu.

Có những người tuy nhận ra tình yêu chân thật và giá trị tốt đẹp của nó, nên họ đã yêu thương, nhưng lại không đi trọn được đường tình của mình do bị lừa dối, phản bội. Có người bi quan hơn thì cho những khổ đau đó là lẽ thường tình của kiếp người vô thường. Tình yêu chỉ đem lại thứ hạnh phúc nửa vời nên cho rằng:

Tình chỉ đẹp khi còn dang dở
Đời mất vui khi đã vẹn câu thề.
[6]

Trong cộng đồng của những người tin có tình yêu nhưng lại không tìm ra cội nguồn, ta chỉ gặp thấy những loại hạnh phúc dở dang, những niềm vui không trọn vẹn. Người ta vội vàng yêu nhau, sống thử với nhau như vợ chồng để khi sống thật lại ly dị nhau vì những lý do nhỏ nhặt. Người ta có cùng một lúc rất nhiều những người tình để có thể chọn lựa ra người “bạn trăm năm”, nhưng lại không muốn gắn bó suốt đời, dù thề thốt với nhau hàng trăm lần với sự chứng giám của trời đất, núi sông.

TY 5

– Những người biết rõ cội nguồn tình yêu

Một số tôn giáo độc thần như Do Tháo giáo, Kitô giáo, Hồi giáo biết rõ cội nguồn của tình yêu là Thiên Chúa, là Đức Thánh Allah, nhưng họ lại không yêu cho đúng đắn, tốt đẹp vì Thiên Chúa là tinh thần, vô hình, nên con người không biết được tình yêu của Ngài cao cả, vô biên như thế nào. Họ cần một tiêu chuẩn hay một Đấng nào đó dạy cho họ thật sự về tình yêu. Nhà thơ Công giáo Hàn Mặc Tử đã trả lời cho Xuân Diệu qua bài Đà Lạt trăng mờ, rằng:

Ai hãy lặng thinh chớ nói nhiều
Để nghe dưới đáy nước hồ reo
Để nghe tơ liễu run trong gió
Và để nghe Trời giải nghĩa yêu
.[7]

khi-su-doi-cho-chi-la-mot-thoi-quen-xau-elleman-2

Kitô giáo nói rất rõ về tình yêu khác hẳn với tất cả các tôn giáo khác. Nhưng ít người tín hữu Kitô hiểu được ý nghĩa phong phú tuyệt vời và diễn tả được nó trong đời sống, nên họ vẫn chưa thuyết phục người khác theo đạo của mình. Cho đến nay, mới chỉ có 7% dân số Việt Nam theo đạo Công giáo và khoảng 2% theo đạo Tin Lành. Số tín hữu Công giáo trên thế giới chiếm khoảng 18 % dân số toàn cầu.

1.2. Đi tìm một định nghĩa tình yêu

1.2.1. Hiểu lầm tình yêu là tình cảm yêu đương nam nữ

Các văn sĩ, nhạc sĩ, ca sĩ, các triết gia, học giả, các nhà xã hội học, các nhà thần học… đều nói rất nhiều đến tình yêu, nhưng hầu hết đều hiểu là tình cảm yêu đương nam nữ. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã thôi thúc mọi người “hãy yêu nhau đi”:

Hãy yêu nhau đi quên ngày u tối
Dù vẫn biết mai đây xa lìa thế giới
Mặt đất đã cho ta những ngày vui với
Hãy nhìn vào mặt người lần cuối trong đời
.[8]

20a66d4fb674fb1fe8eedb452c08fc99

Rồi người ta phân biệt tình yêu này với tình cha, tình mẹ, tình huynh đệ, lòng ái quốc… dù mỗi người chỉ có một trái tim để yêu cha mẹ, vợ con, người tình, cũng như để yêu nghề nghiệp, yêu khoa học, yêu thiên nhiên, yêu dân tộc, yêu quê hương, yêu nhân loại…

1.2.2. Định nghĩa tình yêu

Mở cuốn Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên với sự cộng tác của các nhà ngôn ngữ học, chúng ta tìm được câu định nghĩa sau đây: “Tình yêu là tình cảm yêu mến, làm cho gắn bó mật thiết và có trách nhiệm với người với vật“, nghĩa thứ hai mới là “Tình cảm yêu đương giữa nam và nữ[9]. Còn yêu là “có tình cảm dễ chịu khi tiếp xúc với một đối tượng nào đó, muốn gần gũi và thường sẵn sàng vì đối tượng đó mà hết lòng“. Nghĩa thứ hai của yêu mới là “có tình cảm thắm thiết dành riêng cho một người khác giới nào đó, muốn sống chung và cùng nhau gắn bó cuộc đời“. Yêu đồng nghĩa với thương[10].

TY 71.2.3. Từ “tình yêu” theo Kitô giáo

Tôn giáo nhắc nhiều đến tình yêu là Do Thái giáo. Người Do Thái hiểu biết và cảm nhận được tình yêu (2Sbn 2,11) của Thiên Chúa Giavê mà họ thờ kính (x. Xh 20,6) nên họ cũng phải yêu mến đồng bào (x. Lv 19,18) và cả ngoại kiều (x. Đnl 10,19) bằng tình yêu chân thành như tình yêu đối với Giavê (x. Đnl 6,5; 11,1). Các tác giả Thánh Kinh mô tả tình yêu vợ chồng (x. 1V 11,1), tình bạn (x. 1Sm 18,1.3; 20,17), tình yêu đối với lề luật Chúa (x. Tv 119) với đền thờ Giêrusalem (x. Tv 122)… bằng một từ duy nhất: yêu để dẫn mọi người đến cội nguồn tình yêu là chính Thiên Chúa.

Tuy nhiên, chỉ Kitô giáo mới là tôn giáo duy nhất xác định tình yêu là gì, phải yêu thương cụ thể như thế nào, tình yêu bắt nguồn từ đâu và dẫn con người đến đâu. Người Công giáo đã dựa trên giáo huấn về tình yêu này để xây dựng nên nền văn hoá đặc biệt của mình trong suốt 20 thế kỷ qua, kể từ lúc Đức Giêsu Kitô rao giảng Tin Mừng về tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Nền văn hoá này đã tác động mạnh mẽ đối với các dân tộc ở các nước Âu Mỹ trong nhiều thế kỷ qua. Chỉ vài thế kỷ gần đây, khi con người đặt tất cả niềm tin vào khoa học kỹ thuật, đề cao chủ nghĩa cá nhân và tư bản để hưởng thụ vật chất, người ta mới ít quan tâm đến những giá trị tinh thần, trong đó có tình yêu.

TINH YEU 2

1.2.4. Lầm lẫn giữa tình yêu và tình thương

Riêng ở Việt Nam, người tín hữu Công giáo có nguy cơ bị lầm lạc khi họ lẫn lộn “tình yêu” với “tình thương”, bắt nguồn từ việc phiên dịch thiếu chính xác các bản văn Thánh Kinh và các văn bản chính thức của Giáo Hội.

Do ảnh hưởng của xã hội và cả những người có tôn giáo đã đồng hoá tình yêu là tình dục, nên các dịch giả Công giáo đã dùng từ “tình thương” để dịch từ Agape của tiếng Hy Lạp, từ CaritasAmor của tiếng La Tinh hay Love của tiếng Anh. Tuy nhiên, tình thương khác với tình yêu. Tình thương, theo gốc tiếng La Tinh là Misericordia và tiếng Anh là Mercy, không thể dùng lẫn lộn với từ “tình yêu” được, dù rằng “tình thương” bắt nguồn từ tình yêu. “Tình thương” được Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “tình cảm thương yêu, chia sẻ và đùm bọc một cách thắm thiết[11] và nó mang một ý nghĩa thương xót: “cảm thấy đau đớn, xót xa trong lòng trước một cảnh ngộ không may nào đó[12].

Trong khoảng 20 năm gần đây, Giáo hội Công giáo cổ vũ phong trào “Lòng Chúa Thương Xót” nên người ta càng thích dùng từ tình thương thay cho tình yêu. Có tác giả lại kết hợp cả hai và tạo nên từ “tình yêu thương” để diễn tả tình yêu mang nhiều sắc thái của Thiên Chúa cũng như của con người.

Thật ra, khi đồng hoá tình yêu là tình thương, người ta đã làm nghèo nội dung của tình yêu, vì con người có thể chia sẻ, quan tâm săn sóc người khác mà vẫn không yêu họ, như người vợ săn sóc người chồng đã phản bội mình. Đó là kiểu yêu nhau vì nghĩa chứ không phải vì tình. Hơn nữa, dùng từ như vậy có thể hiểu sai nghĩa thần học, vì khi nói “tôi thương Thiên Chúa” thì người ta lại hiểu lầm rằng Thiên Chúa đang gặp một cảnh ngộ bất hạnh nào đó đáng cho ta động lòng thương xót đối với Ngài. Tuy nhiên, Thiên Chúa có đầy đủ mọi sự, hoàn hảo và không cần đến lòng thương xót của ta![13]

82963f46071f9d7c64f3e7d54ef0bc09_grande

Nhóm Phiên dịch Các giờ Kinh Phụng vụ có công rất lớn trong việc dịch và phổ biến bản văn Thánh Kinh của Giáo hội Công giáo. Với cả triệu cuốn Tân Ước, Kinh Thánh Trọn bộ, hàng chục ngàn cuốn Phụng vụ các giờ kinh, cuốn Bài đọc trong Thánh lễ, nhóm này đã đưa từ “tình thương” thay cho “tình yêu” và đã ảnh hưởng đến rất nhiều những văn bản khác của Giáo hội Công giáo Việt Nam. Thí dụ: “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy… anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,10-13). Trong Thư Chung hậu Đại hội Dân Chúa năm 2010 của HĐGMVN, người ta dùng tựa đề “Cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thương và sự sống”, thay vì dùng từ “tình yêu”! Chúng tôi hy vọng rằng việc dùng từ chính xác để phiên dịch Lời Chúa sẽ giúp chúng ta trình bày trung thực thánh ý của Ngài.

Chỉ tiếc rằng Từ điển Công giáo, do HĐGMVN xuất bản năm 2016 với 2022 mục từ dày tới 1216 trang, cũng không có mục từ “tình yêu”, dù có từ “thương xót”!

1. 3. Giải thích tình yêu con người theo sinh lý học

Đối với nhiều người, tim (con tim, quả tim, trái tim) là biểu tượng của tình yêu bởi vì tim là bộ phận quan trọng trong hệ tuần hoàn. Tim bơm máu đi khắp cơ thể để nuôi sống toàn thân con người. Tình yêu cũng được coi là động lực quan trọng nhất đem lại sức sống và niềm vui cho con người.

Đối với các tôn giáo, nhất là Công giáo, “Trái tim” là thuật ngữ chỉ toàn thể nội tâm con người: vừa là trung tâm của cảm xúc (x. 1V 8,66; 1Sm 1,8), vừa là nơi phát sinh tư tưởng (x. 1V 5,9; Hc 17,6), diễn tả ý chí hành động (x. Et 7,10) và cũng là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa (x. 1 Sm 12,24; G 32,40)[14]. Vì thế, người Công giáo tôn thờ Thánh Tâm Chúa Giêsu hay tôn kính Trái tim Vẹn sạch Đức Mẹ Maria. Tuy nhiên, nếu muốn hiểu được các mức độ tình yêu, người ta phải phân tích hoạt động của bộ não và hệ thần kinh của con người vì khi ta biết rõ cảm xúc và suy tư của con người, ta sẽ hiểu tại sao con người lại lầm tưởng tình yêu là cảm xúc, là tình cảm, là tình dục và mới hiểu tình yêu bắt nguồn từ đâu.

hoa 1 Khi con người yêu một đối tượng nào đó, dù là đồ vật hay là người khác, thậm chí là yêu khoa học, yêu tổ quốc, yêu Thiên Chúa, thì họ yêu bằng cả con người của mình, nghĩa là với các giác quan, cảm xúc và nhận thức. Những yếu tố này xuất hiện trong hệ thần kinh. Hệ thần kinh gồm não, tuỷ sống và các tế bào thần kinh gọi là neuron. Hệ này cho phép chúng ta thích nghi được với hoàn cảnh chung quanh, cảm nhận được thế giới quanh mình và hài hoà với nó[15]. Hệ này tiếp nhận thông tin từ tất cả bộ phận của cơ thể và đáp lại bằng các chỉ thị đến mọi mô và cơ quan[16].

Yêu theo cảm giác

Tuỷ sống thu thập các thông tin từ thân mình và tay chân rồi chuyển chúng lên não. Các thông tin này càng đi lên cao, hướng đến các phần cao của não: chất trắng và chất xám ở vỏ não, thì càng tiến gần tới sự nhận biết có ý thức của con người. Thí dụ: Người ta thấy người mình yêu xinh đẹp, thơm tho, giọng nói êm ái, làn da mát dịu, cặp môi ngọt ngào … đó là phần cảm giác. Cảm giác là hình thức thấp nhất của nhận thức. Đó là những cảm xúc nhất thời, không được chủ thể yêu ý thức một cách rõ ràng. Cảm giác là quá trình tâm lý cho ta biết những thuộc tính riêng lẻ của sự vật đang tác động vào các giác quan của ta. Ngoài 5 giác quan chính như thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác, ta còn có cảm giác thăng bằng, đau đớn[17]. Các thụ thể cảm giác phát đi các tín hiệu thần kinh đi từ cơ quan cảm giác như mắt, tai, lưỡi, mũi, da qua tuỷ sống, đến phần cao nhất của não là vỏ não, để từ đó phát ra các ý nghĩ, cảm nhận, học hỏi và ra quyết định có ý thức.

Rất nhiều người đang yêu ở mức độ cảm giác này. Có những người chỉ yêu cha mẹ vì được cho ăn, yêu nghề nghiệp vì kiếm được tiền bạc, yêu người khác vì được cho quà, yêu đất nước vì đang được hưởng lợi, yêu thần linh vì nhận được ơn lành. Khi không còn những mối lợi mà họ cảm nhận được qua giác quan là họ trở thành một con người vô cảm: xa lạ với cha mẹ, người tình; thay đổi nghề nghiệp, quốc tịch, tôn giáo. Họ chỉ yêu cách thụ động để thu nhận vào cho mình theo cảm giác của cơ thể.

Yêu theo cảm xúc

Nhiều người yêu ở mức độ cảm xúc. Cảm xúc là những thái độ rung cảm của con người trước những sự vật hay hiện tượng có liên quan đến việc thoả mãn hay không thoả mãn những nhu cầu cá nhân. Cảm xúc thể hiện qua cử chỉ, hành vi, điệu bộ và những phản ứng về mặt sinh lý. Thí dụ: khi giận dữ người ta thường nhíu mày và trừng mắt, đôi môi mím lại; hoặc khi vui vẻ thì người ta cười tự nhiên với nếp nhăn ở đuôi mắt, gò má nâng lên, thay đổi các cơ ở vùng mặt và não tiết ra chất endorphine. Theo tiến sĩ Paul Ekman, có 7 cảm xúc cơ bản của con người thể hiện giống nhau ở mọi nền văn hoá: vui, buồn, sợ hãi, giận dữ, ngạc nhiên, ghê tởm, khinh bỉ[18]. Cha ông chúng ta cũng nói đến 7 cảm xúc chính của con người là hỷ (vui), nộ (giận), ai (buồn), cụ (sợ), ái (yêu), ố (ghét), dục (muốn). Ngoài ra còn có các cảm xúc khác như: chán, hận, nhút nhát, quá khích, yêu thích, hưng phấn, tự tin do các nhà tâm lý khám phá gần đây.

13aa1d9de8dc018258cd Xét về lĩnh vực sinh lý, “não cảm xúc” là một thuật ngữ thường áp dụng cho hệ viền là một nhóm các phần nằm trên đỉnh của thân não, gồm: hạnh nhân, đồi thị, vùng dưới đồi, vòm và các thể núm, các vùng hướng vào trong của vỏ não và hồi đai. Hệ viền chi phối khi có các cảm giác sâu kín và phản ứng mãnh liệt trong những lúc xúc động mạnh và lý trí khó có thể kiểm soát. Đặc biệt là vùng dưới đồi, nối não với hệ thống hormon, là trung tâm của những nỗ lực, bản năng, phản ứng cảm xúc và tình cảm. Thí dụ: khi giận, tuyến thượng thận tiết ra chất adrenalin để thúc đẩy hành động bất ngờ.

Nhiều phần của hệ viền có liên quan đến việc hình thành ký ức. Vì thế, khi có cảm xúc mạnh, người ta có ký ức mạnh ngay lúc đó và lại có cảm xúc trước đây khi ký ức này được gợi lại[19]. Điều này khiến ta hiểu vì sao những cảm xúc mạnh như ngày đầu tiên đi học, lần đầu đi xe đạp, nụ hôn đầu đời, kỷ niệm ngày cưới… khiến người ta nhớ mãi. Hoặc một người chứng kiến cha mẹ mình bị tai nạn, mỗi khi trở lại quãng đường xảy ra tai nạn, thường nhớ lại hình ảnh, có những cảm xúc như khóc ngất do không làm chủ được mình.

Người yêu theo cảm xúc có thái độ chủ động để định hướng và thích nghi các hoạt động của mình. Họ sẵn sàng dấn thân và hành động khi có cảm xúc mạnh, nhất là bảo vệ người hay vật họ yêu thích và không muốn chia sẻ cho ai. Tuy nhiên, các cảm xúc đều mang tính chủ quan, nhất thời. Đối với một số người có chỉ số xúc cảm thấp (emotional quotient), họ thường không quan tâm bảo vệ “tình yêu” của mình và dễ dàng đánh mất khi có cảm xúc mạnh với người khác, vật khác. Điều này ta gặp thấy nơi những người chồng bỏ bê vợ mình khi quan hệ với những cô gái mãi dâm biết tạo những cảm xúc mạnh cho họ.

Trong lĩnh vực tôn giáo người ta thường có những cảm xúc mạnh qua những buổi cầu nguyện đông người, những bài thánh ca vang động mạnh mẽ vào tai họ, những cuộc hành hương đông đảo…. Tuy nhiên những cảm xúc đó cần phải được nâng lên mức độ nhận thức thì mới phát triển được lòng đạo đức chân thực, lâu dài.

Yêu theo tình cảm

Mức độ cao hơn cả là yêu theo tình cảm. Tình cảm được hình thành trên cơ sở những cảm xúc của con người đối với đối tượng mình yêu, nhưng chủ thể nhận thức được nguyên nhân tạo nên những tình cảm đó đối với một đối tượng nhất định, trong một thời gian nhất định, trong mối tương quan xã hội rõ ràng giữa con người với con người hay với một đối tượng nào đó, như khoa học, nghệ thuật, tôn giáo… Thí dụ: một người vợ yêu chồng vì luôn ý thức cả hai đã gắn bó với nhau, có trách nhiệm với con cái, với gia tộc và được nối kết bởi bí tích hôn nhân của tôn giáo.

Căn cứ vào đối tượng, người ta phân loại tình cảm: tình yêu đôi lứa, tình cha mẹ, tình vợ chồng, tình quê hương, tình dân tộc, tình yêu nghề nghiệp, tình yêu thiên nhiên, tình yêu thần linh. Các tình cảm này là nguồn động lực kích thích con người hành động, tìm tòi chân lý, sáng tạo nghệ thuật, điều hoà đời sống cá nhân, thúc đẩy khoa học và làm cho đời sống con người được phát triển trọn vẹn.

TY 11 Bộ não con người với các phần khác nhau lưu trữ và gợi nhớ các sự kiện bao gồm đủ mọi loại thông tin, sự việc, kinh nghiệm và hoàn cảnh – từ tên người đến khuôn mặt và nơi chốn – có liên quan đến trạng thái cảm xúc của ta vào thời điểm đó, đồng thời giúp chúng ta cảm nhận thế giới bên ngoài. Tất cả các phần vỏ não như vùng Broca, Wernicke, Geschwind, thính giác, thị giác, vận động và cảm giác thân thể phối hợp với các phần dành cho trí nhớ và cảm xúc ở vùng viền đều gửi thông tin về vùng điều hành trung tâm ở trước trán để tổng hợp, điều phối và lập ra kế hoạch hành động[20]. Vì thế khi định nghĩa tình yêu là tình cảm yêu mến, làm cho gắn bó mật thiết và có trách nhiệm với người với vật“, chúng ta đã thấy tình yêu của con người là một tổng thể phức tạp, vừa là một tình cảm làm cho người ta gắn bó mật thiết nhưng đồng thời lại có trách nhiệm với nhau. Thiếu phần trách nhiệm này, nó chỉ còn là những cảm giác hay cảm xúc nhất thời, làm cho con người bị lệ thuộc vào vật chất, không gian và thời gian. Chỉ có con người mới có tình yêu vượt lên trên mọi loài vì con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, được chia sẻ bản tính thần linh của Ngài.

Đi tìm nguồn tình yêu

Điều khiến chúng ta kinh ngạc về bộ não của con người và đặt câu hỏi là những nhận thức về mối quan hệ với đối tượng bắt nguồn từ đâu, nhận thức về hoàn cảnh, những phân biệt giữa các tình cảm đủ loại bắt nguồn từ đâu? Những chức năng như tổng hợp, phân tích, điều phối, thích nghi đến từ nơi nào? Bởi vì nếu ta phân tích việc truyền tín hiệu thần kinh trong các neuron, chúng ta sẽ chỉ thấy đó là dạng các xung động điện rất nhỏ. Các xung động thần kinh di chuyển dọc theo các sợi trục của neuron. Xung động này tác động vào các túi bằng màng chứa các chất dẫn truyền thần kinh đến từ thân tế bào của neuron. Các chất dẫn truyền này ở dạng hoá học, sẽ vượt qua các khe nhỏ xíu ở các điểm nối giữa các neuron, gọi là khớp thần kinh, trong vòng vài phần ngàn của giây, để truyền tín hiệu sang neuron tiếp nhận[21].

TY 12

Những xung động điện và các chất dẫn truyền trong bộ não của con người có thể nói là giống nhau, nhưng mức độ nhận thức về tình cảm nơi mỗi người lại rất khác nhau. Có người yêu cha mẹ vì hiểu được rằng cha mẹ sinh thành, dưỡng dục mình chứ không phải chỉ cho ăn (ở mức độ cảm giác), hay chiều chuộng theo ý thích của mình (ở mức độ cảm xúc). Nếu đi xa hơn về nhận thức, người đó yêu cha mẹ vì là hình ảnh của Thiên Chúa, vâng theo điều răn của Thiên Chúa “Hãy thảo kính cha mẹ”, dù cha mẹ họ già yếu, bệnh tật, khó tính, bất công với họ (ở mức độ tình cảm). Tất cả những nhận thức đó đều cần thiết để giúp cho con người nâng cao giá trị tình yêu của mình. Tình yêu của họ không còn bị lệ thuộc vào vật chất, vào không gian và thời gian để bước vào lĩnh vực của tinh thần. Tình yêu của họ vì thế mang tính vĩnh hằng và bất diệt!

Điều chúng tôi ghi nhận ở đây là trong bộ não của con người, chúng ta không thấy có chỗ nào chứa đựng nhận thức về trách nhiệm, tự do, hạnh phúc, tình yêu… Tất cả chỉ là những xung điện và những chất dẫn truyền thần kinh dưới dạng các phân tử hoá học. Vậy thì tư tưởng, nhận thức, tình yêu… của con người đến từ đâu và bắt nguồn từ đâu? Câu trả lời không thể tìm thấy nơi con người và khoa học hiện đại nhưng phải tìm về nguồn của mọi hiện hữu là Thiên Chúa, là Chúa Trời, là Ông Trời như nhà thơ Hàn Mặc Tử và nhiều người đang tin tưởng. Chỉ có Đấng đó mới giải nghĩa được tình yêu nơi con người và vạn vật trong vũ trụ.

2. Tình yêu thật sự và toàn diện theo Kitô giáo

Nền nhân bản Kitô đặt tình yêu là giá trị căn bản cho mọi hoạt động của con người vì tình yêu là bản chất cao cả nhất mà Chúa có thể ban cho con người thuộc giới tinh thần với ý thức và tự do[22]. Thiên Chúa vì yêu thương nên đã tạo dựng muôn loài để chia sẻ cho mọi loài thụ tạo những gì tốt đẹp của mình, trong đó tình yêu là ân huệ cao cả nhất. Vì thế không phải chỉ con người có tình yêu, mà vạn vật cũng có tình yêu. Tình yêu của chúng có khi còn trong sáng, cao cả hơn con người, vì không bị yếu tố tự do của tinh thần tác động như con người.

2.1. Tình yêu là bản chất của muôn loài

lam-vuon-cho-tre---day-tre-yeu-thien-nhien_phat-trien-tu-duy “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8.16). Tình yêu là bản tính của Thiên Chúa. Không một tôn giáo nào định nghĩa thần linh của mình như thế. Bản chất của tình yêu là hướng về đối tượng ở ngoài mình để chia sẻ những gì mình có cho đối tượng đó. Vì Thiên Chúa có đầy đủ mọi sự nên tình yêu của Ngài luôn mang tính trao hiến (amor benevolentiae) cách quảng đại, vô vị lợi, chứ không mang tính chiếm hữu (amor concupiscentiae), tìm vui thoả cho mình (amor complacentiae). Ta cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa tràn ngập khắp nơi qua từng cánh hoa, ngọn cỏ, gió mát, trăng thanh như Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử, vì thật sự không có gì ngẫu nhiên mà có. Chính vì Ngài yêu thương mỗi người chúng ta cũng như muôn loài, nên từng giây phút sống ta đều nhận được ân huệ sự sống, tình yêu, tri thức, niềm vui, chân thiện mỹ và tất cả những giá trị hiện hữu khác.

Khi Thiên Chúa đặt tình yêu vào bản chất của vạn vật cũng như bản tính của con người, Ngài chia sẻ tình yêu là bản tính của Ngài cho muôn loài, nhờ đó ta thấy muôn loài yêu thương nhau. Nhìn những bông hoa rất đẹp quanh vườn, chúng đang toả hương, khoe sắc cho ta mà đâu có đòi ta 1 xu nào! Tình yêu của chúng rất quảng đại, trong sáng. Nhìn vạn vật trong trời đất cũng thế, không vật chất nào trong thế giới tự nhiên đứng một mình. Ví dụ: Nước. Nếu phân tích ra, chúng là Hydro và Oxy. Chúng yêu nhau nên gắn bó với nhau thành nước. Nước ấy cho chúng ta uống, cũng chả đòi hỏi ta cái gì. Trong bữa ăn hằng ngày, chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của muôn thụ tạo hy sinh sự sống cho ta vì bản chất của chúng là tình yêu. Chúng ta được mời gọi để cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa trong vạn vật và bắt chước chúng để yêu cách trong sáng và quảng đại hơn.

Tuy nhiên, con người đã cắt đứt tình yêu Thiên Chúa kéo theo muôn loài thọ tạo lâm vào cảnh hư nát và ghét bỏ nhau. Kế hoạch tổng thể của tình yêu Thiên Chúa là cứu độ vũ trụ và cứu chuộc nhân loại nhờ Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô (x. Ga 3,16; HTXHCG, số 19; Docat, 20).

2.2. Yêu theo tình yêu của Đức Giêsu

Khi nhà thông luật hỏi Chúa Giêsu: “Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời”, nghĩa là đạt được sự sống kỳ diệu, phi thường của Thiên Chúa, Chúa Giêsu nói: “Ông hãy giữ luật”. Nhà thông luật hiểu luật đó là “yêu Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lục, hết trí khôn và yêu tha nhân như chính mình”. Luật tình yêu không phải ở trên trời hay ở biển xa nào đó, nhưng được Thiên Chúa đặt trong chính lòng con người, ngay trên môi miệng con người (x. Đnl 30,10-14, HTXHCG, số 32, 32, 160, 196) cũng như trong bản chất của vạn vật, bởi vì Thiên Chúa là tình yêu. Yêu như vậy mới cảm nghiệm được sự sống kỳ diệu của Thiên Chúa, vì Ngài yêu thương muôn loài nên chia sẻ cho tất cả tình yêu của mình và đặt tình yêu vào trong bản tính của muôn loài (x. Lc 10,25-28).

mother-teresa-s-greatest-achievement_dacca68a60cdef2c

Chúa Giêsu còn gợi ý cho ta đi xa hơn. Nếu ta muốn sống đời đời, muốn chia sẻ sự sống kỳ diệu, vĩnh hằng, phi thường của Thiên Chúa thì ta hãy yêu như Người vì Người là tình yêu cụ thể của Thiên Chúa[23]. Thiên Chúa là tinh thần, nên chúng ta không biết được tình yêu của Ngài cao cả, vô biên như thế nào. Nhưng khi Thiên Chúa cho Con của Ngài trở thành người, là Đức Giêsu Kitô, thì Ngài dạy cho chúng ta bài học tình yêu rất cụ thể. “Đây là Con ta yêu dấu, hãy vâng nghe Lời Người (Mc 9,7). Đức Giêsu dạy ta: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12, HTXHCG, số 54, 580). Chúng ta yêu như Người thì sẽ đạt được sự sống kỳ diệu ấy.

Đức Giêsu yêu cho đến nỗi chết trên thập giá, đổ máu đào cho mọi loài thọ tạo để hoà giải chúng với Chúa Cha. Nhờ sự hoà giải của Người, mọi người mọi vật đều là anh chị em của nhau, thành chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Người[24]. Vì thế, khi chúng ta yêu thương nhau một cách trọn vẹn như Người, ta sẽ cảm nghiệm được sự sống diệu kỳ viên mãn của Thiên Chúa (x. Cl 1,15-20).

Menyuapi-anak-anaknya Coi nhau như anh em một nhà để yêu thương quảng đại là ý nghĩa dụ ngôn Tin Mừng (x. Lc 10, 25-37). Một người Do Thái đi từ Giêrusalem xuống Giêricô bị rơi vào tay bọn cướp, bị chúng đánh nhừ tử rồi bỏ đó. Người tư tế đi ngang qua, trông thấy nạn nhân nhưng lại tránh sang một bên, có lẽ ông nghĩ mình còn nhiều việc phải làm để phụng thờ Thiên Chúa hơn là chuyện lo cho con người. Thầy Lêvi đi ngang qua đó, cũng bỏ đi vì thầy có nhiệm vụ giúp những thầy tư tế phục vụ Chúa, lo dọn của lễ… Chỉ có người Samari đi ngang qua, thấy người Do Thái nằm đó, dù người Do Thái thù ghét người Samari, nhưng người Samari lại coi người đó là anh em mình, nên đã săn sóc, trả tiền và giúp đỡ. Chúa Giêsu nói cho thầy thông luật và chúng ta: “Hãy đi và làm như vậy thì sẽ được sống đời đời”.

TY 19 Vì thế, mức độ cao nhất là yêu theo tình yêu của Đức Giêsu. Khi chúng ta hiểu Đức Giêsu là tình yêu cụ thể của Thiên Chúa và Thiên Chúa tạo dựng nên con người theo hình ảnh mình, chia sẻ, cho con người bản chất tình yêu của Thiên Chúa, thì mỗi con người, dù tin hay không tin có Thiên Chúa, đều được mời gọi để yêu như Đức Giêsu. Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã xác định: “Tình yêu là ơn gọi căn bản và thuộc bản tính của mỗi con người[25].

Tình yêu của Đức Giêsu là chính tình yêu sáng tạo của Chúa Cha, tình yêu cứu độ của Chúa Con là Ngôi Lời Thiên Chúa làm người và tình yêu thần hoá của Chúa Thánh Thần[26]. Vì thế, tình yêu của người yêu theo tình yêu này luôn mang 3 đặc điểm sáng tạo, cứu độ, thần hoá. Sáng tạo, vì luôn có những sáng kiến mới mẻ để nối kết mình với đối tượng mình yêu, đồng thời phát sinh hiệu quả mới như đứa con của sự kết hợp. Cứu độ, vì đem lại niềm vui, bình an, hạnh phúc cho đối tượng mình yêu chứ không phải là lo âu, bất an và bất hạnh như trong nhiều cuộc tình của con người. Thần hoá, vì tình yêu này luôn nâng đối tượng mình yêu lên ngang hàng với mình, tôn trọng đối tượng như một hữu thể độc lập với mình chứ không chiếm hữu, hạ thấp, làm nhục đối tượng mình yêu như Đức Giêsu đã đặt con người là bạn hữu của Người (x. Ga 15,14 ).

Tình yêu này tuy ở trong con người để họ vẫn rung động theo cảm giác, cảm xúc, cảm tình của con người, nhưng lại đưa họ mở ra với siêu việt và hướng tới vô biên, để không còn bị lệ thuộc vào đối tượng, vật chất, không gian và thời gian[27] . Đó là tình yêu của Đức Giêsu Phục Sinh khi Người sống lại từ cõi chết, hiện ra với các môn đệ dù cửa nhà họ đều đóng kín, hiện ra bất cứ nơi đâu và bất cứ lúc nào[28].

Người theo tình yêu này không đóng kín vào một đối tượng nào, nhưng mở ra cho muôn loài, muôn vật. Họ yêu từng người bằng tình yêu trọn vẹn của mình, nhưng đồng thời yêu mọi người mà không loại trừ ai, cả người tốt lẫn xấu, người lành cũng như kẻ dữ, người xinh đẹp cũng như kẻ xấu xí, người thánh thiện cũng như kẻ tội lỗi… Tình yêu của họ tồn tại mãi theo năm tháng chứ không chỉ trăm năm, và nguyên vẹn dù ở bất cứ nơi nào chứ không phải xa mặt, cách lòng! Tình yêu của họ luôn phát triển vì Thiên Chúa vĩnh hằng cho họ được hoà nhập vào tình yêu của Ngài. Họ cũng không bao giờ tuyệt vọng về tình yêu đến nỗi tự tử như Trịnh công Sơn mô tả “Một dòng sông nước cuốn một cuộc tình không may” trong bài Tình sầu của mình. Dù có bị người tình phản bội, họ vẫn chung thuỷ cho đến chết vì hiểu rằng tình yêu của mình trường tồn mãi mãi với Thiên Chúa.

HY P Như thế, những vấn nạn về tình yêu đã được giải đáp, bởi vì tình yêu là bản tính của Thiên Chúa được ban cho con người chứ không phải là những nhịp đập tự nhiên của trái tim con người. “Chúa Cha đã đổ tình yêu vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần Ngài ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Thánh Thần Tình Yêu đã nối kết Ngôi Cha, Ngôi Con lại với nhau thì cũng nối kết chúng ta lại với Thiên Chúa. Nhờ đó, ta mới có thể yêu một cách trong sáng và quảng đại như Chúa Giêsu. Có những lúc vì muốn trung thành với tình yêu, ta sẽ gặp những thiệt thòi, mất mát, nhục nhã, thậm chí phải hy sinh mạng sống. Nhưng vì Thiên Chúa là tình yêu, Ngài nhìn thấu tất cả, nên hành động tình yêu nào của ta cũng được Ngài ban thưởng. Mọi hành động về tình yêu sẽ tồn tại mãi với Thiên Chúa vì Ngài chính là tình yêu. Niềm xác tín này sẽ biến các tín hữu thành những nhà các mạng thế giới như ĐGH Phanxicô đã nhắc nhở: “Một Kitô hữu, nếu không phải là nhà cách mạng trong thời đại này, thì không phải là Kitô hữu”[29].

037103200_1517560495-PA-28508491-800x500

2.3. Tình yêu trong Học thuyết Xã hội Công giáo

Học thuyết Xã hội Công giáo xác định ngay từ đầu: “Học thuyết này có một mối thống nhất rất sâu xa, bắt nguồn từ niềm tin vào một ơn cứu độ toàn diện và trọn vẹn, từ niềm hy vọng vào sự sung mãn của công lý và từ tình yêu sẽ làm cho mọi người trở thành anh chị em với nhau trong Đức Kitô. Đó cũng chính là dấu hiệu của tình yêu Thiên Chúa dành cho thế giới, một thế giới đã được Ngài yêu thương tới mức “ban tặng cả Con Một của mình” (Ga 3,16). Luật yêu thương mới mẻ này bao trùm lên cả gia đình nhân loại và là luật không có giới hạn, vì ơn cứu độ do Đức Kitô thực hiện được công bố rộng rãi “tới tận cùng trái đất” (Cv 1,8)[30].

“Khi khám phá ra mình được Thiên Chúa yêu thương, người ta mới hiểu được phẩm giá siêu việt của mình, biết như thế không phải để mình hài lòng với mình mà còn để đến gặp người khác qua một mạng lưới quan hệ ngày càng nhân bản hơn. Những người này khi đã được tình yêu Thiên Chúa đổi mới, có thể thay đổi các luật lệ và chất lượng của các mối quan hệ, thậm chí làm chuyển biến cả các cấu trúc xã hội, khiến cho xã hội càng ngày càng ổn định, bình an và huynh đệ hơn”[31]. “Tình yêu Kitô giáo sẽ đưa chúng ta tới chỗ tố cáo, đề nghị và dấn thân vào những dự án văn hoá và xã hội. Tình yêu này thúc đẩy sự hoạt động tích cực để tất cả những ai thành thật coi trọng ích lợi của con người đều muốn góp phần của mình”[32].

20141018-bo-anh-cha-chup-con-con-trai-mac-benh-gay-xuc-dong-5 Học thuyết Xã hội Công giáo xác định như Công đồng Vaticanô II rằng: “Con đường tình yêu trỗi vượt hơn cả (1Cr 12,31) vì tình yêu là tiêu chuẩn cao nhất và phổ quát nhất của toàn bộ nền đạo đức xã hội”[33]. Chính từ cội nguồn yêu thương sâu xa này mà các giá trị như sự thật, tự do và công lý đã khai sinh và phát triển[34].

Hơn nữa, “tình yêu không phải chỉ cảm xúc nhưng còn là một nhân đức, một năng lực được thủ đắc bằng huấn luyện” (Docat, câu 16). Người tín hữu Kitô đã từng có thời nghĩ rằng tình yêu hay đức ái là ân huệ cao quý của Thiên Chúa, mình chỉ cần cầu nguyện mà không cần đào tạo hay huấn luyện cho mình cũng như cho người khác. Học thuyết Xã hội nhắc nhở Kitô hữu phải tự đào tạo mình để tình yêu của họ mỗi ngày một trong sáng, quảng đại hơn trong mọi lĩnh vực và mọi quan hệ xã hội như chúng ta đã nói đến trong nền nhân bản Kitô.

“Người Kitô hữu phải trở nên ngày càng can đảm và mạnh dạn hơn, đồng thời thêm ngay chính và yêu thương tinh me hơn” (Docat, câu 16). Thánh Phaolô đã xác định những đặc tính phải luyện tập để tình yêu thật sự là một nhân đức riêng biệt của Kitô hữu: trong bài ca đức ái (x. 1Cr 13,1-13) “Tình yêu thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Tình yêu tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả”.

Điểm đặc biệt cuối cùng của Học thuyết Xã hội Công giáo là đã đưa tình yêu vào lĩnh vực xã hội và chính trị như một đòi hỏi thiết yếu và tất nhiên cho mọi hoạt động của Kitô hữu. Do đó phát sinh một từ mới: “bác ái chính trị và xã hội”. Tình yêu được người tín hữu diễn tả trong những lĩnh vực xã hội và chính trị không còn là hành vi mang tính cá nhân, thực hiện trong quan hệ riêng tư, để đáp ứng nhu cầu nào đó “tại đây và lúc này” như việc bác ái từ thiện họ vẫn thường làm. Nhưng tình yêu đó phải đưa họ đi xa hơn, trải rộng hơn trên mọi quan hệ của con người trong cộng đồng chính trị và xã hội, đòi hỏi họ phải tổ chức và xây dựng các cơ cấu mới để thay đổi các trung gian xã hội hay xoá bỏ những nhân tố đã gây ra những cảnh túng thiếu, bất an trong xã hội. Thí dụ: họ phải liên kết để thiết lập những công ty, xí nghiệp mới sản xuất thuốc tốt hơn, không tàn phá môi trường, tham gia các nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi người lao động, người nhập cư…[35].

dhaka-bangladesh-13th-may-2017-bangladeshi-women-break-bricks-at-demra-J4R6K8

3. Nền văn minh tình yêu

3.1. Giải thích từ ngữ

Lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều nền văn minh. Văn minh là trình độ đạt được trong sự phát triển văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần của loài người qua từng giai đoạn lịch sử[36]. Văn minh là điểm sáng của vẻ đẹp, của giá trị, là đỉnh cao của văn hoá.

Người ta thường chia thành văn minh cổ đại và văn minh hiện đại. Văn minh cổ đại tiêu biểu là sự phát triển rực rỡ của các quốc gia cổ đại như Ai Cập, Hy Lạp, La Mã hoặc Maya, Inca ở châu Mỹ, Hồ Sát ở châu Phi. Văn minh hiện đại được chia thành văn minh công nghiệp và văn minh tin học. Tuy nhiên, tất cả các nền văn minh ấy còn lại gì ngoài những đống gạch đá đổ nát ở khắp nơi và những tàn tích ghê rợn sau khi hai quả bom hạt nhân nổ ở Hiroshima và Nagasaki năm 1945 ở Nhật Bản!

Lịch sử loài người đã chứng minh rằng con người càng đặt nền văn minh dựa trên giá trị vật chất, gắn bó nhiều với sức mạnh của thiên nhiên, của chính con người hay của khoa học kỹ thuật, thì con người càng sống trong sự bất an và lo sợ vì những cuộc chiến tranh huỷ diệt tương tàn[37]. Vì thế, Giáo hội Công giáo cổ vũ cho một nền văn minh mới: văn minh tình yêu.

Cụm từ văn minh tình yêu được Đức Giáo hoàng Phaolô VI nói đến đầu tiên[38], rồi được Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nhắc đến nhiều lần[39]. Kể từ đó, từ này càng ngày càng được phổ biến trong các văn kiện của Giáo hội Công giáo[40]. Giáo hội Công giáo Việt Nam cũng đã công bố đường hướng xây dựng nền văn minh này qua Đại hội Dân Chúa năm 2010 trong Thư chung “Cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình yêu và nền văn hoá sự sống“.

3.2. Văn minh tình yêu

Khi cổ vũ cho nền văn minh lấy tình yêu là nền tảng để xây dựng mọi mối tương quan của con người, là tiêu chuẩn để phán đoán mọi hành động nhân linh và là cùng đích mọi hoạt động của con người hướng đến, Giáo hội Công giáo muốn xây dựng một nền nhân bản toàn diện và liên đới cho con người[41].

Tình yêu này không phải chỉ là những cảm giác, cảm xúc, cảm tình nơi con người dù mãnh liệt nhưng vẫn bị giới hạn bởi vật chất, không gian và thời gian. Nhưng đây là một thực thể siêu việt, vĩnh hằng, vô biên, vô tận, là chính tình yêu của Thiên Chúa. “Tình yêu siêu việt của Thiên Chúa là khởi đầu cho ‘một nền văn minh tình yêu’ theo lời dạy của Giáo hoàng Phaolô VI và Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, tất cả mọi người đều có thể góp phần kiến tạo nền văn minh ấy”[42]. “Người Công giáo có sứ mệnh biến đổi xã hội thành một nền văn minh tình yêu”[43].

Khi con người coi tình yêu là nguồn lực cho mọi hoạt động của mình, là phương tiện cần thiết dùng để hoàn thành các hành động ấy và là mục đích tối hậu cho mọi hoạt động của con người và xã hội nơi trần thế, thì chắc chắn nền văn minh tình yêu sẽ làm cho mỗi con người hay cộng đồng xã hội càng ngày càng liên kết với nhau, cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc trong cuộc sống ở trần thế, nếm hưởng trước niềm vui và hạnh phúc của thiên đường.

bua an 3

Chúng ta biết rằng nền văn minh tình yêu này cần nhiều thời gian để thiết lập cho mọi con người, nhất là thuyết phục cả dân tộc đang chọn lựa thái độ duy vật, vô thần đón nhận tình yêu Thiên Chúa. Tuy nhiên, khi chúng ta hiểu tình yêu là bản chất tự nhiên đã được Thiên Chúa ban cho muôn loài, thì việc xây dựng nền văn minh tình yêu không còn phải là chuyện ảo tưởng hay mơ mộng hão huyền, mà là một thực tại có sẵn, chỉ cần con người chúng ta nhận thức và phát huy nó ra trong đời sống.

Khi ta hiểu được Đức Giêsu là tình yêu cụ thể, hữu hình của Thiên Chúa, thì việc xây dựng nền văn minh này chỉ còn là việc kêu gọi mọi người tin tưởng vào và gắn bó với Đức Giêsu. Chính Người sẽ chuyển thông cho ta tình yêu Thiên Chúa nhờ Thánh Thần Tình yêu Người ban cho mỗi người chúng ta khi ta thở được Thần Khí từ trời.

hang_son_doong_as

Tuy nhiên chúng ta cũng nên xác định thêm rằng, Thánh Thần Tình yêu này phải đi kèm với sự thật là chính Đức Giêsu Kitô, như ĐGH Bênêđictô XVI đã lưu ý trong Thông điệp Caritas in Veritate (Bác ái trong sự thật) của ngài. Thánh Thần Tình yêu sẽ giúp cho những ai xây dựng nền văn minh này hiểu được sự thật về vạn vật, về con người và về Thiên Chúa để nền văn minh này thật sự tốt đẹp và bền vững.

Lời kết

Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói: “Con người không thể sống thiếu tình yêu. Nếu tình yêu không được tỏ bày cho con người, nếu con người không tìm gặp tình yêu, nếu con người không thể cảm nghiệm và tiếp nhận tình yêu, nếu con người không tham dự mật thiết vào tình yêu, thì con người vẫn là một hữu thể không hiểu nổi chính mình[44].

Chỉ khi nào nền văn minh tình yêu ngự trị thì nhân loại mới có thể hưởng một nền hoà bình chân chính và vững bền[45].

———————————————————

Câu hỏi gợi ý

1. Bạn nghĩ tình yêu là gì?

2. Bạn thử tự kiểm xem tình yêu của mình đang ở mức độ nào: cảm giác, cảm xúc, cảm tình, cảm tình thắm thiết và có trách nhiệm?

3. Tình yêu chân thật có những đặc tính nào?

4. Tình yêu trọn vẹn đưa con người tới đâu?

5. Tình yêu Kitô giáo đòi hỏi ta trở thành nhà cách mạng xã hội, bạn nghĩ mình có thể hành động gì trong lĩnh vực xã hội mình sống?

———————————————————

Chú thích:

  1. x. Tóm lược HTXHCG, số 19; Docat, chương 1.

  2. x. Xuân Diệu (1916-1985), tên thật là Ngô Xuân Diệu, nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới. Ông nổi tiếng với các bài thơ về tình yêu, nhưng lại mang tiếng về tình yêu “đồng tính”, qua những bài thơ Biển, Tình Trai mà nhà văn Tô Hoài đã viết trong cuối hồi ký Cát bụi chân ai. (Internet, ngày 15/3/2016, Hội thảo Khoa học “Xuân Diệu với văn hoá dân tộc”).

  3. x. Đoàn Trung Côn, bộ Phật học Từ điển, 3 cuốn, NXB TP.HCM, 1992; Giáo hội Phật giáo Việt Nam, bộ Từ điển Phật học Hán Việt, 2 cuốn, NXB Phân viện nghiên cứu Phật học, Hà Nội, 1992; Thích Minh Châu – Minh Trí, Từ điển Phật học Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991.

  4. x. Đây là câu 2658 trong Truyện Kiều. Sư Giác Duyên nói với Thuý Kiều: “Sự rằng phúc hoạ đạo trời, Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra. Có trời mà cũng tại ta, Tu là cõi phúc tình là dây oan”.

  5. x. Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo Biên soạn, Từ điển Bách khoa Việt Nam, q.IV, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội 2005,mục từ Tham Sân Si, tr.137.

  6. x. Lấy ý từ bài thơ Ngập Ngừng của thi sĩ Hồ Dzếnh trong tập thơ “Quê Ngoại”, sáng tác năm 1943. Nguyên văn: “Tình mất vui khi đã vẹn câu thề, Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở”.

  7. x. Hàn Mặc Tử (1912-1940), tên thật là Phêrô Nguyễn Trọng Trí, sáng tác được 213 bài thơ. Các câu thơ này ở trong tập Thu Thương (Thơ Điên, sáng tác năm 1937). Ông bị bệnh phong cùi, chết ở Quy Nhơn.

  8. x. Trịnh Công Sơn, nhạc sĩ lớn (1939-2001) của âm nhạc đại chúng với 236 ca khúc được phổ biến rộng rãi.

  9. x. Vietlex, Trung tâm Từ điển học, Từ điển Tiếng Việt 2013, NXB Đà Nẵng, mục từ Tình yêu, tr.1284.

  10. x. Sđd, tr.1492

  11. x. Sđd., mục từ Tình yêu, tr.1283.

  12. x. Sđd., mục từ Tình yêu, tr.1256, mục từ Thương và mục từ Thương xót, tr.1237.

  13. x. Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, Cẩm nang Tân Phúc Âm hoá, NXB Tôn Giáo, 2014, tr.136-137.

  14. x. HĐGMVN, Từ điển Công giáo, Mục từ Con tim, NXB Tôn Giáo, 2016, tr. 7

  15. x. Bs. Alice Roberts, Atlas Giải phẫu Cơ thể Người, NXB Y Học, 2015, tr.295.

  16. x. Bs. Alice Roberts, Atlas Giải phẫu Cơ thể Người, NXB Y Học, 2015, tr.302.

  17. x. Bs. Alice Roberts, Atlas Giải phẫu Cơ thể Người, NXB Y Học, 2015, tr.310.

  18. x. P. Ekman, Emotions Revealed, 2003; mạng internet 21/3/2017, Ngan Nguyen, Tìm hiểu về 7 cảm xúc cơ bản.

  19. x. Bs. Alice Roberts, Atlas Giải phẫu Cơ thể Người, NXB Y Học, 2015, tr.306.

  20. x. Bs. Alice Roberts, Atlas Giải phẫu Cơ thể Người, NXB Y Học, 2015, tr.305-310.

  21. x. Bs. Alice Roberts, Atlas Giải phẫu Cơ thể Người, NXB Y Học, 2015, tr.300.

  22. x. Tóm lược HTXHCG, số 9, 46, 65.

  23. x. Tóm lược HTXHCG, số 29, 491.

  24. x. Tóm lược HTXHCG, số 34.

  25. x. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris consortio, 11: AAS74 (1982), 92; GLHTCG, số 2392.

  26. x. Tóm lược HTXHCG, số 31,34,54.

  27. x. ĐGH Bênêđictô XVI, TĐ Thiên Chúa là tình yêu- Deus est Caritas, số 8

  28. x. Tóm lược HTXHCG, số 30, 34, 121, 431.

  29. x. Câu nói đăng ở bìa sau của Docat ở các ngôn ngữ khác, trừ tiếng Việt

  30. x. Tóm lược HTXHCG, số 3.

  31. x. Tóm lược HTXHCG, số 4.

  32. x. Tóm lược HTXHCG, số 6.

  33. x. Tóm lược HTXHCG, số 204.

  34. x. Tóm lược HTXHCG, số 205.

  35. x. Tóm lược HTXHCG, số 207-208.

  36. x. Từ điển Bách khoa Việt Nam, q.IV, mục từ Văn minh.

  37. x. Nguyễn Ngọc Sơn, Cẩm nang Tân Phúc Âm hoá, bài “Xây dựng nền văn minh tình yêu”, NXB Tôn Giáo, 2014, tr.292.

  38. x. Thông điệp Ngày Hoà bình Thế giới năm 1977.

  39. x. Thông điệp Centessimus Annus (Bách Chu niên), năm 1991, số 10; Ngày Giới trẻ Thế giới 1995 tại Manila, Philippines.

  40. x. Tóm lược HTXHCG, số 103, 391, 582; Docat, số 14 tr.23, số 51 tr.63, số 102 tr.102-111, số 275 tr.255, số 276 tr.256, số 278 tr.257, số 319 tr.290.

  41. x. Nguyễn Ngọc Sơn, Cẩm nang Tân Phúc Âm hoá, bài “Xây dựng nền văn minh tình yêu”, NXB Tôn Giáo, 2014, tr.292; Tóm lược HTXHCG, số 1-19, 20-59, 105-159.

  42. Docat, số 14 tr. 23.

  43. Docat, số 319 tr. 290.

  44. x. Thông điệp Redemptor Hominis (1979), số 10; Docat, NXB Tôn Giáo, 2017, tr.28.

  45. x. Thánh Gioan Chrysostom; Tóm lược HTXHCG, số 582.

Hướng tới sự trưởng thành toàn diện
Bài 5: Những con người tự do

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
Tài liệu tĩnh tâm – 3/2020

Lời mở

2 Tự do cho con người, cho dân tộc là từ được nhắc đến thường xuyên và có lẽ nhiều hơn cả trong mọi cuộc đấu tranh của con người, kể từ khi nổ ra phong trào giải phóng dân tộc từ đầu thế kỷ XX, các phong trào đòi nhân quyền với Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền được đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 10/12/1948, cho tới phong trào kết hôn đồng tính, và gần đây là kết hôn giữa những người chuyển giới.

Tất cả những xung đột, tranh cãi, thậm chí chiến tranh giữa con người với nhau bắt nguồn từ những quan niệm khác nhau về tự do. Chúng mời gọi ta đi tìm tự do thật sự của con cái Thiên Chúa, thứ tự do được tác động bởi Thần Khí Đức Giêsu Kitô sẽ đưa con người tự do mở ra với siêu việt và hướng tới vô biên.

1. Những quan niệm khác nhau về tự do

1.1. Giải thích từ ngữ

Tự do, là từ được nhắc đến ở 93 số trong tổng 583 số của cuốn Tóm lược Học thuyết Xã hội Công giáo. Trong cuốn Docat, nó được bàn đến 40 lần trong số 328 câu hỏi của toàn cuốn sách. Trong 16 văn kiện của Công đồng Vaticanô II, tự do được nhắc đến khá nhiều lần trong 10 văn kiện, đặc biệt trong Hiến chế Gaudium et Spes và tuyên ngôn Dignitatis Humanae về tự do tôn giáo. Những số thống kê này gợi ý cho ta về tầm quan trọng của tự do như là một giá trị căn bản của cá nhân con người cũng như của cộng đồng xã hội.

Theo định nghĩa: tự do là phạm trù triết học chỉ khả năng biểu hiện ý chí, làm theo ý muốn của mình, trên cơ sở nhận thức được quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội (nghĩa I) – trạng thái của một dân tộc, một xã hội và các thành viên không bị cấm đoán, hạn chế vô lý trong các hoạt động xã hội chính trị (nghĩa II) – trạng thái không bị giam cầm hoặc không bị làm nô lệ (nghĩa III) – trạng thái không bị cấm đoán, hạn chế vô lý trong việc làm nào đó (nghĩa IV)[1].

3

Như thế, những quan niệm khác nhau về tự do tiến hoá theo từng giai đoạn lịch sử khi con người nhận thức được vị thế của mình trong thiên nhiên hay trong xã hội cũng như những trói buộc mình trong các mối tương quan với thần linh, với người khác, với vạn vật và với cả chính mình.

1.2. Con người tự do trước những ràng buộc trong xã hội

Sau khi con người được giải thoát khỏi sức mạnh của thiên nhiên và vạn vật nhờ đầu óc biết suy tư của mình, con người tập trung vào việc tổ chức xã hội mình sống cho tốt đẹp, văn minh. Nhiều thể chế chính quyền được thiết lập để lo cho dân giàu, nước mạnh. Hầu hết các dân tộc theo chính thể quân chủ và tin tưởng vua là “con trời”, là thiên tử, thay trời hành đạo, có toàn quyền sinh sát trong tay. Khi quyền lực tập trung vào một con người hay vào một dòng họ dù tài giỏi nhưng kém đạo đức, quyền lực đó trở thành một phương tiện áp chế những người khác, những dòng họ, những dân tộc yếu thế hơn, tạo nên những đế quốc và những quốc gia bị nô thuộc. Rất nhiều người không còn được sống xứng đáng với phẩm giá con người. Nhiều quyền lợi của họ bị tước đoạt. Vì thế, phát sinh phong trào giải phóng dân tộc, giải phóng con người.

Từ đầu thế kỷ XX, các đế quốc cũ như Pháp, Anh, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan bắt đầu kiệt quệ và suy yếu vì hai cuộc thế chiến Thứ nhất (1914-1918) và Thứ hai (1939-1945), đành phải từ bỏ các thuộc địa của mình trước phong trào đấu tranh đòi quyền độc lập dân tộc của các nước ở châu Á, châu Phi: Ai Cập năm 1918, Trung Quốc năm 1919, Mông Cổ năm 1921, Thổ Nhĩ Kỳ năm 1922. Sau năm 1945, phong trào này còn mạnh mẽ hơn nữa, nhất là sau chiến thắng ở Điện Biên Phủ của Việt Nam năm 1954. Hệ thống các nước thuộc địa tan rã nhanh chóng ở các nước Đông Nam Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Hơn nữa, phong trào này còn 9 nhận được sự hỗ trợ về mặt tư tưởng và cả nhân sự của Đệ tam Quốc tế Cộng sản, đứng đầu là Liên Xô. Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc cũng là một nhân tố tích cực của phong trào đòi các quyền tự do cơ bản của con người qua việc thông qua Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền ngày 10/12/1948 ở Paris, Pháp.

Từ cuối thế kỷ XX đến thế kỷ XXI, đa số các nước trên thế giới đã giành được độc lập. Tuy nhiên, tình trạng lệ thuộc của các nước nghèo vào các nước giàu cũng như các nước giàu tiếp tục can thiệp vào chính trị của nước nghèo vẫn còn phổ biến. Thế giới trước đây bị phân cực từ hai phe Tư bản và Cộng sản, cổ vũ cho hai loại tự do cá nhân và tập thể, thì hiện nay phân thành đa cực, xoay quanh các nước mạnh trên thế giới theo nền kinh tế thị trường như Hoa Kỳ, châu Âu, Nga, Trung Quốc. Sự trỗi dậy của Trung Quốc và chủ nghĩa thực dân mới của các cường quốc áp đặt lên các nước châu Phi và một số nước châu Á đang diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế. Vì thế, HTXHCG muốn trình bày về ý nghĩa tự do trong lĩnh vực kinh tế và sự tự do của các dân tộc[2], thị trường và tự do (số 350-352), tự do cá nhân và hành động của chính quyền (số 354), toàn cầu hoá và tự do thương mại (số 366).

1.3. Con người tự do muốn cởi trói chính mình

Khi con người càng khám phá thấy mình có nhiều tài năng tinh thần như ý chí, lý trí, tình cảm thì càng muốn được tự do để thoả mãn mọi nhu cầu của con người. Trong hàng chục thế kỷ, con người bỏ mặc chính mình, quy hướng mọi sự về thần linh, về Thiên Chúa vì nghĩ rằng chỉ có thần linh mới tồn tại mãi mãi và có giá trị. Nhưng rồi con người khám phá ra rằng đó là những suy tư triết học bị ảnh hưởng các tôn giáo làm cho sai lầm, quá trừu tượng, tách biệt với những trải nghiệm cụ thể thường ngày của con người. Con người muốn được tự do, thoát khỏi mọi ràng buộc của tôn giáo nhiều khi làm tha hoá con người. Con người không còn chỉ là một chủ thể biết suy tư với đủ loại tiêu chuẩn theo hướng duy lý, duy tâm, mà là một con người cụ thể, một cá nhân với các đặc điểm riêng tư, muốn hành động, cảm nghiệm và sống như một người tự do, không bị hạn chế vô lý trong bất cứ chọn lựa nào của mình.

10

Đây là hướng đi chung của một nhóm triết gia xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, gọi là Chủ nghĩa Hiện sinh. Những khuôn mặt tiêu biểu là Soren Kierkegaard, Jean Paul Sartre, Fyodor Dostoevsky, Friedrick Nietzche, Gabriel Marcel. Các nhà tư tưởng này nhìn nhận giá trị hàng đầu của con người là “tự do” và tiêu chuẩn đạo đức hàng đầu là “sự chân thực”. J.P. Sartre đã minh chứng cho hành động tự do chọn lựa và lòng chân thực khi từ chối giải thưởng Nobel Văn chương năm 1964 do Viện Hàn Lâm Thuỵ Điển trao cho[3].

12 Trong góc nhìn của các nhà hiện sinh, tình trạng mất định hướng, bối rối, kinh sợ khi đối mặt với một thế giới có vẻ như vô nghĩa, phi lý là tình trạng của rất nhiều người trẻ cũng như già trong một thế giới nặng về hưởng thụ vật chất và hỗn độn với đủ loại thông tin như hiện nay. Chủ nghĩa hiện sinh trở nên phổ biến vào những năm sau thế chiến II, vì con người thật sự khủng hoảng khi thấy bao nhiêu triệu nhà cửa, ruộng vườn, cơ nghiệp xây dựng cả đời người bị bom đạn tàn phá trong chớp mắt, hàng chục triệu người chết vì những viên đạn vô tình sau cả một đời cố gắng học hành, làm việc. Tất cả những cố gắng của con người và loài người như thế đều phi lý. Vậy thì hãy hưởng thụ hạnh phúc, hãy sống trọn vẹn lúc này (hiện sinh) bằng một sự chọn lựa không bị ràng buộc bởi bất cứ một luật lệ nào.

hien sinh-Sartre_1967_crop J. P. Sartre đã diễn tả cái phi lý của cuộc sống qua tác phẩm tiêu biểu La nausée (Nausea) (Buồn nôn) xuất bản năm 1938[4]. Trong đó, qua nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết là Roquentin, ông nhìn sự hiện hữu mang tính lầm lì, ngẫu nhiên, xám xịt, không thể hiểu được. Nó khiến cho người ta buồn nôn giống như những chiếc rễ cây trồi lên mặt đất trong công viên, làm cho người ta liên tưởng đến các bãi phân chó khô. Chủ nghĩa này càng phổ biến hơn khi gợi ý cho các nhà văn, nghệ thuật, kịch nghệ, tâm lý học, phân tâm học và cả những thần học có những sáng tác nói lên thực trạng bi quan của đời sống con người.

Những khám phá mới về tâm lý học, phân tâm học gần đây lại càng thúc đẩy con người đưa tự do của mình đến mức độ hầu như tuyệt đối “xem tự do như là quyền làm bất cứ điều gì mình thích, kể cả điều xấu”[5], thoả mãn mọi bản năng dục vọng đã bị tội lỗi làm tổn thương, thậm chí làm chủ cả sự sống và cái chết của mình, như là một hành động hiện sinh cuối cùng trong sự phi lý của cuộc đời.

Vì chỉ thấy sự phi lý nên mọi mối tương quan của con người không còn tốt đẹp và cởi mở trong đời sống xã hội. Con người sử dụng vạn vật hoàn toàn theo quyết định tự do của mình một cách vô độ và nguy hiểm cho sự sống, dẫn đến những thói nghiện ngập. Con người chối bỏ mối tương quan với Thiên Chúa vì cho rằng Thiên Chúa ngăn cản tự do của con người, khiến cho con người không thoải mái để làm theo ý mình.

Riêng ở Việt Nam, rất nhiều người vẫn nhớ thuộc lòng câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”[6]. Câu này khi nằm trong bối cảnh của phong trào đấu tranh đòi tự do cho dân tộc thì đúng, nhưng khi áp dụng trong đời sống thường ngày của từng cá nhân để đòi hỏi quyền tự do muốn làm tất cả theo ý mình thì nhiều khi lại không đúng. Hơn nữa, còn những giá trị khác quý hơn độc lập, tự do như: sự sống, tình yêu, hạnh phúc, sự thật…

Chính vì những quan niệm khác nhau về tự do đối với cá nhân và tập thể mà Học thuyết Xã hội Công giáo mời gọi người tín hữu tìm hiểu tự do thật sự của con cái Thiên Chúa là gì và bao gồm những nội dung nào.

2. Tự do thật sự của con cái Thiên Chúa

Công đồng Vaticanô II đã nhìn nhận rằng: “Tự do là điều con người đương thời đánh giá cao và hăm hở theo đuổi, và họ có lý khi làm như thế. Tuy nhiên, lắm lúc họ cổ vũ cho tự do một cách lệch lạc, xem tự do như là quyền làm bất cứ điều gì mình thích, kể cả điều xấu. Nhưng tự do đích thực là dấu chỉ cao cả nhất của hình ảnh Thiên Chúa trong con người. Thật vậy, Thiên Chúa đã muốn để cho con người tự định liệu (x. Hc 15,14), tự quyết định đi tìm Đấng Tạo Hoá và nhờ kết hợp với Ngài cách tự do, con người tiến tới sự hoàn thiện trọn vẹn và hạnh phúc” (x. GS, số 17).

2.1. Tự do thật sự

14 Ngay trong lời mở đầu của cuốn Tóm lược HTXHCG, Giáo hội Công giáo xác định: “Vào lúc khai nguyên Thiên niên kỷ III, Giáo Hội không mệt mỏi để công bố Tin Mừng mang ơn cứu độ và sự tự do đích thực đến cho các thực tại trần thế” (HTXHCG, số 2).

Trước hết, vì con người được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh của Ngài, nên con người có tự do. “Giống với Thiên Chúa”, có nghĩa là bản chất và hiện hữu của con người có liên quan đến Thiên Chúa một cách hết sức sâu xa[7]. Tự do con người là thứ tự do được ban tặng[8], chứ không phải là thứ tự do tuyệt đối của Thiên Chúa. Không có sự xung đột nào giữa Thiên Chúa và con người, trái lại, càng gắn kết với Thiên Chúa, tự do con người càng phát triển, muôn vật xuất phát từ Thiên Chúa và tiến về Thiên Chúa (HTXHCG, số 46).

13 Con người hiện diện với tất cả các thụ tạo khác, được hưởng dùng chúng, nhưng việc chế ngự thế giới vật chất đòi hỏi họ phải thi hành trách nhiệm, chứ không được tự do khai thác cách tuỳ tiện và ích kỷ theo lòng tham của mình[9].

Con người cũng quan hệ với chính mình và có khả năng suy tư về chính mình nhờ “tâm hồn”. Tâm hồn biểu lộ những khả năng riêng của con người, đó là những đặc ân con người nhận được khi được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa: lý trí, sự phân biệt tốt xấu và ý muốn tự do[10].

Con người có tương quan liên vị với mọi người khác vì họ cũng là hình ảnh Thiên Chúa giống như mình[11].

“Tự do của con người đã bị tội lỗi làm tổn thương”[12]. Tội chính là việc con người lạm dụng tự do của mình (HTXHCG, số 116). Tội là hành vi tự do của một cá nhân chứ không phải là của tập thể hay cộng đồng đúng nghĩa, nhưng có những hậu quả trên xã hội (HTXHCG, số 117).

Tóm lại, ta có thể định nghĩa: Tự do là khả năng bắt nguồn từ lý trí và ý chí để hành động hay không hành động, làm việc này hoặc việc nọ, nhờ đó, con người có thể thực hiện những hành vi có ý thức và trách nhiệm”[13].

2.2. “Tự do, vinh quang của con cái Thiên Chúa” (Rm 8,21)

Cuốn Tóm lược HTXHCG trình bày tự do như giá trị căn bản và là một trong những dấu hiệu cao quý nhất cho biết con người giống Thiên Chúa: “Thế nên, chính phẩm giá con người buộc con người phải hành động phù hợp với sự lựa chọn có hiểu biết và tự do, nghĩa là được thúc đẩy và hướng dẫn một cách rất riêng tư từ bên trong, chứ không do sự thôi thúc của bản năng mù quáng hay bởi áp lực hoàn toàn bên ngoài. Nhờ được tự do thật sự, con người mới tổ chức và hướng dẫn đời sống cá nhân và xã hội của mình theo sáng kiến riêng, đồng thời dám chịu trách nhiệm về việc đó. Có như thế xã hội con người mới thật sự phát triển theo đường hướng tốt đẹp”[14].

Tự do con người không phải là vô hạn. Tự do này, dù rằng rất lớn, “vì con người được phép ăn bất cứ cây nào trong vườn Eden, nhưng vẫn phải dừng lại trước cây biết lành biết dữ (x. St 2,16-17) vì con người được kêu gọi để biết chấp nhận luật luân lý do Thiên Chúa ban ra[15].

“Muốn thực hành đúng đắn sự tự do cá nhân, con người cần có những điều kiện đặc biệt liên quan đến trật tự kinh tế, xã hội, pháp lý, chính trị và văn hoá là những điều kiện rất hay bị coi thường hoặc vi phạm”. Cha ông ta vẫn thường nói: “Đói ăn vụng, túng làm càn!”. Nhiều người do hoàn cảnh kinh tế quá khó khăn, mức độ hiểu biết chỉ bằng trẻ học các lớp tiểu học, nên không có tự do khi hành động và chịu trách nhiệm về hành động của họ (HTXHCG, số 137).

Tự do phải liên kết với sự thật và luật tự nhiên[16]. “Sự thật liên quan đến điều tốt và điều xấu được nhìn nhận một cách thực tiễn và cụ thể, dựa vào phán đoán của lương tâm. Sự thật này đưa con người tới chỗ sẵn sàng chịu trách nhiệm về điều tốt đã làm và điều xấu đã phạm”. “Khi hành xử tự do là chúng ta gián tiếp liên hệ đến một luật luân lý tự nhiên, có tính phổ quát, đi trước và liên kết hết mọi quyền lợi và nghĩa vụ của con người”. Trong tình trạng có nhiều nền văn hoá khác nhau như hiện nay, luật tự nhiên chính là điểm liên kết mọi dân tộc, thống nhất các nguyên tắc chung. Dù khi áp dụng các luật ấy, chúng ta cần phải thích nghi cho phù hợp với các điều kiện sống khác nhau theo nơi chốn, thời gian và hoàn cảnh”[17].

3. Mở ra với siêu việt và hướng tới vô biên

3.1. Tự do tôn giáo như một điều kiện để giải phóng con người

Học thuyết Xã hội Công giáo đòi quyền tự do tôn giáo cho con người không phải vì những thiệt thòi, bách hại mà tín hữu Kitô đang phải chịu ở nhiều nơi trên thế giới, nhưng vì tự do của con người chỉ thật sự và trọn vẹn khi con người được tự do mở ra với Đấng Siêu Việt và hướng tới vô biên[18]. Trong nhiều nước theo hệ tư tưởng duy vật biện chứng, người ta đánh giá rất thấp tôn giáo. Còn trong hầu hết các nước theo Hồi giáo, người ta có ác cảm, thậm chí thù hận với Kitô giáo. Kinh nghiệm của nhiều nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và của chính nước Nga, sau khi khối Liên Xô tan rã, đã mời gọi con người nhận ra tôn giáo như một hình thức tối thượng của văn hoá, thúc đẩy và giáo dục con người đi tìm chân thiện mỹ và giữ cho nền đạo đức xã hội được ổn định và phát triển[19].

3.2. Các cuộc giải phóng của Thiên Chúa trong lịch sử

Mời gọi con người gắn bó với Thiên Chúa qua tôn giáo, nhất là Kitô giáo mà Giáo hội Công giáo đang loan báo, không phải là muốn con người làm nô lệ cho thần linh, nhưng là dẫn con người đến một cuộc giải phóng trọn vẹn để con người được tự do hoàn toàn giống như Thiên Chúa.

Trong dòng lịch sử nhân loại, Thiên Chúa đã cứu dân Do Thái thoát khỏi ách nô lệ người Ai Cập và dẫn họ vào Đất Hứa[20], ký kết với họ một giao ước là tuân giữ Mười Điều Răn (số 22). Đây không phải là một hình thức nô lệ mới, nhưng Mười Điều Răn là luật luân lý tự nhiên để người Do Thái không bị nô lệ bởi tội lỗi, trung thành với một Thiên Chúa chân thật duy nhất và có những mối quan hệ tốt đẹp với nhau (số 23). Lịch sử dân tộc Do Thái loan báo một Đấng Thiên Sai mới sẽ đưa dân tộc và toàn thể nhân loại vào miền đất mới với giao ước mới mang tính quyết định.

15695899444_36f8c261a4_o

Đó là Đức Giêsu Kitô, người Nazareth, Đấng hoàn thành kế hoạch giải phóng trọn vẹn con người và vũ trụ mà Thiên Chúa đã lập vì tình yêu vô biên và đầy trách nhiệm của Ngài. Đức Giêsu chính là Ngôi Lời Thiên Chúa làm người. Người công bố kế hoạch giải phóng đó như sau:

“Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, công bố ơn giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù sáng mắt, giải phóng những ai bị áp bức, công bố năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19; x. Is 61,1-2; HTXHCG, số 28).

Đức Giêsu đã giải phóng con người khỏi mọi sự lệ thuộc bằng các hành động cụ thể nhờ kết hợp với Chúa Cha[21].

– Giải thoát khỏi sức mạnh của tự nhiên và vật chất: đi trên mặt biển, hoá bánh, rượu, cá ra nhiều…

– Giải thoát khỏi mọi áp chế của con người: vạch trần những âm mưu con người, vượt qua các luật lệ lỗi thời của tôn giáo.

– Giải thoát khỏi sức mạnh của chính mình: vượt qua các cơn cám dỗ, nỗi sợ cái chết, sống lại.

Như thế, sự cứu độ của Kitô giáo là một sự giải phóng dành cho hết mọi người và cho con người toàn diện[22].

3.3. Tự do mở ra với siêu việt và hướng tới vô biên

HTXHCG giới thiệu “Đức Maria là hình ảnh trọn vẹn nhất của một nhân loại và vũ trụ được tự do và được giải thoát”[23], vì Mẹ Maria đã mở lòng cho Chúa Thánh Thần, Đấng như “ngọn gió muốn thổi đâu thì thổi, người ta nghe tiếng gió nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng như vậy” (Ga 3,8). Tự do vừa là một ân huệ của Chúa Thánh Thần và phải được thực hiện theo sự hướng dẫn của lương tâm, tình yêu và của Chúa Thánh Thần “bởi vì Thần Khí của Chúa ở đâu, thì ở đấy có tự do” (2Cr 3,17).

Giorgio_Vasari_-_Annunciation_-_WGA24286 Nhờ tác động của Thần Khí Thiên Chúa, “con người mở ra với Đấng Vô Biên cũng như với mọi loài thụ tạo, mở ra với sự hiện hữu sung mãn, với chân trời vô biên của hiện hữu”[24]. Đây là điểm mới mẻ và đặc biệt của HTXHCG mà trước đây ít văn kiện nào của Giáo Hội nói đến. “Nhờ trí khôn và ý chí, con người có thể nâng mình lên trên mọi thụ tạo và cả chính mình, độc lập với thụ tạo, tự do trong quan hệ với thụ tạo, vươn tới sự thật toàn diện và sự thiện tuyệt đối.

Nhờ sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, con người vượt qua sự phi lý của thuyết hiện sinh để nhận ra sự thật giải phóng con người, đưa con người vào trong không gian mầu nhiệm của tình yêu. Con người sẽ khám phá ra cái rễ cây đen đủi làm cho người ta ghê tởm kia là một thực tại chứ không phải là bãi phân chó tưởng tượng. Chúng đang cắm sâu vào lòng đất hút chất bổ để thành dòng nhựa cho lá tạo khí cho con người, cho hoa toả hương thơm, cho cây kết trái. Con người tự do không phải là bị kết án mà là được ban tặng để sống trong kế hoạch nhiệm mầu của tình yêu Thiên Chúa.

Con người bước ra khỏi chính mình để bước vào một quan hệ đối thoại và hoà nhập với Thiên Chúa, Đấng Siêu Việt, với các thiên thần, với các người đã khuất gồm các thần thánh và cả những người trong tình trạng luyện ngục trong khi vẫn cẩn thận đề phòng những cám dỗ của quỷ dữ và các tà ma nguy hiểm[25].

Đây sẽ là lời giải thích cho một số thắc mắc của con người về tình trạng sống của con người sau khi chết, đồng thời cho ta hiểu tự do của con cái Thiên Chúa có thể vươn cao và vươn xa tới đâu. Đây không phải là những điều mê tín, dị đoan nhưng chỉ diễn tả sự giải phóng toàn diện của Đấng Phục Sinh là Đức Giêsu đã đem lại những gì cho tự do của con người.

Lời kết

Trong suốt dòng lịch sử nhân loại, con người đã, đang và sẽ còn mong ước tự do thật sự, tự do mở ra cho những gì cao cả và đạt được chúng. Đức Giêsu đã thực hiện điều này cho mình và cho tất cả những ai tin vào Người. Người nói: “Nếu Người Con có giải phóng anh em thì anh em mới thật sự là những người tự do” (Ga 8,36). Bạn đã cảm nhận được tự do thật sự của Người chưa?

———————————————————

Câu hỏi

1. Bạn quan niệm tự do là gì? (tự do cho cá nhân và cho dân tộc).

2. Bạn có thấy điều gì phi lý không? Bạn có tìm cách giải trừ điều phi lý nào trong đời sống của mình?

3. Tự do thật sự là thứ tự do nào?

4. Tự do thật sự có những hạn chế nào?

5. Đức Giêsu đã mang lại cho bạn thứ tự do nào? Bạn đã cảm nhận được nó chưa?

6. Bạn có thể làm gì để có thể chia sẻ tự do thật sự của Chúa Giêsu cho người khác?

7. Bạn đã có kinh nghiệm nào về việc tiếp xúc với những người đã khuất?

———————————————————

Chú thích:

  1. x. Viện Ngôn ngữ, Từ điển Tiếng Việt 2013, NXB Vietlex, mục từ Tự do, tr.1379; Hội đồng Quốc gia Biên soạn, Từ điển Bách khoa Việt Nam, NXB Từ Điển, mục từ Tự do, q4., tr.71.

  2. x. Tóm lược HTXHCG, số 321, 326.

  3. x. Tuyên bố từ chối giải Nobel của J.P. Sartre, Internet, 14/12/2017.

  4. x. NXB An Tiêm, in năm 1967, tại Sài Gòn; NXB Văn hoá Sài Gòn, tái bản năm 2008, tại TP.HCM.

  5. x. CĐ. Vat II, GS, số 17.

  6. x. Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, và lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, tháng 12/1946.

  7. x. Tóm lược HTXHCG, số 109; GLHTCG, số 356-358.

  8. x. Tóm lược HTXHCG, số 138.

  9. x. Tóm lược HTXHCG, số 113.

  10. x. Tóm lược HTXHCG, số 114; ĐGH Gioan Phaolô II, TĐ. Evangelium vitae, 1995, số 37.

  11. x. Tóm lược HTXHCG, số 110-112.

  12. x. CĐ. Vat. II, GS, số 17.

  13. x. GLHTCG, số 1731.

  14. x. Tóm lược HTXHCG, số 135; GS, số 17.

  15. x. Tóm lược HTXHCG, số 136.

  16. x. Tóm lược HTXHCG, số 138-144.

  17. x. GLTHCG, số 1955-57.

  18. x. Tóm lược HTXHCG, số 155, 553, 286, 445.

  19. x. Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, Cẩm nang Tân Phúc Âm hoá, NXB Tôn Giáo, 2014, tr.353-370.

  20. x. Tóm lược HTXHCG, số 21.

  21. x. Tóm lược HTXHCG, số 29.

  22. x. Tóm lược HTXHCG, số 38-40.

  23. x. Tóm lược HTXHCG, số 59; Bộ Giáo lý Đức tin, Huấn thị Libertatis Conscientia, 1987, số 97.

  24. x. Tóm lược HTXHCG, số 130.

  25. x. Tóm lược HTXHCG, số 130; Docat, câu 57; Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, Cẩm nang Tân Phúc Âm hoá, NXB Tôn Giáo, tr.383-400.

 

Hướng tới sự trưởng thành toàn diện
Bài 6: Giá trị của công bằng

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
Tài liệu tĩnh tâm – 3/2020

Lời mở

Ý niệm về công bằng xuất hiện muộn màng trong lịch sử con người. Cho đến hôm nay, nhiều dân tộc vẫn chưa được hưởng sự công bằng. Do bản năng sinh tồn, nhiều loài động vật phải giết nhau, ăn thịt nhau để sống. Mạnh được yếu thua là lẽ sống còn của mọi loài. Câu chuyện chia phần của vua sư tử cho ta thấy công lý của kẻ mạnh. Người ta đối xử bất công với nhau trong mọi lĩnh vực: đối với con người cũng như vạn vật và đối với chính Thiên Chúa! Nhưng nhiều khi người ta lại tưởng rằng mình đang giữ được công bằng. Hậu quả là con người không cảm nhận được bình an và các dân tôc chưa được hưởng hoà bình vì “công lý và hoà bình luôn đi chung với nhau”. Chính vì thế “công lý” hay “công bằng” là giá trị cần được chúng ta tìm hiểu và thể hiện trong đời sống.

180612-vatican-noon-prayer.jpg

1. Công bằng trong các lĩnh vực và mọi mối tương quan

1.1. Giải thích từ ngữ

Từ Justitia theo nghĩa Latinh, (Anh ngữ: Justice), được dịch là “công lý”, “công bằng”, “công chính”.

Từ điển Công giáo Việt Nam, trong bản in năm 2019, dùng từ “công bình” (từ cũ) thay cho “công bằng”, “công chính”, không dùng từ “công lý” (Bản in năm 2016 lại dùng từ ‘công lý” thay cho “công bình”. Công bằng là việc mỗi người tôn trọng quyền lợi của mình và của tha nhân theo quy định của pháp luật hoặc của quy tắc xã hội. Công chính: không thiên vị, ngay thẳng (x. tr 170-171).

Từ điển Tiếng Việt 2013 dùng từ “công lý”: lẽ phù hợp với đạo lý và ích lợi chung của xã hội; “công bằng”: theo đúng lẽ phải, không thiên vị; “công chính”: ngành chuyên môn về quản lý và xây dựng các công trình công cộng như đường xá, cầu cống….[1]. Nhưng ta đừng hiểu Thánh Giuse là Đấng Công chính theo nghĩa này!

Justice_01.pngTừ điển Bách khoa Việt Nam nói nhiều đến công bằng: công bằng xã hội, công bằng phân phối. Đó là khái niệm đạo đức và ý thức pháp quyền, chỉ điều chính đáng, tương ứng với bản chất và quyền con người.

Tóm lược Học thuyết Xã hội Công giáo dùng từ “công bằng” trong 131/583 số. Docat dùng từ này trong 66/328 câu. Điều đó chứng tỏ đây là một giá trị nền tảng trong đời sống con người.

– Ý kiến hiện nay: ta nên phân biệt từ: “công bằng”: theo đúng lẽ phải, không thiên vị (justitia, aequitas) – công lý( justitia): lẽ phù hợp với đạo lý và lợi ích chung của xã hội.

1.2. Công lý, công bằng trong lịch sử và đời sống

Dù con người biết suy tư xuất hiện cách đây khoảng 200.000 năm, ý niệm về công bằng cũng mới chỉ được xã hội biết đến một vài ngàn năm trước công nguyên, khi con người nhận ra giá trị cao quý của mình so với vạn vật.

Người Hy Lạp và sau đó là người Roma đã dùng sức mạnh để chiếm đóng và bắt các dân tộc khác phải phục quyền. Họ xây dựng được ý niệm công bằng và công lý với bộ luật dân sự, nhưng chúng chỉ được áp dụng cho dân tộc cai trị chứ không cho những dân tộc bị đô hộ.

Người Do Thái là một dân tộc đặc biệt nhất, khi họ ấn định Mười điều răn như luật công bằng trong mọi lĩnh vực (x. Đnl 5, 1-21; Xh 20,1-17 ), luật “mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân” (Đnl 19,20), “không được áp bức người cùng khổ, mồ côi, goá bụa” “không được xét xử bất công, thiên vị giữa người giàu và người nghèo, giữa người Do Thái và người ngoại bang”… như luật công bằng xã hội cho dân tộc mình.

Nhìn vào dòng lịch sử dân tộc Việt Nam, giá trị công bằng ít khi thấy thể hiện trong đời sống. Trong hơn 10 thế kỷ sống dưới ách nô lệ của người Trung Quốc (111 TCN-938) , người Việt bị bóc lột nhiều khi đến tận xương tuỷ, nên không được hưởng sự công bằng trong mọi lĩnh vực: buôn bán sản xuất thì chịu sưu cao, thuế nặng; học hành, làm việc thì bị phân biệt đối xử giữa người cai trị và kẻ bị trị, nơi toà án xét xử thì chịu bao nỗi bất công vì không có công bằng pháp lý. Do đó, người Việt có tâm lý phản kháng, chống đối.

Tâm thức coi nhẹ giá trị công bằng đã chuyển hoá thành một bản sắc của người Việt ngay cả khi sống trong thời quân chủ độc lập (938-1945) vì nạn cường hào ác bá, quan lại tham nhũng, vua chúa độc tài, chuyên chế, xung đột với nhau khiến cho “công lý hầu như chỉ nằm trong tay của kẻ mạnh”. Người Việt dễ ăn cắp của công vì nghĩ rằng của công cũng là do tay mình làm ra nên chúng thuộc về mình. Họ thường trốn thuế vì coi thuế là công cụ bóc lột của chính quyền. Họ ra vẻ chăm chỉ làm việc trước mặt người chủ, nhưng khi chủ vừa quay lưng đi là ngồi chơi hay làm việc riêng của mình, đi làm trễ về sớm vì không quan tâm đến công bằng theo đồng lương đã nhận… Đó chỉ là thái độ phản kháng chống lại kẻ mạnh bất công với mình, nhưng họ lại không nghĩ rằng mình cũng đang bất công với người khác.

Kể từ năm 1945 đến nay, tâm thức coi nhẹ công bằng, xem thường công lý này đạt tới đỉnh điểm khi người ta hô hào, cổ vũ cho hệ tư tưởng vô thần, chết là hết, phá đổ niềm tin ngàn đời của dân tộc: “Trời cao có mắt”, “Thiên bất dung gian”. Khi chối bỏ Trời như Đấng Tối Cao, nhìn thấu tất cả và xét xử muôn loài theo lẽ công bằng, nhiều người Việt không ngại ngùng sử dụng mọi thủ đoạn để buôn gian bán dối, dù biết rằng những hàng độc hại, giả tạo đó đang giết chết đồng bào mình. Nạn tham nhũng trong chính quyền lan rộng đến mọi cấp bậc khiến cho nền luân lý đảo điên, suy đồi. Người Việt chúng ta cần phải học lại ý nghĩa của công bằng nếu muốn cho dân tộc được trường tồn và hoà nhập với cộng đồng thế giới.

00210.jpg1.3. Công bằng trong các lĩnh vực và mọi mối tương quan theo Học thuyết Xã hội Công giáo

Chúng ta đã biết rằng con người trải rộng sinh hoạt của mình trong mọi lĩnh vực và mọi mối tương quan nên giá trị công bằng cũng phải trải rộng như thế.

Trong các lĩnh vực như kinh tế, xã hội, chính trị, giáo dục, văn hoá, nghệ thuật…mỗi cá nhân, từng chính quyền hay tổ chức xã hội đều phải giữ và làm đúng những điều đã quy định trong luật pháp, trong hợp đồng đã được ký kết để bảo đảm công lý và công bằng cho mọi người dân và các thành phần của xã hội. Vì thế, người ta phân biệt công bằng giao hoán, phân phối, pháp lý, xã hội, kính tế, tham gia…

Trong các mối tương quan với Thiên Chúa, với con người, với vạn vật và với chính mình, Học thuyết xã hội Công giáo đã định nghĩa “công bằng là có ước muốn kiên định và vững chắc trả lại những gì mình mắc nợ với Chúa và tha nhân[2].

Công bằng đối với Thiên Chúa là trả cho Ngài sự tôn kính trọn vẹn và biết ơn: đó là đức thờ phượng (số 17, 23, 63, 66, 67) vì Ngài không mắc nợ ai cả trong khi tất cả những gì ta có đều do Ngài ban tặng cho ta. Đức Giêsu cũng xác nhận: “Của Caesar trả về Caesar, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa” (Mt 22,21).

Như thế, “Phải yêu Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn” (x. Mt 22,37) cũng chỉ là luật công bằng trong mối tương quan với Chúa. Còn “Phải yêu người thân cận như chính mình” (x. Mt 22,39) cũng chỉ là luật công bằng trong mối tuơng quan với tha nhân vì người khác là anh chị em của ta trong đại gia đình Thiên Chúa.

Trong tương quan với con người, ta phải giữ công bằng giữa các cá nhân với nhau (số 462, 474); giữa các quốc gia (số 453, 497; Docat, câu 185-207). giữa chính quyền và công dân (số 527, 565). Những nông sản, hải sản không an toàn vì những hoá chất độc hại, những viên thuốc chữa bệnh không đủ liếu lượng hay giả tạo như những viên thuốc chữa ung thư giả của Công ty VN Pharma… là những vi phạm về công bằng trong phạm vi cá nhân. Những chiến tranh thương mại giữa các nước vì dầu hoả, vì đất hiếm, vì những tài nguyên thiên nhiên… cũng vi phạm công bằng trong phạm vi quốc gia. Những cuộc bầu cử gian lận, những cuộc đấu thầu không công khai cho những dự án lớn… cũng vi phạm công bằng giữa chính quyền và công dân.

Trong tương quan với vạn vật, chúng ta cũng phải giữ công bằng để không khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, như tránh đánh bắt cá trong mùa đẻ trứng hay dùng lưới quyét bắt mọi thứ hải sản lớn nhỏ. Trong tương quan với chính mình, ta phải giữ công bằng để không làm việc đến kiệt sức, dành thời giờ nghỉ ngơi, ăn uống bồi dưỡng để phục hồi sức khoẻ.

1.4. Phân biệt vài dạng công bằng

+ Công bằng giao hoán: quy định sự phân phối hàng hoá khắp thị trường trên thế giới. Nó điều tiết việc trao đổi của cải và dịch vụ theo quy tắc tương xứng về giá trị giữa các cá nhân hay nhóm (số 201, 203; Docat, câu 107).

+ Công bằng phân phối: quy định việc cộng đồng phải thực hiện cho mỗi thành viên của cộng đồng phần xứng hợp với sự đóng góp và nhu cầu của họ (Tóm lược HTXHCG, số 201; Docat, câu 206).

+ Công bằng pháp lý: quy định những bổn phận của mỗi thành viên phải đóng góp cho cộng đồng phần thích hợp của mình (thuế) (số 396; Docat, câu 109).

+ Công bằng xã hội: bao gồm các lĩnh vực liên quan tới xã hội, chính trị, kinh tế: phân phối của cải, trả lương lao động… (số 81, 82, 99, 167, 171, 201, 203, 340, 449; GLHTCG, số 1928-1942; Docat, câu 30, 40, 43, 65, 142). Sự chênh lệch giàu nghèo đòi hỏi phải tổ chức lại theo những chuẩn mực về công bằng xã hội (số 167, 171). Món nợ trả theo lẽ công lý xã hội cho người nghèo (số 184) và chính quyền phải can thiệp để thiết lập lại công lý (số 187).

+ Công bằng kinh tế: quy định những hoạt động kinh tế cần phải tôn trọng phẩm giá con người và sự thịnh vượng của toàn xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, một số điều kiện như bệnh hoạn, tật nguyền, nỗi đau khổ, không thể tính theo công lý kinh tế, nhưng được hỗ trợ riêng. Sự phát triển trong công lý đòi nhiều hơn sự tăng trưởng kinh tế: tôn trọng nền văn hoá, quyền sở hữu cá nhân và doanh nghiệp, tôn trọng thị trường tự do khi nó phục vụ toàn thể cộng đồng (số 332; Docat, câu 157-183).

Hầu như mại nước trên thế giới đang tham gia và quan tâm tới các loại Hiệp định Thương mại Tự do (FTA: Free Trade Agrements). Hiện có khoảng hơn 200 hiệp định có hiệu lực. Nổi tiếng là các hiệp định với liên minh kinh tế Á-Âu (EAEU) và Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (PTPP). Trong các hiệp định này, các thành viên quan tâm tới sự công bằng và bình đẳng để tất cả các bên cùng có lợi.

Tuy nhiên, các thành viên cũng không được làm thiệt thòi cho những nước ở ngoài hiệp định. Lý do là “ngay trong lĩnh vực kinh tế và xã hội, phẩm giá cũng như ơn gọi toàn diện của con người và thịnh vượng của toàn thể xã hội cần phải được tôn trọng và thăng tiến. Vì con người là nguồn gốc, trung tâm và mục đích cuối cùng của tất cả đời sống kinh tế và xã hội”[3].

+ Công bằng tham gia: quy định các cá nhân phải tham gia vào đời sống của cộng đồng như quyền bỏ phiếu bầu cử, tham gia vào sinh hoạt của mọi thứ cộng đồng như giáo xứ, đảng phái chính trị: tất cả mọi người đều có quyền tham gia, không được loại trừ ai (Docat, câu 100-101).

2. Can đảm dấn thân hành động cho công bằng xã hội

“Tin Mừng dứt khoát dẫn người ta đến chỗ phải dấn thân cho tình yêu, công lý, tự do và hoà bình. Khi Đức Giêsu tuyên bố Nước Trời đã đến, Người không chỉ chữa lành và cứu mạng một số cá nhân, mà hơn thế nữa, Người thiết lập một hình thức mới của cộng đồng – một vương quốc của hoà bình và công lý” (TLHTXHCG, số 63, 260; Docat, câu 28).

“Bắt chước Đức Giêsu, mỗi tín hữu tiếp tục công trình cứu độ của Người, nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần: để trả lại công bằng cho người nghèo, giải thoát người bị áp bức, an ủi người phiền muộn, tích cực đi tìm một trật tự xã hội mới, trong đó có những giải pháp thích đáng để giải quyết sự nghèo nàn về vật chất” (x. HTXHCG, số 325).

Tín hữu phải biết hợp tác với mọi người để bảo vệ công bằng (số 448) trong mọi lĩnh vực như giáo dục (số 332), truyền thông (số 562), kinh tế (số 564), chính trị (565).

Vấn đề không phải là đi tìm những công thức mới, kế hoạch mới, nhưng Giáo Hội giới thiệu “Đức Giêsu Kitô như là tâm điểm cho mọi hoạt động xã hội của chúng ta để Người được nhận biết, yêu thương, bắt chước” (HTXHCG, số 577).

3. Tình yêu hoàn thiện những công trình của công bằng

“Chỉ có tình yêu mới có khả năng thay đổi tận gốc những mối quan hệ con người đang có với nhau. Đây chính là viễn cảnh giúp mọi người thiện chí thấy được những chân trời công lý rộng mở, và con người phát triển trong sự thật và sự thiện hảo” (HTXHCG, số 4).

“Tự một mình, có công bằng thôi chưa đủ. Thật vậy, công bằng có thể phản bội chính mình, trừ khi nó biết mở ra cho một sức mạnh sâu xa hơn, là bác ái”). Học thuyết xã hội của Giáo Hội đặt giá trị của công bằng song song với giá trị liên đới, coi đó là con đường đặc biệt dẫn tới hoà bình (HTXHCG, số 325).

Tình yêu vừa giả thiết có công bằng, vừa vượt lên trên công bằng. “Công bằng phải được hoàn tất trong bác ái”. Nếu công bằng “tự nó thích hợp cho chúng ta dựa vào mà phân xử giữa con người với nhau, mỗi khi đụng chạm đến việc phân phối các thiện ích khách quan sao cho công bằng, thì tình yêu và chỉ có tình yêu (bao gồm cả tình yêu nhân hậu mà Chúa Giêsu quen gọi là lòng thương xót) mới có khả năng khôi phục con người trở lại với chính mình[4].

Kết luận

“Lý lẽ của quà tặng không loại trừ công bằng nhưng vì Thiên Chúa là tình yêu, nên sự phát triển kinh tế, xã hội, chính trị, nếu muốn thật sự là nhân bản, cần phải dành chỗ cho nguyên tắc cho không như một biểu hiện của tình huynh đệ”[5].

———————————————————

Câu hỏi

1. Con người ngày nay đang quan tâm nhất tới loại công bằng nào?

2. Khi người chủ trả lương không công bằng cho người làm công cho mình, người làm công sẽ hành động thế nào để đòi được công bằng cho mình?

3. Bạn có bao giờ áp dụng nguyên tắc cho không và lý lẽ quà tặng trong đời sống xã hội của bạn? Bạn áp dụng như thế nào?

4. Bạn nghĩ sao về những “tác quyền” đang được bảo vệ kỹ lưỡng và rất cao giá trong một số lĩnh vực như công ty tin học, các nhà xuất bản, các cơ quan truyền thông…?

5. Bạn nghĩ sao về tác quyền của những nhà xuất bản Công giáo ở nước ta khi đòi phải trả phí khá cao cho những bản dịch Thánh Kinh, các bản văn Phụng vụ, các sách tu đức, văn học Công giáo khiến cho người tín hữu Công giáo ít có khả năng tiếp cận với các loại sách Công giáo…?

6. Tại sao không có một hệ thống phân phối văn hoá Công giáo qua các giáo phận, giáo xứ, dòng tu để bớt trung gian và hạ giá sách xuống? Tại sao ít người Công giáo tặng sách theo kểu “ấn tống” như các anh em Phật giáo, Tin Lành để phổ biến văn hoá Công giáo mà chỉ tập trung cho việc xây cất những cơ sở vật chất?

———————————————————

Chú thích:

  1. x. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt 2013, NXB Đà Nẵng, tr.282.

  2. x. Tóm lược HTXHCG, số 201, GLHTCG, số 1807.

  3. x. CĐ. Vat. II, GS, số 63; Docat, câu 158.

  4. Tóm lược HTXHCG, số 206, 582, 583; ĐTC Gioan Phaolô II, TĐ Ngày Thế giới Hoà bình năm 2004, số 10.

  5. Docat, tr.300; ĐGH Bênêđictô XVI, TĐ. Caritas in Veritate, số 34.

Hướng tới sự trưởng thành toàn diện
Bài 7: Vươn tới sự sống dồi dào và sung mãn

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
Tài liệu tĩnh tâm – 3/2020

Lời mở

“Sự sống, đời sống, những điều kiện sống” là những từ được Học thuyết Xã hội Công giáo nhắc tới 271 lần trong 583 số của cuốn Tóm lược và là từ thứ ba được dùng nhiều nhất sau từ con người (639 lần) và Thiên Chúa (325 lần). Tất cả 16 văn kiện của Công đồng Vaticanô II đều nhắc đến từ này hàng trăm lần để cho chúng ta thấy trọng tâm của Học thuyết Xã hội cũng như Giáo huấn Giáo Hội là giúp cho con người sống dồi dào, bình an và hạnh phúc như Đức Giêsu đã xác định: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào. Tôi chính là mục tử nhân lành” (Ga 10,10-11).

S6

Tuy nhiên, có nhiều người dù đang sống, mà không biết sống là gì và sống để làm gì? Họ sống đau khổ, tủi nhục, thấp hèn, sống mà không bằng chết, khiến nhà ái quốc Phan Bội Châu (1867-1940) phải nhắn nhủ: “Sống mà như thế đừng nên sống. Sống tủi làm chi đứng chật trời!”. Thật ra, ai cũng muốn sống hạnh phúc, cao thượng và phát huy những phẩm chất đặc biệt của con người, nhưng làm sao để sống được như thế mới là điều đáng chúng ta quan tâm.

1. Những thách đố và xung đột trong đời sống con người và xã hội hiện nay

1.1. Sống là gì?

Dù sự sống đã có mặt trên trái đất này cách đây một tỉ năm, khởi đầu từ những đơn bào, đa bào, đến thực vật, động vật và con người biết suy tư với hộp sọ phát triển có thể tích 1200-2000cm3, nhiều người vẫn chưa hiểu sống là gì[1]. Người ta thường nghĩ theo giả thuyết tiến hoá của Darwin (1809-1882): sự sống ngẫu nhiên mà có chứ không bắt nguồn đâu cả, dù khoa học luôn quả quyết có hậu quả thì phải có nguyên nhân!

Tìm trong bộ Từ điển Bách khoa Việt Nam (TĐBKVN), bộ từ điển có giá trị nhất hiện nay, chúng ta không tìm được định nghĩa của từ “sống”[2]. Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, “sống là tồn tại ở hình thái có trao đổi chất với môi trường bên ngoài, có sinh sản, lớn lên và chết[3]. Những lời giải thích này chỉ mô tả một số chức năng chung của các vật thể sống chứ không định nghĩa được sự sống.

Thật ra, sự sống là một cái gì hiển nhiên, không cần minh chứng vì nó đang ở trong ta, trong muôn loài sống động quanh ta. Nó lạ lùng, quý báu, thiêng liêng nhưng lại có vẻ mong manh, tạm thời, phi lý và dễ dàng biến mất nếu người ta không tìm về được nguồn của sự sống. Vì thế, sự sống là một mầu nhiệm cần khám phá không ngừng[4].

hqdefault

1.2. Những thách đố và xung đột trong đời sống

Chính vì không biết sống là gì nên người ta có những thái độ sống rất khác nhau. Có người thấy sự sống có vẻ như rất mong manh, tạm thời và phi lý. Chỉ cần một cơn gió nóng thổi qua, bông hoa xinh đẹp kia cũng héo tàn. Chỉ cần một hành động như thải nước độc ra đại dương của Nhà máy Formosa ở Hà Tĩnh năm 2016, hàng triệu tôm cá bị giết chết. Chỉ cần một vài thay đổi trong cơ thể, con người trẻ trung, tài giỏi, xinh đẹp kia cũng biến mất sau một cơn nhồi máu cơ tim hay tai biến mạch máu não. Đó là mặt tối của sự sống nên nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã tự hỏi: “Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi để một mai tôi về làm cát bụi?[5].

Vì không nhận ra được những giá trị tích cực của sự sống, nên người ta hững hờ với nó, chẳng lo cho mình, chẳng giúp cho đời. Họ phung phí những năm tháng sống để thoả mãn các đòi hỏi của bản năng và dục vọng trong những cuộc vui thâu đêm. Họ tàn phá sự sống của mình bằng đủ thứ nghiện ngập và của người bằng những hành động ác đức như tham nhũng, bất công; buôn bán hàng độc hại; nói lời bất hoà, chia rẽ; bạo hành, gây chiến, phá thai… Họ nghĩ rằng chẳng ai nhìn thấy những tội ác xúc phạm đến sự sống của mình. Nhưng thật ra sự sống nào cũng mang tính vĩnh hằng, nên bất cứ hành động nào, dù tốt hay xấu, cũng đều ghi lại những dấu ấn trong sáng hay bẩn thỉu của nó trên bản chất của con người, khiến họ phải tẩy xoá sạch mọi vết bẩn nếu muốn hạnh phúc trọn vẹn trong cõi vĩnh hằng.

S11 Trái lại, không ít người nhận thức được sự sống lạ lùng, quý báu, thiêng liêng. Dù chỉ là một ngọn cỏ, một con bướm, nhưng cấu trúc kỳ diệu của hàng tỉ tế bào chuyển động không ngừng trong chúng đã làm kinh ngạc bao nhà bác học. Dù chỉ cần thêm một vài giây phút sống, nhưng người ta vẫn sẵn sàng đánh đổi mọi thứ cho người thân được sống, để nghe được lời tha thứ yêu thương, xem được nụ cười mãn nguyện của người thân. Một nụ cười trong sáng kéo dài chỉ một vài giây, nhưng cũng có sức lan toả từ người này sang người khác và tồn tại lâu dài trong suốt dòng lịch sử con người. Một câu nói yêu thương sẽ tồn tại mãi mãi. Vì thế, ta được mời gọi sống đẹp từng giây phút trong đời!

Sự sống thiêng liêng vì nó được nối kết với giá trị tinh thần mà không máy móc khoa học kỹ thuật nào có thể cân đo đong đếm được. Một nụ hôn đầu đời khiến người ta nhớ mãi về tình yêu. Một dấu bước chân của Neil Amstrong đặt lên mặt trăng ngày 20/7/1969 ghi nhớ mãi sự tiến bộ của loài người trong việc chinh phục không gian. Một nụ cười rạng rỡ ngày cưới làm cho lòng người chứa chan hạnh phúc. Tình yêu, tiến bộ, hạnh phúc là những thứ thuộc về tinh thần, không lệ thuộc vào vật chất, không gian, thời gian, nên chúng tồn tại mãi mãi với sự sống. Đó là tính cách thiêng liêng, vĩnh hằng của sự sống mà nhiều khi ta không biết đến hay chẳng quan tâm.

HTXHCG khai triển giáo huấn đã được CĐ. Vat. II trình bày về những thách đố và xung đột trong đời sống con người hiện nay, đặc biệt trong Hiến chế Gaudium et Spes (số 4-11).

Ba thách đố lớn đặt ra cho con người hôm nay: trước hết, đó là sự thật toàn diện về con người: con người là gì, có thể làm được những gì và phải như thế nào. Tiếp theo: trước những tiến bộ và hiểu biết, con người hiện nay có nhiều cách suy nghĩ khác nhau, lựa chọn cách sống khác nhau về văn hoá, tôn giáo, xã hội, vậy làm sao hiểu được và hoà hợp được những khác biệt đó. Thách đố thứ ba là việc toàn cầu hoá: mọi dân tộc đang chịu ảnh hưởng lẫn nhau và đang muốn phát triển trọn vẹn, không phải chỉ về lĩnh vực kinh tế, vậy nhân loại sẽ phát triển theo hướng nào để đạt tới sự thăng hoa toàn diện, thay vì xung đột, chia rẽ dẫn đến sự tận diệt loài người[6].

2. Đường hướng giải quyết theo HTXHCG

2.1. Xét về lĩnh vực sự sống

Có thể nói muôn loài muôn vật đều liên kết và hiệp thông với nhau như các thành phần trong một thân thể nhiệm mầu.

Từng giây phút sống là ta nhận được khí Oxy từ những cây xanh toả ra, là ta ăn bát cơm, miếng thịt, cọng rau rút ra từ lòng đất nước. Vật chất cũng như nhiều loài thực vật, động vật trở thành máu xương của ta. Rồi khí Carbonic và cặn bã ta thải ra, qua sự chuyển hoá của vũ trụ, lại trở thành xương thịt cho muôn loài sống động quanh ta. Trong đời sống vài chục năm, ta thở hàng triệu lít Oxy và uống hàng trăm ngàn lít nước. Tất cả đều chuyển hoá và hoà trộn vào muôn vật muôn loài.

S15 Vì thế, chúng ta đều là anh chị em ruột thịt của nhau xét về phương diện khoa học, chưa cần nói đến khía cạnh tôn giáo tâm linh. Nếu phân tích các gen trong nhiễm sắc thể, ta là con của ông bà này hay ông bà kia để đối xử với nhau theo huyết thống. Nhưng phân tích sâu xa hơn theo khía cạnh sự sống, ta là anh em ruột của mọi người và muôn loài trong vũ trụ này.

S8 Vì thế, ta phải cảm thấy tự hào và hạnh phúc vì trong thân thể mỗi người đang có những nguyên tử, phân tử Carbon, Hydro, Oxy, Nitơ, Sắt, Đồng, Chì, Kẽm… đã từng ở trong thân thể của Chúa Giêsu và Mẹ Maria, nên chúng ta là anh chị em ruột của nhau về mặt tâm linh. Đó cũng là ý nghĩa cần hiểu khi Giáo hội Công giáo luôn dùng từ anh chị em ruột để nói về những người thân của Chúa Giêsu, trong đó có chúng ta[7], để chào nhau trong thánh lễ.

Hơn nữa, nếu ta không hiểu sự sống con người là gì, ta cũng không thể nào biết khát vọng sống của mình có thể vươn cao và bay xa đến đâu.

2.2. Đường hướng sự sống

Ngay trong số đầu tiên của cuốn LTHTXHCG, Giáo Hội đã xác định Đấng có thể giải quyết mọi thách đố và xung đột trong đời sống là “Đức Giêsu Kitô, vì Người là Vị Cứu Tinh duy nhất và cũng là mục tiêu duy nhất của lịch sử. Người chính là đường, là sự thật và là sự sống (Ga 11,6). Chính Người đã phải trả “một giá đắt” (1Cr 6,20) bằng cái chết và sự sống lại của mình để đem đến cho mọi người sự sống mới: đó là ơn cứu độ”.

Sự cứu độ ấy đang thâm nhập vào thế giới này qua các thực tại của kinh tế và lao động, công nghệ và truyền thông, xã hội và chính trị, cộng đồng quốc tế và các mối quan hệ giữa các nền văn hoá và giữa các dân tộc. “Đức Giêsu đến để mang ơn cứu độ toàn diện, một sự cứu độ bao trùm lên mỗi con người và toàn thể nhân loại, đồng thời mở ra một triển vọng rất kỳ diệu, là mọi người được nhận làm con Thiên Chúa”[8].

HTXHCG đã nhờ Đức Giêsu Kitô giải đáp cho con người những vấn đề mà các nền văn hoá, văn minh đã phải đối mặt về nguồn gốc của con người và vũ trụ, về mầu nhiệm hiện hữu, về đau khổ, sự dữ và sự chết, về tương lai của con người[9]. Đồng thời cũng giới thiệu cho con người con đường hướng tới sự sung mãn cho cuộc sống mà con người đang mơ ước để mời gọi con người dấn thân[10].

Chính các môn đệ của Đức Giêsu trong Giáo hội Công giáo cũng cùng với mọi người dấn thân vào con đường đi tìm sự thật giải phóng và sự sống thần hoá. Họ đã và đang làm chứng rằng “Thiên Chúa đã tặng ban Con Một của Ngài là Đức Giêsu để giải thoát con người khỏi tội lỗi và chỉ cho mọi người con đường mình phải đi và đích điểm mình phải phấn đấu đạt tới”[11].

Khi gắn bó mật thiết với Đức Giêsu Kitô trong mầu nhiệm Vượt Qua, người môn đệ Đức Giêsu chết đi cho con người cũ của mình cùng với những khuynh hướng xấu, để trở thành thụ tạo mới, được ân sủng tăng sức để có thể “bước đi trong đời sống mới” (Rm 6,4). Vì Đức Kitô đã chết cho mọi người và vì ai ai cũng được mời gọi hưởng chung một định mệnh duy nhất – một định mệnh thần thánh – nên chúng ta phải tin rằng Thánh Thần sẽ ban cho mọi người khả năng trở thành những người tham dự vào mầu nhiệm Vượt Qua, bằng cách nào chỉ có Chúa biết mà thôi[12].

S5 Sự biến đổi nội tâm con người làm cho chúng ta dần dần trở nên giống Đức Kitô, chính là điều kiện tiên quyết cần thiết để các mối quan hệ của ta đối với người khác được biến đổi thật sự. Việc biến đổi này sẽ thúc đẩy ta đổi mới những khả năng tâm linh, đời sống luân lý của mình, đồng thời tìm ra những phương dược thích hợp để sửa chữa các tổ chức và điều kiện sống có nguy cơ dẫn đến tội lỗi và sự dữ, phù hợp với những chuẩn mực của công lý, sự thật, bình an và tình yêu[13].

“Người môn đệ của Đức Giêsu sẽ kính trọng và yêu thương mọi người, thật sự chịu trách nhiệm về mọi người, dù họ suy nghĩ và hành động khác với chúng ta về các vấn đề xã hội, chính trị và tôn giáo. Chúng ta có thể thực hiện được điều này nhờ ơn Chúa ban, để vượt qua mọi thứ dối trá và bạo động, với một tinh thần luôn mới mẻ và sẵn sàng, trong một mạng lưới quan hệ trung thực và đúng đắn với anh chị em đồng loại của mình”[14].

S13 Trong mối quan hệ với vũ trụ được tạo dựng, người môn đệ Đức Giêsu có khả năng và bổn phận yêu thương mọi loài, tiếp nhận chúng từ Thiên Chúa, ngắm nhìn và tôn trọng chúng, sử dụng và thụ hưởng chúng trong tinh thần nghèo khó và tự do. Bằng cách đó, con người thật sự làm chủ thế giới như thể không có gì hết; nhưng lại có tất cả: “Mọi sự là của anh em, nhưng anh em thuộc về Đức Kitô và Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa” (HTXHCG, số 44; 1Cr 3,22-23).

Đức Giêsu là con Thiên Chúa làm người, trong Người và nhờ Người, thế giới và con người đạt tới được sự thật đích thực và trọn vẹn của mình: đó là được chia sẻ đời sống làm con cùng với Đức Kitô, nhờ cuộc nhập thể và nhờ quà tặng của Thánh Thần trong mầu nhiệm Vượt Qua (HTXHCG, số 45).

Cuộc sống lại của Chúa Giêsu không phải giống như cuộc hồi sinh của con gái ông Giairô (x. Mc 5,22-43), con trai bà goá thành Naim (x. Lc 7,11-17), Ladarô (x. Ga 11,1-41), Euticô (x. Cv 20,9-12), Tabitha (x. Cv 9,36-41). Chúa Giêsu không phải chỉ trở lại cuộc sống bình thường trong không gian và thời gian với các điều kiện vật chất như mọi người mà Người sống một cách thức mới trong chiều hướng của Thiên Chúa hằng sống.

Chúa Giêsu sống lại là Người giới thiệu cho con người chúng ta một sự sống mới, một sự hiện hữu mới để chúng ta thông phần vào sự sống kỳ diệu của Thiên Chúa, một Thiên Chúa ở khắp mọi nơi và hiện diện trong mọi thời. Do đó, dù cửa nhà các môn đệ đóng kín, Chúa Giêsu vẫn hiện ra đứng giữa mọi người. Người ăn uống với họ để họ thấy vật chất được thâu nhận và biến đổi trong đời sống mới này. Người cho các ông xem tay và cạnh sườn bị đâm thủng của Người và yêu cầu Tôma kiểm chứng để thấy Người chính là con người trước đây đã bị đóng đinh, bị chết nay sống lại.

S2 Đó cũng là sự sống mới mẻ khởi đầu từ một cuộc sáng tạo mới: Chúa Giêsu thổi hơi trên các môn đệ và ban Thánh Thần của Người cho họ. Trong cuộc tạo dựng đầu tiên, Chúa dựng nên con người từ bùn đất, khi Chúa thổi hơi vào thì trở thành con người sống động. Bây giờ, Ngôi Lời Thiên Chúa là Chúa Giêsu sống lại cũng thổi hơi trên các môn đệ để tạo dựng nên những con người mới, những con người được chia sẻ sự sống vĩnh hằng, kỳ diệu của Đấng Phục Sinh nhờ Thần Khí của Người. Thánh Phaolô sẽ khai triển nhiều về đề tài này trong các thư của ngài khi xác tín Đức Giêsu là một Ađam mới ngay trong cái chết của Người khi “Người gục đầu xuống và trao ban Thần Khí” (Ga 19,30).

3. Sống đẹp và yêu đến cùng như Đức Giêsu Kitô

3.1. Sự sống tinh thần

Con người chỉ được nâng lên một bậc sống mới nhờ “tinh thần” khi con người biết vượt qua chính mình, vượt qua vật chất, không gian và thời gian để đưa những suy tư và cảm xúc tự nhiên của mình vào một tầng cao mới, một thế giới mới: thế giới của tinh thần với các giá trị phi thường, siêu việt.

S9 Nhờ khả năng biết suy tư, con người nhận biết có một sự sống mới mà mình có thể tham dự: sự sống tinh thần. Sự sống này bao gồm những giá trị tích cực mà con người có thể cảm nhận được ngay trong đời sống tạm bợ, nhất thời, phi lý của mình: đó là giá trị của tình yêu, tự do, niềm vui, hạnh phúc, hoà bình, cái đúng, cái tốt, cái đẹp… Con người muốn sống mãi, trẻ mãi, đẹp mãi, tốt mãi, vui sướng trọn vẹn, hạnh phúc sung mãn, tự do hoàn toàn, hoàn thiện vô biên. Khát vọng này đưa con người vượt ra ngoài vũ trụ vật chất, đang bị lệ thuộc vào thời gian và không gian ba chiều, để bước vào thế giới linh thiêng chỉ dành cho loài có tinh thần. Đó cũng là khát vọng trở thành thần linh, kết hợp với Thiên Chúa mà tôn giáo gọi là “được giải thoát”, “cứu độ”, được “vào thiên đàng”, “vào Niết Bàn”, …

Trong suốt dòng lịch sử, con người đã thể hiện khát vọng kéo dài sự sống bằng cách tìm ăn các củ nhân sâm ngàn năm, tạo ra các mỹ phẩm để làm cho mình đẹp hơn, trẻ hơn, thay đổi gen để kéo dài tuổi thọ… Thất vọng về các giải pháp vật chất, con người tìm đến tôn giáo vì hy vọng tìm ra các giải pháp tinh thần thoả mãn được khát vọng của mình. Quả thật, một số người đã tiếp xúc được với thần linh, đã tham dự vào đời sống tinh thần và chứng minh cho những người khác thực tại của đời sống này. Vì thế, hầu hết 7 tỉ con người đang sống trên trái đất đang theo một tôn giáo nào đó. Đây chỉ là một dấu hiệu nhắc nhở ta quan tâm đến sự sống tinh thần.

Như thế, tôn giáo không phải là thứ thuốc phiện ru ngủ quần chúng như người Cộng sản lên án, cũng chẳng phải là thứ thuốc mê làm tha hoá con người như người Hiện sinh Vô thần đã nêu ra. Tôn giáo là một trong những phương tiện đưa con người vào đời sống tinh thần, khi cổ vũ nền văn hoá sự sống, mà chỉ con người mới có thể xây dựng để vũ trụ đạt tới cùng đích của nó trên con đường tiến hoá. Vì thế phải trân trọng tôn giáo vì đó là hình thái cao nhất của nền văn hoá sự sống khi cổ vũ một sự sống tinh thần hoàn hảo và vô biên. Tôn giáo sẽ giúp con người được tự do hoàn toàn và phát triển trọn vẹn khả năng tinh thần của mình. Lúc đó ta mới thật sự là người có thể xác và tinh thần, được tạo dựng theo hình ảnh của Đấng là Cội Nguồn Sự Sống, với tinh thần luôn mở ra cho siêu việt và hướng tới vô biên[15].

3.2. Sự sống thần hoá của Đức Giêsu

Đức Giêsu không dài lời giải thích về sự sống bằng những ý niệm trừu tượng, nhưng Người dạy ta tôn trọng và bảo vệ sự sống của muôn loài quanh ta vì tất cả đều là con cái của Thiên Chúa hằng sống.

Người mời gọi ta hãy nhìn xem vạn vật như hoa huệ ngoài đồng, những chú chim sẻ ríu rít quanh ta để nhận ra quyền năng và tình yêu của Cha Trên Trời đối với tất cả (x. Mt 6,26-32). Người yêu cầu ta thu nhặt từng mẩu bánh nhỏ, dù phép lạ Người làm cho mọi người no nê, để tiết kiệm, dành dụm cho những bữa sau (x. Ga 6,12).

Người quý trọng sự sống thể lý của con người nên đã chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền (x. Mc 1,32-33; 3,10-12; 6,55-56; Mt 8,16; Lc 4,40…). Người cổ vũ sự sống tâm lý khi nhắc nhở con người giữ tinh thần cho trong sáng, quảng đại vì không phải những đồ ăn đưa vào bụng con người làm cho họ ra nhơ uế, nhưng những gì là tham lam, ghen tuông, giận dữ, dối trá… từ lòng con người xuất ra mới làm cho họ bẩn thỉu, nhuốc nhơ (x. Mt 14,10-20; Mc 7,14-23). Người đề cao sự sống tâm linh khi nhắc nhở con người “không phải chỉ sống bằng cơm bánh mà còn sống bằng những lời từ miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4). Người chia sẻ sự sống của Thiên Chúa cho tất cả những ai tin vào Người (x. Ga 1,4; 3,16; 3,36; 5,24.26; 6,47; 10,10; 11,25; 17,3…).

S16

Người xua đuổi ma quỷ vì đó là những thụ tạo gây hại cho đời sống con người “cả thể xác lẫn tinh thần” nên khi xua đuổi ma quỷ khỏi người câm điếc, thì họ nói được, nghe được, thấy được (x. Mc 1,21-28; 5,1-20; 7,24-30; 9,14-29; Mt 9,32-34; Lc 4,31-37).

Người đã làm nhiều phép lạ cho người chết sống lại để chứng tỏ rằng sự sống ở đời này chỉ là một giai đoạn vô cùng ngắn ngủi so với đời sống vĩnh hằng. Người cho con trai bà goá thành Naim (x. Lc 7,11-17), con gái ông Giairô (x. Mc 5,21-43) và Lazarô chết 4 ngày sống lại (x. Ga 11,1-44) để chứng tỏ Người là chủ sự sống, Người là Sự Sống toàn diện, siêu việt, hoàn hảo “Tôi là Sự Sống…” (x. Ga 14,6): Người ban sự sống đó cho tất cả những ai tin vào Người “Ai tin vào tôi sẽ được sống đời đời” (Ga 11,25-26).

Cuối cùng, chính Người đã chết và sống lại để chứng tỏ con người có thể tham dự vào sự sống của Thiên Chúa. Người đã hiện ra với các môn đệ nhiều lần, cùng ăn uống với họ để chứng tỏ Người đang sống và chia sẻ sự sống của chính Thiên Chúa cho họ. Thân thể phục sinh của Đức Giêsu có thể hiện ra ở trong phòng đóng kín cửa (x. Ga 20,19) ở bất cứ nơi nào (bên ngôi mộ, nơi phòng Tiệc Ly), bất cứ lúc nào (trên đường Emmaus (x. Lc 24,13-25). Đó là cuộc sáng tạo mới của Thiên Chúa.

3.3. Con đường thần hoá

Người còn cho các tông đồ được chia sẻ quyền năng của Người để làm các phép lạ minh chứng con đường sự sống kỳ diệu đó: (x. Mt 10,1-6; Mc 3,13-19; 6,7-13; Lc 9,6). Phêrô chữa người què (x. Cv 3,1-10) hoặc bị tê bại tên Ênê (x. Cv 9,32-35), cho chị Tabitha sống lại (x. Cv 9,36-42). Phaolô chữa lành người bại chân ở Lystra (x. Cv 14,8-18), trừ khử ma quỷ (x. Cv 19,11-20), cho cậu bé Eutichô sống lại (x. Cv 20,7-12). Điều này chứng tỏ con người đã được thần hoá chứ không phải “những vị thần mặc lốt người phàm đã xuống với chúng ta” (Cv 14,11).

Chúng ta có nhiều thí dụ trong Thánh Kinh cũng như trong đời sống của các thánh nhân về những đặc tính của đời sống mới. Chẳng hạn trong sách Công vụ Tông đồ, thánh Philipphê đang giảng dạy ở miền Samari, Thánh Thần bốc ngài đi gặp viên hoạn quan đang đi trên đường từ Giêrusalem về Gaza để nói cho ông về Chúa Giêsu, rồi sau khi rửa tội cho ông, Thánh Thần lại cất ông đi ngay trước mắt viên quan ấy và đặt ông xuống miền Asđôt, cách xa hàng trăm cây số (x. Cv 8,4-40). Hoặc thánh Martinô Pores sống ở Nam Mỹ nhưng được Chúa cho vượt Đại Tây Dương trong nháy mắt, đưa vào ngục tù để chữa cho một tù nhân ở châu Âu. Khi ngài dẫn đoàn học sinh đi chơi, thầy trò vui vẻ đến quên giờ về đọc kinh chiều trong khi đường còn rất xa, thánh nhân xin tất cả nhắm mắt lại cầu nguyện, mở mắt ra đã thấy mình ở trước cổng tu viện. Những thí dụ đó cho ta hiểu về sự sống mới mà Đấng Phục Sinh có thể chia sẻ cho các môn đệ của Người.

Khi gắn bó với Đấng Phục Sinh, Thiên Chúa giàu lòng thương xót sẽ cho chúng ta cảm nghiệm được sức mạnh và quyền năng kỳ diệu của Người để chúng ta hiểu rằng Người đang hiện diện sống động bên ta, chia sẻ sự sống kỳ diệu cho ta để ta không còn lệ thuộc vào vật chất, vào không gian, thời gian và định luật của thể xác, để tâm hồn chúng ta mở rộng ra cho mọi người, mọi vật quanh mình[16].

S17

Như thế, con đường Giêsu dẫn loài người và vạn vật đến một điểm xa nhất và cũng cao nhất, đó là được thần hoá để chia sẻ chính sự sống của Thiên Chúa, trở thành Thiên Chúa nhờ công trình cứu độ của Đức Giêsu Kitô trong tác động thánh hoá của Chúa Thánh Thần. Ước mơ của con người đã biến thành sự thật!

Kết luận

Con đường sự sống của Đức Giêsu mở ra đến vô tận. Nó giúp ta từ nay nhìn ra muôn loài ẩn chứa một sự sống lạ lùng của Thiên Chúa để ta tôn trọng và yêu quý tất cả. Nó cũng giúp ta luôn sống trong niềm vui và hy vọng vì cánh cửa tử sinh chỉ còn là một bước ngắn ngủi phải qua để đi vào cuộc thần hoá diệu kỳ.

S14

———————————————————

Câu hỏi gợi ý

1. Bạn đang cảm nghiệm gì về cuộc sống của mình: chán chường, mệt mỏi, vô nghĩa, có ích, trân trọng, hối hả, lo sợ, tin tưởng, thích thú?

2. Bạn có coi thường và đánh giá thấp đời sống thể lý với các hoạt động như ăn uống điều độ, ngủ nghỉ, giải trí, vui chơi, thể dục thể thao? Hoặc bạn quá chú tâm đến chúng?

3. Bạn có kinh nghiệm gì về một phép lạ của Chúa, một sự can thiệp lạ lùng của Chúa trong đời bạn? Bạn nghĩ mình có thể làm phép lạ không?

4. Nếu bạn được thần hoá, có quyền năng để chữa bệnh, trừ quỷ và các ân sủng lạ lùng thì bạn sẽ làm gì cho xã hội, cho đất nước, cho nhân loại?

———————————————————

  1. x. Bs. Alice Roberts, Atlas Giải phẫu Cơ thể Người, NXB Y Học, 2015,tr.14-15.

  2. x. Từ điển chỉ có 3 từ “sống ghép”, “sống bám cố định”, “sống lâu năm” (x. Từ điển Bách khoa Việt Nam, NXB TĐBKVN, Hà Nội, 2003, tr.798).

  3. x. Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2013, tr.1117.

  4. x. Lm. Nguyễn Ngọc Sơn, Cẩm nang Tân Phúc Âm hoá, bài “Con đường sự sống”, NXB Tôn Giáo, 2014, tr.264-272.

  5. x. Trịnh Công Sơn (1939-2001) sáng tác bài này năm 1965 và ca sĩ Khánh Ly trình bày đầu tiên trong Sơn Ca 7.

  6. x. Tóm lược HTXHCG, số 16.

  7. x. Mc 3,31-35; Mt 12,46-50; Lc 8,19-21; Mc 6,3; Mt 13,53-58; Lc 4,16-30; Ga 7,2.5; Cv 1,14; 1Cr 9,5; Gl 1,19

  8. x. Tóm lược HTXHCG, số 1; ĐGH Gioan Phaolô II, TĐ. Redemptor Missio, số 11.

  9. x. Tóm lược HTXHCG, số 14.

  10. x. Tóm lược HTXHCG, số 15.

  11. x. Tóm lược HTXHCG, số 17.

  12. x. Tóm lược HTXHCG, số 41; CĐ Vat. II, GS, số 22.

  13. x. Tóm lược HTXHCG, số 42; GLHTCG, số 1888.

  14. x. Tóm lược HTXHCG, số 43; GLHTCG, số 1889.

  15. x. Tóm lược HTXHCG, số 47, 130; Docat, câu 47, 52, 53, 56,57.

  16. x. Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, Cẩm nang Tân Phúc Âm hoá, NXB Tôn Giáo, 2014, tr.232-233.

 

 

Hướng tới sự trưởng thành toàn diện
Bài 8: Các nguyên tắc căn bản hướng dẫn hành động xã hội

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
Tài liệu tĩnh tâm – 3/2020

Lời mở

Khi cổ vũ nền văn hoá nhân bản tâm linh, Học thuyết Xã hội Công giáo (HTXHCG) đề cao những giá trị căn bản là sự thật, tình yêu, tự do, công bằng và sự sống. Chúng được xem như những viên gạch để xây dựng nền văn minh tình yêu. Nhưng để làm thành được toà nhà văn minh tình yêu, ta cần những người thợ biết xây dựng theo đúng sơ đồ kiến trúc và những nguyên lý xây dựng cơ bản.

Chính vì thế, HTXHCG giới thiệu 4 nguyên tắc căn bản để hướng dẫn mọi hành động xã hội của con người. Đó nguyên tắc nhân vị, công ích, bổ trợ và liên đới. Chúng ta sẽ tìm hiểu tại sao lại có những nguyên tắc ấy, nội dung của chúng là gì và chúng có liên hệ với nhau như thế nào.

4-nguyên-tắc-căn-bản-xây-dựng-xã-hội

1. Phân biệt từ ngữ

Trong phạm vi bài này, ta nên hiểu rõ và phân biệt:

1.1. Hành động, hay hành vi,

Tiếng Việt cũng như nhiều ngôn ngữ khác rất phong phú. Cùng một từ act, action của tiếng Anh, hay acte, action của tiếng Pháp, actus của tiếng Latinh, tiếng Việt có thể dịch thành: hành vi, hành động, tác động, việc làm và nhiều ý nghĩa khác.

Hành động: là việc làm cụ thể của con người nhằm một mục đích nhất định[1]. Thí dụ: ăn một bữa cơm; uống một ly nước; nói chuyện với bạn bè, mua một đồ vật…

Hành vi: toàn bộ những phản ứng, cách cư xử biểu hiện ra bên ngoài của một người trong một hoàn cảnh cụ thể. Thí dụ: hành vi ăn: từ cách gắp thức ăn, nhai nuốt, bộ mặt biểu lộ cảm xúc khi ăn, đến cách ngồi ở bàn ăn trong một nhà hàng sang trọng…

Trong thực tế, nhiều người cũng như nhiều từ điển dùng lẫn lộn từ “hành động” với “hành vi”.

1.2. Phân biệt hành vi nhân sinh và hành vi nhân linh theo luân lý

Hành vi nhân sinh là hành vi của con người, nhưng không do lý trí con người điều khiển, cũng không được ý chí con người kiểm soát. Thí dụ: nói mê, nói sảng, té ngã[2].

Hành vi nhân linh là việc làm đã được lựa chọn cách có ý thức và tự do theo phán đoán của lương tâm nên mang tính trách nhiệm luân lý[3].

Tính cách luân lý của các hành vi nhân linh tuỳ thuộc vào 3 yếu tố sau đây: trước hết, đối tượng được chọn lựa là điều thiện chủ ý nhắm tới; tiếp theo là ý hướng hay mục đích mà chủ thể hành động muốn thể hiện; thứ ba là các hoàn cảnh của hành động, bao gồm cả những hậu quả. Thí dụ: hành động cho tiền một người nghèo, nhưng làm với ý hướng khoe khoang để mua chuộc lòng tin của người khác và lừa bịp họ vào trong những hành động xấu xa khác[4].

Như thế, một hành vi tốt về mặt luân lý đồng thời giả thiết phải có cả 3 yếu tố đều tốt. Mục đích không biện minh cho các phương tiện. Thí dụ: không thể lấy lý do giúp người nghèo để cướp đất, cướp của người khác. Không được phép làm điều xấu để từ đó đạt được điều tốt. Thí dụ: thúc đẩy kế hoạch giảm gia tăng dân số và phát triển kinh tế bằng cách buộc phá thai. Không thể ngoại tình để an ủi một người bạn đang đau khổ tuyệt vọng (số 1756-1761)[5].

1.3. Phân biệt các hành vi theo quan điểm xã hội

Người ta phân biệt thành hành động trí óc, hành động (vi) ý chí, hành động (vi) xã hội, hành vi bản năng, hành vi hành chính, hành vi pháp luật và trái pháp luật. Đây là những mục từ theo Từ điển bách khoa Việt Nam [6]:

+ Hành động trí óc: hành động chỉ thực hiện trong tâm trí (bộ não) con người dành cho việc suy tư, nhận thức, ước muốn, cảm xúc, nhớ nhung… nhưng không dựa vào một phương tiện bên ngoài nào như tay chân, máy tính, ngôn ngữ, chữ viết. Thí dụ: Nhớ về một kỷ niệm trong quá khứ, nghĩ về một khó khăn đang gặp phải.

+ Hành động ý chí ( tương đương với “hành vi nhân linh”): là hành động đặc thù của con người, có mục đích đề ra từ trước một cách có ý thức, có lựa chọn phương tiện, biện pháp để thể hiện mục đích, có theo dõi kiểm tra, điều khiển, nỗ lực khắc phục khó khăn trong quá trình thực hiện mục đích.

12

+ Hành động (vi) xã hội: là hoạt động của con người trong xã hội, có quan hệ đến người khác, đến một tổ chức, một tập thể trong xã hội. Hoạt động này hướng tới các giá trị, do cá nhân, hoặc do các nhóm, các tổ chức gây ra, nó là sự thể hiện một hệ thống xã hội và nói lên thực chất của hệ thống xã hội đó. Khi hành động nói lên phản ứng một xung đột bên ngoài hay bên trong của hệ thống thì hoạt động xã hội này là dấu hiệu nói lên một mâu thuẫn hay một chỗ nứt rạn của hệ thống. Thí dụ: vụ buôn bán thuốc ung thư giả H-Capita của Công ty VN Pharma cho thấy việc quản lý giá thuốc, chất lượng thuốc tại Việt Nam của Bộ Y tế Việt Nam có nhiều thiếu sót[7].

+ Hành vi bản năng: là các hành vi bẩm sinh, giống như ở tất cả các cá thể cùng loại, bảo đảm những chức năng cơ bản nhất cho sự sinh tồn của cá thể và phát triển của giống loài như bản năng ăn uống, tự vệ, tính dục, bầy đàn, di cư… Nơi con người, những bản năng không còn y nguyên như lúc mới sinh, mà phần lớn đều ghi dấu ấn của văn hoá xã hội, nghĩa là bản năng được ý thức hoá.

+ Hành vi hành chính: toàn bộ những hoạt động nhằm phục vụ công dân thực hiện các quyền lợi và nghĩa vụ của mình, thông qua sự chỉ đạo và quản lý của Nhà nước.

+ Hành vi pháp luật: những hành vi do pháp luật quy định, xuất phát từ pháp luật. Thí dụ: khai báo tài sản các viên chức; xin phép nhận khẩu hàng tiêu dùng nước ngoài. Việc xem phim đồi truỵ là một hành động luân lý xấu nhưng không phải bị pháp luật quy định và lên án, nhưng sản xuất phim đồi truỵ là hành vi trái pháp luật.

2. Hành động con người trong xã hội

Mỗi ngày, con người chúng ta sống và bày tỏ chính mình qua những hành động, hành vi thuộc đủ loại khác nhau. Một số hành động được làm theo bản năng sinh tồn mà nhiều khi ta không ý thức việc mình làm và cũng không chủ ý làm, trái lại một số hành động được làm với ý thức và ý chí rõ rệt. Thí dụ như có người ăn uống, ngủ nghỉ, học hành, làm việc, vui chơi, giải trí theo thói quen, theo bản năng… nhưng cũng có người làm những hành động đó vì biết chúng có ích, làm vì tình yêu Chúa và tha nhân thúc đẩy….

Có những hành động chỉ diễn ra trong tâm trí con người, như suy nghĩ, ước mơ, tưởng tượng… Chúng không trực tiếp tác động đến người nào hay vật nào, nhưng chúng vẫn là những hành động đặc thù của con người, nên chúng cũng có tính cách và giá trị luân lý. Vì thế, con người không được có những tư tưởng tiêu cực, những nhận thức sai trái, những ước muốn xấu xa, dâm đãng, những tưởng tượng điên rồ… Khi con người cố ý có những hành động như thế là đi ngược hay hạ thấp phẩm giá cao quý của mình, vì con người là con cái Thiên Chúa, Đấng dựng nên con người theo hình ảnh của mình và ban cho con người những giá trị tích cực vô biên[8].

14

Tuy nhiên, vì con người được ban tặng tự do để vâng phục Thiên Chúa và yêu thương, nên con người cũng có thể chống lại Thiên Chúa, không vâng phục Ngài và từ chối yêu thương. Con người đã chiều theo tên cám dỗ[9] cắt đứt mối hiệp thông với Thiên Chúa là nguồn sự sống và giá trị, phá vỡ giới hạn thụ tạo của mình. Tội nguyên tổ của Adam và Eva đã ảnh hưởng tới bản tính nhân loại, làm cho mọi người mất đi sự thánh thiện và công chính nguyên thuỷ[10]. Từ đó mọi hành động của con người cũng bị ảnh hưởng.

Khi xa rời Chúa là nguồn của chân thiện mỹ, con người đưa vào tâm trí mình những điều sai lầm, ác đức, xấu xa. “Khi xa rời Chúa, con người cũng xa rời chính mình (để làm những điều mình không muốn và không làm được những điều mình muốn), xa rời với người khác (coi họ chỉ là vật dụng để khai thác, không còn là cùng con cái với cha trên trời, là xương thịt của nhau), xa rời với thế giới chung quanh (khai thác vạn vật như một ông chủ ích kỷ)”[11].

Hành động của con người từ đó mang chiều kích hai mặt: vừa thể hiện những gì của cá nhân người hành động, nhưng cũng thể hiện mối quan hệ với người thân cận. Thật ra, bất cứ một hành động nào của con người dù ở trong trí óc, ý chí của một cá nhân, đều có thể tác động ít nhiều đến xã hội hay cộng đồng mình sống. Thí dụ: ta đến ăn tại một nhà hàng, ngủ trên một chiếc giường. Những hành động này dù rất riêng tư, nhưng vẫn có thể tạo nên một số hậu quả như: việc ăn uống hay ngủ nghỉ tác động đến người phục vụ, người cung cấp các món hàng, người thuê cửa hàng…

Vì thế, khi một hành động bị coi là đi ngược với luân lý, bị coi là tội, thì “tội nào cũng là một tội cá nhân, xét về một phương diện nào đó, nhưng xét về một phương diện khác, tội nào cũng là tội xã hội trong mức độ nó cũng gây ra những hậu quả trong xã hội”[12]. Như thế, những hành vi nhân linh đều là những hành vi xã hội. Tuy nhiên, chúng ta muốn xác định ở đây hành động xã hội là làm những việc cụ thể nào đó, có ít nhiều quan trọng, một cách có ý thức, có mục đích rõ rệt và tạo nên mối liên kết với một người hay nhiều người trong cộng đồng xã hội[13].

Muốn cho những hành động thực sự tạo nên những giá trị tích cực, ta phải theo những nguyên tắc căn bản được HTXHCG giới thiệu sau đây. Tuy nhiên, trước khi trình bày những nguyên tắc đó, ta nên tìm hiểu những hoàn cảnh, nguyên nhân hình thành nên chúng trong lịch sử nhận thức của con người.

13

3. Lịch sử hình thành nhận thức về hành động xã hội

Dù con người biết suy tư (homo sapiens) xuất hiện cách đây khoảng 200.000 năm, nhưng việc con người nhận thức được hành động của mình, phân biệt các loại hành động, nêu được giá trị luân lý của hành động chỉ mới bắt đầu từ vài ngàn năm nay, khởi đầu với nền văn minh của Hy Lạp, của La Mã và nhận thức của một số tôn giáo như Do Thái giáo, Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo…

3.1. Trước hết, con người hành động theo bản năng sinh tồn giống như những loài vật khác. Nhiều loài vật giết hại loài khác để sống, thậm chí sát hại cả chủng loại của mình để bảo đảm sự sống còn, như loài chim đại bàng.

Giai đoạn hành động theo bản năng kéo dài vì tâm trí con người chưa được mở mang, sống theo bầy đàn và hành động theo bầy đàn.

Khi con người vượt qua tâm thức bái vật, khám phá ra các thần linh cao quý và bất tử, con người lại dồn mọi hoạt động để phục vụ thần linh, thậm chí hiến dâng cả mạng sống con người làm lễ vật cúng thần như ta thấy trong rất nhiều tôn giáo nguyên thuỷ cách đây vài ngàn năm như tôn giáo thờ cúng của bộ lạc, tôn giáo bái vật nơi người Inca… Chỉ từ khi Do Thái giáo xuất hiện, cách đây khoảng 3000 năm, việc hiến tế người sống cho thần linh mới bị ngăn cấm và con người mới nhận ra giá trị cao cả của mình để tôn trọng sự sống của đồng loại. Nguyên tắc tôn trọng nhân vị, có thể nói, đã bắt đầu từ đó.

Khi con người vượt qua giai đoạn thị tộc để bước vào giai đoạn dân tộc, quốc gia, người ta hành động với ý hướng để phục vụ lợi ích chung của dân tộc, quốc gia và sẵn sàng hy sinh quyền lợi riêng tư. Những chủ nghĩa ái quốc cực đoan còn hô hào đặt quyền lợi dân tộc lên trên hết và làm bất cứ hành động nào, dù bất công, bất chính, để phục vụ dân tộc. Chẳng hạn như ăn cắp thông tin, bí mật quân sự, kinh tế, khoa học của người khác, của nước khác để phục vụ đất nước. Thí dụ điển hình như việc Trung Quốc dùng những đoàn thuyền đánh cá dân sự đông đảo để xâm phạm lãnh hải của nước khác. Người ta còn nhân danh cả tôn giáo quốc gia để bắt các dân tộc khác phải tôn thờ những thần linh của mình, như vua Antiochus bắt dân Do Thái và các dân tộc thờ lạy các thần linh Hy Lạp (x. 1Mac 1,1-62). Vấn đề đặt ra ở đây là nguyên tắc công ích: đó là ích lợi chung của phe nhóm, đảng phái, dân tộc hay toàn thể nhân loại được xác định như thế nào?

Trong dòng lịch sử nhân loại, khi người ta đồng hoá ích lợi chung của một quốc gia, dân tộc với quyền lợi của người nắm quyền điều hành quốc gia đó, thì rất nhiều khi những hành động con người bị chuyển hướng, không còn thật sự phục vụ công ích mà chỉ phục vụ theo ý muốn độc tài của một con người, một dòng họ hay một tập thể nào đó. Chúng ta thấy điều này thường xuyên xảy ra trong các nước theo chế độ quân chủ chuyên chế thời xưa cũng như thời nay. Quyền lực hành động của cá nhân hay tập thể có khi còn được củng cố bởi thần quyền của tôn giáo. Thí dụ: vua là thiên tử, là con Trời, thay Trời hành đạo, có toàn quyền sinh sát trong tay, vua bắt thần dân chết mà thần dân không chết là thần dân đó bất trung. Vì thế, trong nguyên tắc công ích người ta phải xác định công ích thật sự là gì, bao gồm những phạm vi nào, nó được mở rộng đến quốc gia hay cho toàn thể nhân loại và vũ trụ.

4

Một vấn đề liên quan đến công ích là những của cải vật chất và tài nguyên thiên nhiên. Trước đây chúng là nguyên nhân chính cho những can thiệp của người cầm quyền với dân chúng cũng như gây nên những cuộc xung đột và chiến tranh giữa các dân tộc. Lòng tham của con người hầu như vô đáy nên ai cũng muốn có thật nhiều của cải và tìm mọi cách chiếm đoạt cho mình. Vì thế, mục tiêu phổ quát của của cải và quyền tư hữu được đặt ra để xác định công ích có những giới hạn nào[14].

Khi hành động, con người thường muốn thấy ngay hiệu quả của công việc, không muốn bị trì trệ, bị thiếu sót, hư hỏng các phương tiện, nên thường tự mình muốn hành động và thậm chí làm thay cả những người khác vì thấy họ yếu kém về năng lực hơn mình. Điều này xảy ra trong các chế độ bao cấp thuộc đủ loại lĩnh vực khác nhau, dẫn đến các hình thức trung ương tập quyền, quan liêu giấy tờ trong việc cứu trợ an sinh và sự kiểm soát chặt chẽ của chính quyền trong lĩnh vực an ninh trật tự công cộng. Tình trạng này đã xảy ra trên đất nước chúng ta trong nhiều năm sống dưới chế độ quân chủ chuyên chế (938-1945) với tổ chức các làng nghề chặt chẽ hay dưới chế độ xã hội chủ nghĩa với những hợp tác xã nông nghiệp, chế độ tem phiếu hàng hoá, nhu yếu phẩm (1954-1986). Vì thế, nguyên tắc bổ trợ thúc đẩy và để cho các cá nhân tập thể ở trật tự thấp hơn được tự do hành động với sự trợ giúp ở cấp cao hơn.

Bắt đầu từ thế kỷ XIX, hình thành một phong trào chính trị rộng lớn, gọi là chủ nghĩa Cộng sản, nhằm xoá bỏ chủ nghĩa Tư bản để xây dựng một xã hội không giai cấp, không có sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Trong xã hội này mọi người đều bình đẳng, không có hiện tượng người bóc lột người và tiến tới xoá bỏ nhà nước trong một thế giới đại đồng không có biên giới quốc gia khi người với người đều là bạn, thương yêu lẫn nhau. Trong xã hội Cộng sản này mỗi cá nhân được tự do phát huy mọi khả năng của mình, năng suất lao động tăng lên rất cao và của cải làm ra dồi dào.

 Cách mạng tháng 10 Nga 1 Lý tưởng Cộng sản này đã được K. Marx và Engel cùng nhiều người đã tích cực xây dựng, cổ vũ và cuốn hút được khá nhiều người theo đuổi các phong trào Cộng sản quốc tế, nhất là tại các nước kém phát triển và đang phát triển của thế giới thứ ba. Nhưng chủ nghĩa Cộng sản này đã suy thoái vào cuối thế kỷ XX, nhất là sau khi khối Liên Xô tan rã và bức tường Berlin ở Đức sụp đổ. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự suy thoái của chủ nghĩa Cộng sản[15]. Tuy nhiên, cuộc xung đột giữa hai chủ nghĩa Tư bản và Cộng sản lại dẫn con người đến một nguyên tắc mới trong hành động. Đó là nguyên tắc liên đới.

Một hành động của con người hay của một tập thể có thể tạo ra những hậu quả vô cùng khủng khiếp, tác động đến nhiều người, nhiều dân tộc. Thí dụ: những trận cháy rừng ở vùng Amazone vào tháng 9/2019 vừa qua ảnh hưởng đến lượng khí Oxy của toàn trái đất; một vụ buôn bán công thức chế tạo bom nguyên tử, bom khinh khí của tổ chức thù địch có thể ảnh hưởng toàn cầu. Sự liên đới này thúc đẩy con người phải cẩn trọng và khôn ngoan hơn để tránh những thiệt hại do sự bất cẩn, để khắc phục những cấu trúc tội lỗi như những tổ chức buôn bán vũ khí, buôn bán ma tuý, buôn người, sự lũng đoạn về kinh tế, chính trị, luân lý xã hội của các tập đoàn đa quốc gia. Chính nhờ ý thức về sự liên đới này, các dân tộc mới củng cố và tạo điều kiện cho các tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc, Toà án Quốc tế, Tổ chức Thương mại Quốc tế… tác động vào những hoạt động của cá nhân và tập thể để giúp họ vươn tới công ích toàn cầu.

Khi bàn đến hành động của con người và mối liên đới, ta không thể không nhắc đến quan niệm của Phật giáo về hành động theo luật nhân quả: hành động của kiếp này là hậu quả của kiếp trước và trở thành nguyên nhân cho kiếp sau. Nếu kiếp này làm người có những hành động sai trái, kiếp sau có thể phải làm trâu bò, chó ngựa. Nếu kiếp trâu ngựa ấy làm tốt, thì sau đó lại có thể trở về kiếp người. Điều này khiến cho người ta hiểu rằng Phật giáo quan niệm những con vật khi hành động đều có ý thức và ý chí tự do của mình thì chúng mới chịu trách nhiệm luân lý cho các hành động của chúng. Theo giáo huấn của HTXHCG, chỉ có con người mới chịu trách nhiệm luân lý về các hành động của mình, nhờ ý chí và tự do được Thiên Chúa ban cho khi dựng nên con người theo hình ảnh Thiên Chúa. Như thế, nguyên tắc liên đới cũng gắn kết chặt chẽ với nguyên tắc nhân vị.

Thật ra, cả 4 nguyên tắc: nhân vị – công ích – bổ trợ – liên đới gắn bó chặt chẽ với nhau và hình thành nên một thể thống nhất qua các mối quan hệ và liên kết mạch lạc của chúng[16]. Một hành động nhân linh của con người tác động đến xã hội phải theo các nguyên tắc sau:

3

Nguyên tắc nhân vị nhắm đến chủ thể hành động và đối tượng nhận hành động đều là những con người thật sự, có nhân vị cao quý chứ không phải là những sinh vật hay đồ vật bị khai thác và sử dụng.

Nguyên tắc công ích nhắm đến đối tượng là việc làm được chủ thể hướng tới. Việc làm đó phải là mang lại ích lợi tốt đẹp không phải chỉ dành cho một cá nhân, tập thể, dân tộc mà còn phải là ích lợi chung cho tất cả mọi người và vạn vật có liên quan.

Nguyên tắc bổ trợ nhắc nhở chủ thể hành động không được trực tiếp làm thay cho cấp dưới mà chỉ hỗ trợ sự giúp đỡ cần thiết để cấp dưới có thể tự làm.

Nguyên tắc liên đới đòi hỏi công ích mà hành động nhắm tới phải là dịp để chủ thể hành động nói lên sự gắn kết sâu rộng của mình với mọi người, mọi vật quanh mình.

Những nguyên tắc hướng dẫn hành động này thật khá mới mẻ và còn xa lạ với nhiều tín hữu Kitô vì nhiều người chưa biết đến chúng và chưa biết áp dụng chúng vào đời sống thường ngày của mình như thế nào.

4. Bốn nguyên tắc căn bản để xây dựng xã hội

Các nhà xã hội, các nhà quản lý kinh tế, ngay cả các tôn giáo, đã đề ra một số những nguyên tắc sống và hành động. Thí dụ: “12 nguyên tắc sống bạn bên đọc ít là một lần trong đời”[17]; “20 nguyên tắc sống bạn cần nhớ để sống một đời không hối tiếc”[18]; “13 nguyên tắc của cuộc sống”[19]; “12 quy tắc quan trọng để sống như thiền sư”[20]; “12 quy tắc căn bản để sống an lạc như một thiền sư”[21]… Rất nhiều bài viết tương tự như thế để hướng dẫn con người làm chủ hành động của mình nhằm phát triển cộng đồng xã hội và giúp cho con người được bình an, hạnh phúc. Tuy nhiên, chưa có tôn giáo nào, hay khoa học quản lý nhân sự nào dạy về 4 nguyên tắc căn bản của HTXHCG. Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu chúng với những thí dụ cụ thể để minh hoạ cho dễ tiếp thu.

4.1. Nguyên tắc nhân vị[22]

Nguyên tắc này là “nền tảng của tất cả các nguyên tắc khác, đồng thời cũng là nội dung của HTXHCG”[23]. Trong mọi hành động, “con người, nam cũng như nữ, là hình ảnh sống động của Thiên Chúa. Hình ảnh này mỗi ngày được triển khai thêm một cách trọn vẹn và sâu sắc hơn, nơi mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô, hình ảnh tuyệt hảo của Thiên Chúa, Đấng duy nhất đã mạc khải Thiên Chúa cho con người và mạc khải con người cho chính con người”[24]. Vì thế, mọi chủ thể hành động được mời gọi nhìn nhận mỗi người, như đối tượng của hành động, dù gần hay xa, quen hay lạ, nhất là những người nghèo và đau khổ, là anh chị em của mình, những người “mà Đức Giêsu Kitô đã chết cho họ”[25].

Nguyên tắc nhân vị này đòi hỏi chúng ta nhận ra Thiên Chúa là nguồn mọi hiện hữu của con người, để con người gắn bó với chính Thiên Chúa như một quan hệ “tự thân”[26], cũng như diễn tả sự gắn bó trong các mối quan hệ với người khác và vũ trụ vạn vật. Vì được gắn bó mật thiết với Thiên Chúa, nên con người không thể cho phép mình có những hành động bất xứng với Thiên Chúa, Đấng đang ở trong họ, như suy nghĩ những điều dâm đãng, có những ước muốn dâm đãng, tham lam, xấu xa, những cảm xúc, cảm tình tiêu cực… dù đó chỉ là hành động trong tâm trí chứ chưa thể hiện ra bên ngoài.

Do đó, chúng ta hiểu Đức Giêsu yêu cầu sự trong sạch cả trong tâm trí khi dạy: “Anh em đã nghe luật dạy rằng: chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5,27-28). Con người cũng không thể nhân danh bản năng để thực hiện những hành động gây thiệt hại cho mình hay cho người khác. Thí dụ: thủ dâm để tự thoả mãn những dồn nén sinh lý, uống bia rượu quá mức, sử dụng ma tuý và các chất kích thích khác, xem những phim ảnh đồi truỵ… vì những bản năng này của con người phải được điều khiển bởi lý trí và ý chí con người qua lương tâm mách bảo và cả ơn Chúa giúp đỡ[27]. Vì thế, con người không thể biện minh cho những hành động chiều theo bản năng của mình.

Vì mối quan hệt thân tình với người khác như anh chị em ruột có chung một người Cha Trên Trời, nên con người phải tôn trọng người khác: sự sống, danh dự và mọi thứ thuộc quyền sở hữu của họ[28], nhất là “mạng sống con người là linh thiêng và bất khả xâm phạm” vì chỉ Thiên Chúa mới là chủ tể sự sống và sự chết[29]. Do đó, con người không phải chỉ không được giết người (x. Xh 20,13; Đnl 5,17) nhưng còn phải yêu thương người thân cận như chính mình (Lv 19,18) và Đức Giêsu còn đòi buộc phải chăm lo các nhu cầu của người khác (x. Mt 22,37-40; Mc 12,29-31; Lc 10,27-28) vì khi làm những hành động tốt đẹp cho những người hèn kém nhất là ta làm cho chính Đức Kitô (x. Mt 25,40).

Trong mối quan hệ với vũ trụ vạn vật như một nhân vị, con người cũng thấy mình hiện diện với tất cả các thụ tạo khác được Chúa giao phó cho con người. Con người được quyền hưởng dùng chúng nhưng không được tuỳ tiện khai thác thế giới cách ích kỷ[30].

Thí dụ cụ thể về nguyên tắc nhân vị: một người bán dưa muối ở một chợ hiểu rằng họ phải muối dưa bằng cách nào đó cho an toàn. Một người đánh cá không được phép dùng những hoá chất độc hại ướp vào cá hoặc một nhà chăn nuôi không được dùng các hoá chất tăng trưởng độc hại. Nếu họ biết hàng hoá mình không an toàn mà vẫn cứ bán ra thị trường là họ đã phạm tội nặng nề với Chúa, với anh em, với vạn vật, dù pháp luật chưa hay không biết để truy tố họ. Những nhà sản xuất các phim ảnh đồi truỵ, những người thông tin sai lạc cũng vi phạm nguyên tắc nhân vị khi làm thiệt hại tinh thần của con người. Mức độ tội lỗi nặng nề hơn khi có nhiều người bị ảnh hưởng bởi hành động của họ.

4.2. Nguyên tắc công ích[31]

Nguyên tắc này liên quan đến mục đích hay ý hướng của chủ thể nhắm đến khi thực hiện một hành động xã hội. Thí dụ: việc bán dưa muối nhắm mục đích kiếm tiền lời để nuôi sống bản thân, phục vụ những người thích ăn món dưa muối, tạo nên sự ngon miệng và sức khoẻ thể lý cho người tiêu dùng; việc Nhà nước xuất khẩu gạo sang nước khác để tạo công ăn việc làm cho nông dân, thúc đẩy nền kinh tế nông nghiệp, giao hảo với dân tộc mua gạo…

Như thế, một hành động có thể có nhiều ý hướng và mục đích. Ý hướng càng rộng, mục đích càng cao, thì hành động xã hội càng có giá trị, và ngược lại. Thí dụ: một người bán dưa muối chỉ để kiếm tiền nuôi sống, không cần biết đến những điều gì khác do tầm nhận thức của họ hẹp hòi. Vì thế cần phải giáo dục, tuyên truyền sao cho người dân mở mang tâm trí thì họ mới những hành động tốt đẹp, liêm chính nhắm tới ích lợi chung, hay công ích.

Vậy công ích là gì?

Công ích là toàn bộ những điều kiện của đời sống xã hội cho phép con người, tập thể hay cá nhân, đạt tới sự phát triển của mình cách đầy đủ và dễ dàng hơn[32]. Con người không thể tìm được sự phát triển mỹ mãn nơi chính bản thân mình, nếu con người không nhận ra mình hiện hữu “với” người khác và “vì” người khác. Sự thật này thúc đẩy con người đi tìm, không phải chỉ trong ý tưởng mà còn trong thực tế của đời sống, điều tốt hay ích lợi cho chính mình hay cho tổ chức xã hội, từ cấp địa phương đến cấp quốc gia và quốc tế[33].

Những yêu cầu của công ích tuỳ thuộc vào điều kiện xã hội của mỗi giai đoạn lịch sử và liên hệ chặt chẽ với việc tôn trọng và thăng tiến con người toàn diện cũng như các quyền căn bản của con người[34]. Thí dụ: dấn thân xây dựng hoà bình, tổ chức các cơ quan quyền lực quốc gia, xây dựng hệ thống tư pháp lành mạnh, bảo vệ môi trường sống cho trong sạch, cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho con người: lương thực, nhà ở, việc làm, giáo dục, văn hoá, nhân quyền, sức khoẻ, tự do tôn giáo… Nếu một hành động nhằm đạt nhiều yêu cầu của công ích thì hành động đó càng có giá trị. Thí dụ: sáng tác một tiểu thuyết cổ vũ hoà bình, bình đẳng giới, xây dựng hạnh phúc gia đình, chống lại các bất công trong xã hội…

Tuy nhiên, người ta không thể nhân danh một số công ích này để loại bỏ một số công ích khác, ủng hộ lợi ích của một số người giàu và chối bỏ lợi ích của đa số người nghèo (như chủ trương hành động của một số đảng phái trong các nước dân chủ hiện nay). Nhiều người đồng hoá ích lợi riêng tư của phe nhóm, đảng phái hay của chính quốc gia mình với công ích.

Công ích của xã hội không phải là một mục tiêu tự thân. Nó chỉ có giá trị khi có liên quan tới việc thực hiện các mục tiêu tối hậu của con người và ích lợi chung của toàn thể thụ tạo – Thiên Chúa là mục tiêu tối hậu của các thụ tạo do Ngài dựng nên. Vì thế, không thể vì bất cứ lý do gì mà công ích mất đi chiều hướng siêu việt, tức là chiều hướng vừa vượt lên trên lịch sử vừa hoàn thành lịch sử của mình[35]. Lịch sử của chúng ta, nghĩa là mọi nỗ lực hành động của cá nhân và tập thể để nâng cao thân phận con người đều bắt đầu và kết thúc với Đức Giêsu Kitô. Chính nhờ Người, chúng ta đạt tới sự thiện tối thượng, tới mức thành toàn của công ích là trở thành con cái Thiên Chúa, thành Thiên Chúa giống như Người. Vì thế không thể nhân danh những công ích mà chối bỏ Thiên Chúa, chối bỏ quyền tự do tôn giáo của con người.

Trong cuộc chạy đua đi tìm công ích, nhiều thể xã hội, nhiều quốc gia hay những tập đoàn đa quốc gia đang cố chiếm giữ cho mình thật nhiều của cải vật chất, những tài nguyên thiên nhiên (dầu mỏ, đất hiếm), mở rộng lãnh thổ (trên biển, trên các vùng Bắc cực, Nam cực và cả trong không gian với các vũ khí bắn hạ các vệ tinh…). Những tham vọng này, tuy nhân danh công ích của quốc gia hay toàn cầu, nhưng chỉ đem lại những hứa hẹn hão huyền, thúc đẩy và cám dỗ nhiều người đi vào con đường lầm lạc, đánh mất sự phát triển toàn diện cũng như dẫn nhiều dân tộc đến các xung đột và chiến tranh..

Vì thế, HTXHCG giới thiệu nguyên tắc mục tiêu phổ quát của của cải và sự chọn lựa ưu tiên dành cho người nghèo[36]. Lý do là vì Thiên Chúa đã dựng nên trái đất và tất cả những gì trái đất chứa đựng để ban chung cho mọi người và mọi dân tộc chứ không ban riêng cho ai. Vì thế, nguồn lợi của trái đất phải được chia sẻ cách tương xứng cho hết mọi người và được điều tiết bởi bác ái[37]. Do đó, nếu một số người có nhiều hơn mức tài sản cần để sinh sống trong khi những người khác thiếu cả những thứ cơ bản để duy trì sự sống, thì những người có của không phải chỉ tỏ lòng bác ái mà buộc phải giúp đỡ những người nghèo theo lẽ công bằng[38].

4.3. Nguyên tắc bổ trợ[39]

Bổ trợ là một trong những nguyên tắc bền vững và đặc thù nhất của HTXHCG và đã có mặt ngay từ trong văn kiện xã hội đầu tiên[40] và được hình thành trong thông điệp Quadragesimo Anno của ĐGH Piô XI. Nhờ có sáng kiến và sự chuyện cần, các cá nhân đã kết hợp thành những tập thể dân sự như gia đình, đoàn thể, hiệp hội thuộc đủ mọi lĩnh vực như kinh tế, chính trị, nghề nghiệp, xã hội, văn hoá, thể thao, giải trí để giúp họ thực hiện việc tăng trưởng xã hội. Tuy nhiên, một số chính quyền đã muốn tập trung quyền hành về trung ương và làm thay tất cả những công việc mà những cá nhân và tổ chức xã hội cấp nhỏ hơn có thể làm được.

Trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, dịch vụ, nhờ có số vốn lớn, nhờ có nhiều tư liệu sản xuất, nhờ quảng cáo rộng rãi và có khi nhờ liên kết với các thế lực và cả chính quyền, nhiều tập đoàn càng ngày càng mạnh, thâu tóm các thị trường khiến cho các công ty và những nhà sản xuất nhỏ không thể cạnh tranh. Các tập đoàn nàytrở thành các tập đoàn độc quyền dẫn đến sự thao túng về giá cả, làm thiệt hại cho người tiêu dùng.

Vì thế HTXHCG nêu lên nguyên tắc bổ trợ sau đây: mọi xã hội thuộc trật tự cao hơn phải có thái độ trân trọng giúp đỡ – tức là hỗ trợ, đẩy mạnh, phát triển – các xã hội thuộc trật tự thấp hơn. Nhờ nguyên tắc này, dân chúng có thể được bảo vệ khỏi sự lạm quyền của chính quyền cấp cao hơn, chủ động tham gia vào mọi lĩnh vực một cách sáng tạo và thích ứng với những đòi hỏi của hoàn cảnh địa phương. Muốn cho có sự tham gia tích cực của tư nhân, cần phải gây ý thức, khuyến khích các sáng kiến, cổ vũ các tổ chức tư nhân phục vụ công ích, bảo vệ nhân quyền và quyền lợi của các nhóm thiểu số, dẹp bỏ tình trạng trung ương tập quyền về hành chính và bàn giấy, tạo thế cân bằng giữa khu vực công cộng và khu vực tư nhân.

4.4. Nguyên tắc liên đới[41]

Nhờ các phương tiện truyền thông xã hội và các mạng xã hội toàn cầu, con người ngày nay càng ngày càng ý thức mình liên đới với mọi người, bình đẳng với mọi người về phẩm giá và quyền lợi, cùng đi chung với nhau trên con đường ý thức về sự phát triển bền vững và hạnh phúc viên mãn. Thí dụ: một trận bóng đá cúp thế giới có hàng tỉ người cùng xem. Một sự kiện như 39 người Việt chết trong thùng container được tìm thấy ở Gray, hạt Essex, Anh quốc, ngày 23/10/2019 làm rúng động thế giới. Sự liên kết này làm nổi bật bản tính xã hội nội tại của con người.

Tuy nhiên, trước hiện tượng lệ thuộc vào nhau và bành trướng các phương tiện truyền thông, khắp nơi trên thế giới người ta vẫn còn thấy sự bất bình đẳng sâu sắc giữa các nước đã phát triển và các nước đang phát triển, những hình thức bất công, bóc lột, tham nhũng, đàn áp của những tập đoàn đa quốc gia, những tổ chức xã hội đen chuyên buôn người, buôn bán ma tuý, buôn bán nội tạng. Ngoài ra, các tổ chức khủng bố tôn giáo cực đoan, những hành động của vài nước cậy mạnh đàn áp công khai các nước yếu kém, mà các nước khác vì quyền lợi ăn chia, chỉ phản đối bằng những lời nói suông bên ngoài, chứ không thể hiện thật sự tình liên đới bằng những hành động cụ thể, vẫn còn diễn ra hằng ngày.

Vì thế, sự liên đới cần phải trở thành một thực tế trong lĩnh vực đời sống cộng đồng như một nguyên tắc xã hội phải tuân theo, mà hơn thế nữa còn là nhân đức luân lý thật sự chi phối đời sống con người.

Liên đới là nguyên tắc xã hội[42]. Nó không phải là một cảm xúc mơ hồ hay đau buồn hời hợt trước nỗi bất hạnh mà một số người gần xa phải chịu, nhưng là một quyết tâm chắc chắn và kiên định muốn dấn thân lo cho công ích, nghĩa là lo cho ích lợi của mọi người và mỗi người, vì tất cả chúng ta đều phải chịu trách nhiệm về tất cả mọi người[43].

Liên đới còn là một đức tính luân lý nằm trong phạm vi công bằng vì thúc đẩy con người phải dấn thân lo cho ích lợi của người thân cận tới mức sẵn sàng liều mất bản thân mình như Đức Giêsu Kitô, thay vì khai thác, áp bức người khác vì ích lợi riêng[44]. Đây là điểm tột cùng của tình yêu và tình liên đới để có thể xây dựng được nền văn minh tình yêu. Sự hy sinh của ta được Thiên Chúa là nguồn sống nhìn thấu để ban cho ta sự sống kỳ diệu của Ngài.

Lời kết

Bốn nguyên tắc căn bản hướng dẫn hành động không phải là những quy tắc ứng xử để chúng ta thỉnh thoảng lôi ra ôn lại và áp dụng trong đời sống khi cần giải quyết một vài trường hợp khó khăn điển hình nào đó. Nhưng đây là những nguyên tắc sống áp dụng hằng ngày cho bất cứ hành vi nào của con người. Càng áp dụng nhuần nhuyễn, chúng ta càng biết rõ mình đang hành động theo đúng lương tâm ngay chính, phù hợp với chân thiện mỹ và xây dựng được một xã hội công bằng, tốt đẹp, yêu thương và hạnh phúc.

———————————————————

Câu hỏi

1. Bạn đã phân biệt những loại hành động, hành vi nào khiến con người phải chịu trách nhiệm luân lý?

2. Trong 4 nguyên tắc hướng dẫn hành động, bạn nghĩ người Việt Nam ít quan tâm đến nguyên tắc nào? Tại sao?

3. Liên đới là một nhân đức xã hội cần phải luyện tập để có được nó, nhưng bạn đã luyện tập như thế nào?

4. Tại sao ta lại phải hy sinh mạng sống cho một người không quen biết như thánh Maximilianô Kolbe?

———————————————————

Chú thích:

  1. x. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2013, mục từ Hành động, tr.548.

  2. x. Nguyễn Đình Diễn, Từ điển Công giáo Anh-Việt, 2014, tr.40,42.

  3. x. Uỷ ban Giáo lý Đức tin, Từ điển Công giáo, NXB Tôn Giáo, 2019, tr.375.

  4. x. Uỷ ban Giáo lý Đức tin, Giáo lý Hội Thánh Công giáo, NXB Tôn Giáo, 2010, số 1749-1754.

  5. x. Youcat, số 288.

  6. x. Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo Biên soạn, Từ điển Bách khoa Việt Nam, NXB Từ điển Bách khoa – Hà Nội, 2002, tr. 215-218.

  7. x. Báo Thanh Niên, ngày 2/10/2019, tr.1-2.

  8. x. Tóm lược HTXHCG, số 34, 108-109.

  9. x. Uỷ ban Giáo lý Đức tin, Giáo lý Hội Thánh Công giáo, NXB Tôn Giáo, 2010, số 404.

  10. x. Tóm lược HTXHCG, số 115.

  11. x. Tóm lược HTXHCG, số 116.

  12. x. Tóm lược HTXHCG, số 117.

  13. x. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2013, mục từ Hành động, tr.548.

  14. x. Tóm lược HTXHCG, số 171-184.

  15. x. Chủ nghĩa Cộng sản, Internet, Wikipedia.

  16. x. Tóm lược HTXHCG, số 160-162.

  17. x. Nguyễn Trường, Tri thức trẻ, kenh.vn, ngày 25/5/2016.

  18. x. Internet, ngày 30/9/2017.

  19. x. Internet, ngày 3/10/2017.

  20. x. Internet, ngày 15/12/2017.

  21. x. Internet, ngày 25/4/2019.

  22. x. Tóm lược HTXHCG, số 105-159; Docat, số 47-83.

  23. x. Tóm lược HTXHCG, số 160.

  24. x. Tóm lược LHTXHCG, số 105.

  25. x. 1Cr 8,11; Rm 14,15; GLHTCG, số 1931.

  26. x. Tóm lược HTXHCG, số 108-109.

  27. x. Tóm lược HTXHCG, số 114.

  28. x. Tóm lược HTXHCG, số 110.

  29. x. CĐ. Vat. II, Gaudium et Spes, số 27; x. GLHTCG, số 2259-2261.

  30. x. Tóm lược HTXHCG, số 114.

  31. x. Tóm lược HTXHCG, số 164-184; Docat, số 87-94.

  32. x. CĐ. Vat. II, Gaudium et Spes, số 26.

  33. x. GLHTCG, số 1912; ĐGH Gioan XXIII, Thông điệp Pacem in Terris, số 55.

  34. x. GLHTCG, số 1907.

  35. x. ĐGH Giaon Phaolô II, Thông điệp Centesimus Annus, số 41.

  36. x. Tóm lược HTXHCG, số 171-184.

  37. x. Tóm lược HTXHCG, số 171; CĐ Vat.II, Gaudium et Spes, số 69.

  38. x. Tóm lược HTXHCG, số 184; Docat, số 89.

  39. x. Tóm lược HTXHCG, số 185-188; Docat, số 95-99.

  40. x. ĐGH Lêô XIII, Thông điệp Rerum Novarum 1892, số 101-102, 123.

  41. x. Tóm lược HTXHCG, số 192-196; Docat, số 100-103.

  42. x. GLHTCG, số 1939-1941.

  43. x. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis, số 36,37.

  44. x. Mt 10,40-42; 20,25; Mc 10,42-45; Lc 22,25-27; ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis, số 38; Thông điệp Laborem Exercens, số 8; Thông điệp Centesimus Annus, số 57.

Hướng tới sự trưởng thành toàn diện
Bài 9: Cuộc hội nhập văn hoá trong lịch sử dân tộc Việt Nam

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
Tài liệu tĩnh tâm – 3/2020

Lời mở

Văn hoá của một dân tộc là kết tinh của nhiều nền văn hoá trong suốt dòng lịch sử của dân tộc đó. Rồi khi nhiều người đón nhận những giá trị mới qua cuộc hội nhập văn hoá, họ lại tạo nên một nền văn hoá mới để truyền lại cho thế hệ mai sau. Từ đó, mỗi người chúng ta, tuỳ theo các hoàn cảnh và môi trường, hình thành nên các giá trị vật chất cũng như tinh thần cho chính bản thân mình.

Từ trước đến nay, chưa có nhiều người tìm hiểu về những giá trị của các nền văn hoá khác nhau đã hội nhập và kết tinh thành nền văn hoá Việt Nam hiện nay như thế nào. Vì thế, qua bài này, chúng ta muốn tìm hiểu cách khái quát cuộc hội nhập của văn hoá trong dòng lịch sử dân tộc Việt Nam để có thể xây dựng những giá trị mới và đẩy lùi những nét tiêu cực có thể có trong cuộc hội nhập này khi so sánh với nền văn hoá toàn diện và liên đới của đạo Công giáo mà chúng ta tìm hiểu ở bài trước. Chúng ta tạm chia lịch sử văn hoá dân tộc Việt Nam thành 4 thời kỳ.

1. Thời kỳ đầu tiên từ đời vua Hùng đến năm 111 TCN

1.1. Văn hoá thị tộc

Trên đất nước Việt Nam hiện nay, các nhà khảo cổ học phát hiện những di tích và hoá thạch người “Homo erectus” khoảng 500.000 năm thuộc thời Đồ Đá Cũ[1]. Người Hiện đại “Homo sapiens” biết suy tư xuất hiện cách đây khoảng 195.000 năm rồi rời khởi Đông Phi cách đây khoảng 50.000-80.000 năm để di chuyển dọc theo bờ Ấn Độ Dương đến Indonesia và cả Australia[2]. Cách đây khoảng 4.000 năm đến 5.000 năm, các lớp cư dân nguyên thuỷ từ miền đồi núi tiến xuống khai phá các vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, sông Cửu Long và các đồng bằng ven biển, phát triển nền nông nghiệp lúa nước. Nền văn hoá bộ tộc thiểu số trải dài trên những núi đồi chuyển thành nền văn hoá làng xã với những ruộng vườn cố định.

Thời kỳ Hồng Bàng, theo truyền thuyết và dã sử, bắt đầu từ năm 2879 TCN cho đến năm 258 TCN với 18 đời Vua Hùng[3]. Từ đầu thiên niên kỷ II TCN, Việt Nam bước vào thời đại kim khí, từ đồ đồng đến đồ sắt. Đời sống hoang dã, săn bắt, ở trong hang núi hay trong các nhà sàn, sống theo gia tộc được thay thế bằng đời sống ổn định, canh tác ruộng vườn, chăn nuôi gia súc, với những quy luật của làng xã. Các quận lớn hình thành nên các trung tâm văn hoá, có chính quyền trung ương là Nhà nước Quân chủ với các vua Hùng ở miền Bắc trong thời đại Hồng Bàng. Đó là văn hoá Đông Sơn với nhà nước Văn Lang-Âu Lạc, văn hoá Sa Huỳnh với nhà nước Champa ở miền Trung và văn hoá Óc Eo với nhà nước Phù Nam ở miền Nam. Ba dòng văn hoá này đã dần dần giao lưu và hội nhập vào nhau tạo thành văn hoá nguyên thuỷ của Việt Nam.

Năm 258 TCN, Thục Phán, thủ lĩnh của người Âu Việt, ở phía Bắc nước Văn Lang, hợp nhất với nước Văn Lang của người Lạc Việt, xưng là An Dương Vương, đặt quốc hiệu là Âu Lạc, đóng đô tại Cổ Loa, nay là Đông Anh, Hà Nội. Năm 218 TCN, Tần Thuỷ Hoàng huy động 50 vạn quân, sai danh tướng là Đỗ Thư đi chinh phục Bách Việt. Các lạc tướng của người Việt, do Thục Phán lãnh đạo, sau 10 năm bền bỉ kháng chiến theo kiểu chiến tranh du kích, đã bắn chết tướng Đỗ Thư và chiến thắng quân Tần. Sau đó An Dương Vương xây thành Cổ Loa.

văn hoa 1 Văn hoá thị tộc là nền văn hoá cơ sở của xã hội nguyên thuỷ, bao gồm nhiều gia đình lớn, có cùng một tổ tiên và có nền kinh tế chung: có chung tư liệu sản xuất, lao động tập thể và hưởng chung thành quả lao động. Các thị tộc của người Bách Việt sống theo tổ chức xã hội này. Hạt nhân của chế độ công xã nguyên thuỷ này là thị tộc mẫu quyền, được gặp thấy trong cả 3 nền văn hoá Bắc Trung Nam, cho đến khi người Việt sống dưới chế độ Bắc thuộc mới đổi sang chế độ phụ quyền. Nền văn hoá thị tộc ngoài việc đề cao sức mạnh cơ bắp để lao động kiếm ăn, còn mang đặc tính đề cao sự sinh sản để bảo tồn thị tộc, do đó ta thấy người Việt cả 3 miền đều có tín ngưỡng phồn thực, thờ sinh thực khí (linga và yoni) và thờ hành vi giao phối[4].

Văn hoá thị tộc theo mẫu quyền còn nổi bật với tín ngưỡng thờ thần Mẫu. Các vị thần ở Việt Nam chủ yếu là nữ giới. Đạo Mẫu này càng phát triển hơn trong nền văn hoá nông nghiệp (các bà thần Mây, Mưa, Sấm chớp), sau này hoà nhập cả với đạo Lão và đạo Phật du nhập từ Trung Hoa (với Tứ Pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện). Các vị thần Mẫu được nhiều nơi tôn kính: Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Thánh Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải ở miền Bắc; Tứ Vị Thánh Nương, Bà Ngũ Hành, Thiên Y A Na ở miền Trung; Bà Chúa Động, Bà Chúa Xứ, Bà Đen ở miền Nam. Ngày 1/12/2016, tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể, đại diện của nhân loại[5].

vh- thờ thần mẫu

1.2. Nền văn hoá Nông nghiệp

Trong khi những bộ tộc người Việt ở vùng núi còn giữ nét văn hoá thị tộc thì những người Việt ở vùng đồng bằng hình thành nên nền văn hoá nông nghiệp với một số giá trị mới. Nền văn hoá này tồn tại hầu như trong suốt dòng lịch sử dân tộc bao lâu đa số dân tộc Việt còn theo nghề nông. Tuy nhiên, nó đã được chuyển hoá và biến đổi sâu sắc từ năm 1945, khi làn sóng đô thị hoá và những ý thức hệ mới tràn vào nước ta.

Có nhiều học giả nghiên cứu về nền văn hoá nông nghiệp lúa nước vùng Đông Nam Á ở phương Đông đã so sánh với nền văn hoá du mục của các nước Âu Mỹ ở phương Tây và trình bày tính đối cực giữa hai nền văn hoá[6]. Thật ra, sự so sánh này mang tính chất gò ép, thiếu tự nhiên. Lý do là những nhà nghiên cứu này bỏ qua giai đoạn văn hoá thị tộc nguyên thuỷ, khi con người còn mông muội, tôn thờ các thế lực thiên nhiên và theo chế độ mẫu hệ. Hơn nữa, kể từ khi con người thuần hoá được các giống lúa mì và lúa gạo, vào khoảng 3500-3000 năm TCN, thì cả phương Tây lẫn phương Đông đều sống theo văn hoá nông nghiệp. Cuối cùng, nếu có dịp sang các nước phương Tây, ta sẽ thấy vùng đất dành cho việc chăn nuôi với những đồng cỏ chỉ chiếm phần diện tích rất nhỏ so với các vùng trồng lúa mì và các nông sản khác.

vh 23 - lua nuoc

Những giá trị của nền văn hoá nông nghiệp:

– Trọng tĩnh: nghề trồng trọt buộc con người sống định cư, chờ một thời gian lâu để cây trồng sinh hoa, kết trái và thu hoạch, nên con người trọng đời sống an tĩnh (an cư lạc nghiệp), nhà cửa ổn định, không thích di chuyển.

– Hoà hợp với thiên nhiên: nghề trồng trọt phụ thuộc hầu như hoàn toàn vào thiên nhiên (mưa thuận, gió hoà, mưa nắng nhờ Trời) nên con người tôn thờ các sức mạnh thiên nhiên, rút ra nhiều kinh nghiệm từ thiên nhiên (được mùa lúa, úa mùa cau; nhiều nắng tốt dưa, nhiều mưa tốt lúa)…

vh - le cau mua H're vh - le cau mua Thái vh - le cau mua Jrai

– Trọng đức, trọng tình, trọng nghĩa, trọng văn: do sống chung với nhau thành từng làng, trong một không gian tương đối hẹp, có luỹ tre bao bọc cũng như cùng làm việc chung với nhau, đổi công cho nhau, nên cộng đồng trọng những người có đức hạnh, có tình nghĩa để bảo đảm cho đời sống chung được tốt đẹp. Nhờ sống gần nhau, dễ dàng bảo vệ lẫn nhau nên người ta trọng những nét đẹp của văn hoá hơn võ thuật, tài trí. So với những dân tộc sống theo kiểu du mục: từng gia đình sống riêng rẽ, để đưa đoàn gia súc của mình đi từ đồng cỏ này sang đồi núi khác, hằng ngày phải đối mặt với thú dữ, bất kể thời tiết nắng mưa, sống thế nào cũng không bị ai kết án nên người dân du mục trọng võ, trọng tài, trọng lý, trọng vật.

Thật ra, những giá trị của văn võ, tài đức, lý tình, nghĩa vật đều lệ thuộc vào nhận thức của con người về giá trị của chúng. Khi có một nhận thức đầy đủ và toàn diện về nền văn hoá, người ta sẽ thấy cần phải văn võ song toàn, tài đức trổi vượt, tình lý trọn vẹn, nghĩa vật cân bằng.

– Ứng xử linh hoạt và khoan dung: do không thể chống lại thiên nhiên và cộng đồng bằng sức mạnh cá nhân và tài trí, nên người theo văn hoá nông nghiệp thường ứng xử linh hoạt (ở bầu thì tròn, ở ống thì dài), dễ bị hùa theo đám đông (xấu đều hơn tốt lỏi), âm thầm chịu đựng những chướng ngại vật trên đời (tránh voi chẳng xấu mặt nào), nhẫn nại làm việc và hy vọng sẽ qua được cơn hoạn nạn, thiên tai (ngày mai trời lại sáng).

vh - vo to chuc – Văn hoá nông nghiệp dễ tiếp nhận sự khác biệt của các ý thức hệ, các tôn giáo như đã quen chịu đựng nắng mưa, bão lụt của trời đất. Nhưng thái độ linh hoạt này lại có thể dẫn đến thái độ ứng xử ba phải (cái gì cũng đúng), thiếu chính xác trong giờ giấc vì đã quen hành động theo con nước hay theo mùa mỗi năm, đối xử với nhau theo tình cảm nên thiếu khách quan, thiếu nguyên tắc trong tổ chức, thiếu tôn trọng pháp luật (một bồ cái lý không bằng một tí cái tình; yêu nhau cau bảy bổ ba, ghét nhau cau bảy bổ ra làm mười; yêu nhau yêu cả đường đi, ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng).

2. Văn hoá thời kỳ Bắc thuộc (111 TCN-938)

2.1. Lịch sử

Năm 179 TCN, nước Âu Lạc do An Dương Vương lập nên bị Triệu Đà, vua nước Nam Việt xâm chiếm, rồi bị nhà Hán độ hộ từ năm 111 TCN cho đến khi Ngô Quyền thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938 và lập chủ quyền cho đất nước.

Người Việt liên kết với nhau trong các cộng đồng làng xã, bảo tồn tiếng Việt và các phong tục trong cộng đồng (phép vua thua lệ làng), chống lại các chính sách đồng hoá của người Trung Quốc. Nhưng người Việt cũng biết mở lòng, mở trí đón nhận những giá trị mới mẻ của nền văn hoá phương Bắc để làm giàu nền văn hoá bản địa, tăng thêm tiềm lực cho đất nước và dự trữ sức mạnh cho những cuộc khởi nghĩa sau này.

Đó là các cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (năm 40), Bà Triệu (năm 248), Lý Bí (năm 542), Mai Thúc Loan (năm 720), Phùng Hưng (766-791) cuối thế kỷ VIII. Cuối thế kỷ II, nhân dân Chămpa cũng khởi nghĩa thành công lập nên vương quốc Chămpa độc lập. Đầu thế kỷ X, cuộc đấu tranh của người Việt dẫn đến việc thành lập chính quyền tự chủ của Khúc Thừa Dụ (905-930), Dương Diên Nghệ (931-937) và kết thúc bằng chiến thắng của Ngô Quyền mở ra thời kỳ độc lập, phục hưng dân tộc.

ban do thoi ky bac thuoc

Chính quyền Trung Quốc đưa sang Việt Nam một số quan lại, đứng đầu là Thái thú do hoàng đế bổ nhiệm, mang theo gia đình đến sống ở Việt Nam và một số binh lính, đứng đầu là Đô uý, để ổn định trật tự xã hội. Thái thú và quan lại có nhiệm vụ thu thuế và thu nạp các cống phẩm của địa phương, thường là sản vật quý, để dâng nộp về triều đình trung ương theo các hạn định được giao. Các thương nhân người Trung Quốc đi theo đoàn quân để mua những sản vật quý hiếm và bán các sản phẩm của Trung Quốc, đặc biệt là tơ lụa, giấy mực, bàn tính, thuốc Bắc chữa bệnh và các sản phẩm thủ công mỹ nghệ cho người giàu có ở Việt Nam. Nhiều nhà sư Trung quốc sang tìm những nơi an tĩnh để tu luyện và truyền đạo cho dân chúng.

Những người Trung Hoa này giới thiệu nền văn hoá Trung Quốc cho người Việt. Nhưng hầu như họ chỉ tiếp xúc được với những người giàu sang, quyền quý chứ ít ảnh hưởng được đến quần chúng nông thôn. Một số người Việt học chữ Hán để làm thông ngôn cho người Trung Hoa hoặc ra làm các nhân viên hành chính, thư lại trong tổ chức chính quyền, nhưng họ lại bị dân chúng khinh bỉ, cho là làm tay sai cho kẻ thù. Chính vì người Việt muốn bảo tồn nòi giống nên hầu như không lập gia đình với người Tàu.

2.2. Văn hoá nông nghiệp với tinh thần phản kháng

Người Việt giữ nguyên những nét căn bản của nền văn hoá nông nghiệp vì hầu hết vẫn sinh sống trong những làng xã và hành nghề nông với đời sống tự cung, tự cấp. Với ý thức phản kháng người Trung Quốc, người Việt vẫn giữ cách ăn mặc, nói năng của mình.

– Tổ chức gia đình và xã hội có sự thay đổi lớn: văn hoá dần dần nghiêng về chế độ phụ hệ, người cha là rường cột trong gia đình, gia đình trọng nam khinh nữ, xã hội theo chế độ đa thê cho phép người đàn ông có nhiều thê thiếp. Xã hội nông nghiệp cần nhiều nhân công để lao động, nên dễ dàng đón nhận các giá trị văn hoá mới này.

– Thái độ ứng xử cá nhân: chính quyền dùng chính sách chia để trị, nên gây chia rẽ giữa các địa phương, dòng họ, cá nhân với nhau khiến người Việt thường nghi ngờ, ngại ngùng với người lạ, không dám bày tỏ hay đóng góp ý kiến của mình, im lặng trước bất công khiến người khác tưởng lầm họ là kẻ đồng loã, thường tỏ thái độ bên ngoài hoà hoãn, chịu đựng, nhưng bên trong chỉ muốn ăn tươi, nuốt sống quân thù. Họ có thói quen giả vờ đồng thuận, không nói thật lòng mình, nói xấu kẻ thù vắng mặt, bao che cho đồng bào trước nỗi bất công, cùng giúp nhau lấy cắp của công vì tất cả tài sản công đều do chính tay họ làm ra. Họ thường tỏ vẻ chăm chỉ làm việc trước mắt kẻ xâm lược, nhưng khi kẻ thù quay lưng là họ ngưng làm hay chỉ làm việc cầm chừng vì không muốn làm lợi cho kẻ thù.

Nét văn hoá ứng xử này trải qua hàng ngàn năm bị đô hộ đã tạo thành bản sắc của người Việt, nên khi không còn sống dưới ách kẻ xâm lăng, nhiều người Việt vẫn giữ bản sắc đó. Thái độ này cần được sửa sai bằng những nhận thức mới về giá trị con người, về công bằng xã hội, bằng những kỹ năng làm việc chung và hợp tác với nhau vì công ích, và bằng nhận thức về một Thiên Chúa, một ông Trời nhìn thấu mọi sự và xét xử công minh.

vh 22 - nong nghiep lua nuoc

2.3. Đón nhận một số giá trị mới của văn hoá Trung Quốc

vh - chữ Khoa đẩuQua việc tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp với người Trung Quốc, người Việt nhận ra nhiều giá trị mới của văn hoá Trung Quốc.

Trước hết là sức mạnh quân sự với chiến lược, vũ khí, hoả pháo, chiến thuyền khiến người Trung Quốc thắng được Việt Nam. Tiếp theo là chữ viết và văn hoá Trung Quốc trổi vượt so với tiếng Việt còn non trẻ. Chữ Việt lúc đó có thể còn thô sơ như tài liệu các bộ chữ chữ Việt Mường còn chứng minh. Trước khi bị người Trung Quốc đô hộ, nước Văn Lang thời Hùng Vương đã có chữ viết riêng, gọi là chữ Khoa Đẩu, giống hình con nòng nọc[7]. Nhưng sau khi các thái thú Tích Quang (khoảng năm 2-3), Nhâm Diên (khoảng năm 29) dạy văn hoá Khổng Mạnh, dạy dân làm ruộng thay vì săn bắn, dạy nghi lễ cưới gả Trung Hoa cho dân chúng, thì người dân bắt đầu theo văn hoá Trung Quốc. Nhất là sau khi thái thú Mã Viện tận thu các trống đồng (năm 43) thì chữ Việt Cổ hầu như biến mất trong cộng đồng người Việt.

Năm 187 Sĩ Nhiếp được cử giữ chức thái thú quận Giao Chỉ đưa hàng trăm trí thức người Hoa sang dạy chữ Hán cho người Việt[8]. Qua chữ Hán và văn học Trung Quốc, người Việt tiếp thu nhiều hệ thống giá trị mới, được gọi là Tam giáo Đông Phương: Nho, Phật, Lão. Phật giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với quần chúng bình dân vì tôn giáo này phù hợp với hoàn cảnh bị áp bức của dân chúng, giải nghĩa được đau khổ qua định luật nhân quả, luân hồi, tiền kiếp. Nho giáo được phổ biến hạn hẹp hơn trong giới trí thức với Tứ thư Ngũ kinh về các mối tương quan xã hội như tam cương (quân thần, phụ tử, phu phụ), ngũ luân (tam cương cộng thêm 2 mối tương quan mới: huynh đệ, bằng hữu), với ngũ thường (năm đức tính căn bản: nhân nghĩa lễ trí tín), về các cách sống để “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Lão giáo chủ trương hoà nhập với thiên nhiên, giữ lòng thanh tịnh, không cần phải làm gì (vô vi), với những hình thức biến thể phù hợp với tín ngưỡng bản địa thờ thần Mẫu, thờ các vị thần trong thiên nhiên với các hình thức chầu đồng, thẻ xâm… nên cũng phổ biến trong dân chúng.

Tuy nhiên, các giá trị văn hoá mới này bị người Việt nghi ngờ, nhiều làng xã tẩy chay, vì người Việt vẫn ý thức về ý đồ bành trướng, đồng hoá của người Trung Quốc.

3. Văn hoá thời kỳ quân chủ độc lập (938-1945)

3.1. Lịch sử:

Thời kỳ này kéo dài 10 thế kỷ, từ thế kỷ X đến thế kỷ XX, với ba triều đại nhỏ: Ngô (939-965), Đinh (968-979), Tiền Lê (980-1009); 4 triều đại lớn: Lý (1009-1225), Trần (1226-1400), Lê (1428-1788), Nguyễn (1802-1945); xen kẽ với 3 triều đại nhỏ là Hồ (1400-1407), Hậu Trần (1407-1414), Tây Sơn (1788-1802).

Vh- Le Loi Triều Lý dời đô về thành Đại La (Hà Nội) đổi tên là Thăng Long, đặt quốc hiệu là Đại Việt. Người Việt ra sức củng cố nền độc lập bằng việc xây dựng đất nước trên mọi lĩnh vực để trở thành một quốc gia cường thịnh. Người Việt nhiều lần chống lại các cuộc xâm chiếm của người Trung Quốc ở phía Bắc: 2 lần chiến thắng quân Tống (980-981; 1076-1077), 3 lần thắng quân Mông Nguyên (1258, 1285, 1287-1288). Lê Lợi thắng quân Minh sau 10 năm chiến đấu (1418-1427), Quang Trung Nguyễn Huệ đánh bại quân Xiêm (1784-1785) ở phía Nam và đập tan quân Thanh ở phía Bắc (1788-1789).

Từ thế kỷ X đến thế kỷ XV, công cuộc phục hưng dân tộc mở ra một kỷ nguyên mới với nền văn hoá mới mà trung tâm là Thăng Long, Hà Nội. Nhưng từ thế kỷ XVI, chế độ quân chủ tập quyền và quốc gia thống nhất bị khủng hoảng, đất nước bị phân hoá chia thành Nam – Bắc triều, Đàng Ngoài – Đàng Trong với cuộc nội chiến Lê – Mạc (1533-1592), Trịnh – Nguyễn (1627-1772). Tuy nhiên, nền kinh tế và văn hoá vẫn phát triển trong từng vùng, nhất là các cảng biển. Công cuộc mở rộng, khai phá đất nước về phía Nam cho tới đồng bằng sông Cửu Long vẫn được tiến hành.

Từ thế kỷ XVI, quan hệ giao thương với nước ngoài phát triển mạnh, dẫn đến sự phồn vinh của nhiều đô thị, cảng biển. Văn hoá dân tộc phát triển và giao lưu với các nước trong khu vực và một số nước phương Tây như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh, Pháp. Đây cũng là thời kỳ Thiên Chúa giáo bắt đầu được truyền bá tại Việt Nam. Các làng nghề thủ công phát triển ở miền Bắc với nghề ươm tơ tằm, dệt lụa và ở miền Trung, miền Nam với nghề làm đồ gốm. Đây là những sản phẩm để trao đổi với nước ngoài.

vh - det lua vh - do gom tk xvi

Triều đại Tây Sơn, với vua Quang Trung Nguyễn Huệ, có nhiều chính sách cải cách về ruộng đất và văn hoá (coi trọng chữ Nôm) có lợi cho người dân, nhưng chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Chúa Nguyễn Ánh, với sự giúp đỡ của người Pháp, đã đánh bại nhà Tây Sơn, mở đầu triều đại nhà Nguyễn khi lên ngôi vua năm 1802, đóng đô ở Phú Xuân, Huế, đặt quốc hiệu là Việt Nam. Trước sức mạnh quân sự, kỹ thuật vượt trội của phương Tây, triều Nguyễn không có những cải cách để khắc phục tình trạng lạc hậu của đất nước, dùng chính sách bế quan toả cảng và hệ tư tưởng Nho giáo chống lại hệ tư tưởng Thiên Chúa giáo nên dẫn đến cuộc xâm lược của thực dân Pháp (1858-1884) và nước ta rơi vào vòng nô lệ phương Tây (1884-1945).

3.2. Văn hoá

Người Việt vẫn giữ được những nét tiêu biểu của nền văn hoá nông nghiệp lúa nước: trọng tình nghĩa, trọng đức hạnh. Người Việt nhận ra giá trị cao cả, linh thiêng của đất nước vì đã phải trả giá đắt cho nền độc lập và tự do của dân tộc qua các cuộc chiến tranh nên rất có tinh thần ái quốc, chống lại mọi hình thức xâm lược của người Trung Quốc ở phía Bắc và những người Tây phương ở miền Nam. Do phải chịu những cuộc nội chiến từ thế kỷ XVI- XIX, phải đóng sưu cao thuế nặng cho các cuộc nội chiến này nên người Việt thấy đời sống có vẻ tạm bợ, nặng nề, cực khổ và thường có tâm trạng bi quan, thiếu vẻ dấn thân, yêu đời.

vh - Pháp thuộc

Phật giáo chiếm địa vị độc tôn về tín ngưỡng trong dân chúng, nhất là trong 2 triều Lý Trần, với những vị quốc sư như Khuông Việt, Pháp Thuận, Vạn Hạnh… hoặc vua Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông cũng là những nhà Phật học lỗi lạc. Làng nào hầu như cũng có chùa. Chính quyền cũng xây dựng nhiều chùa và phổ biến tư tưởng Phật giáo cho quần chúng. Hoàn cảnh phân hoá và các cuộc nội chiến càng củng cố tư tưởng chủ đạo của Phật giáo cho đời là vô thường, là bể khổ và dạy con người ăn ngay ở lành để được đầu thai vào kiếp sau tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, vì được quần chúng tôn trọng, chính quyền ưu đãi, nên nhiều vị tu hành lại đánh mất tư cách đạo đức. Ca dao Việt Nam còn để lại nhiều lời chê trách các người tu sĩ ấy (Ba cô đội gạo lên Chùa…). Từ triều Lê trở đi, Phật giáo không còn chiếm địa vị độc tôn, dân chúng quay trở về với việc thờ cúng ông bà tổ tiên, đạo Mẫu và thờ các vị Thành Hoàng.

vh - thi cử Khổng giáo hay Nho giáo là hệ thống tư tưởng, đạo đức, chính trị do Đức Khổng Tử lập ra và được các đồ đệ khai triển nhằm tổ chức một xã hội ổn định, trật tự, kỷ cương ở trần thế, chứ không quan tâm đến những chuyện thần thánh ở thế giới mai sau, dù trong văn bản nền tảng là Tứ Thư, Ngũ Kinh có nói đến Trời, đến Thiên (thiên mệnh của nhà vua, vua là thiên tử có toàn quyền sinh sát: quân xử thần tử, thần bất tử, bất trung). Nhà nước phong kiến đã sử dụng Khổng giáo làm công cụ để bảo đảm quyền lực nên đã chọn làm quốc giáo. Triều Lý đã lập Văn Miếu thờ Đức Khổng Tử năm 1070, lập Quốc Tử Giám năm 1076 và tổ chức học hành, thi cử, đào tạo công chức làm việc cho chính quyền. Nho giáo chiếm lĩnh đời sống tinh thần qua những văn thơ, kinh sách được phổ biến trong dân chúng và dần dần chiếm thế độc tôn từ thế kỷ XV trở đi, nhất là trong thế kỷ XVIII-XIX. Làng nào cũng có người đi học, đi thi. Đình làng được sử dụng như một chỗ để hội họp cộng đồng nhưng cũng là nơi thể hiện các nghi thức tế tự của Khổng giáo. Hệ thống tư tưởng Nho giáo tuy giữ cho dân tộc ổn định trong thời đại nhiễu nhương nhiều thế kỷ, nhưng lại kìm hãm sự phát triển, đổi mới, mở ra cho khoa học tiến bộ của con người và dân tộc. Những nhà trí thức thường chỉ quanh quẩn với những vần thơ, bài phú ca tụng dòng họ, tìm danh lợi trong chốn quan trường.

Bắt đầu từ thế kỷ XVI, những giá trị mới của Kitô giáo bắt đầu được truyền bá ở Việt Nam tạo nên những xung đột dữ dội với hệ thống tư tưởng của Khổng giáo. Nhờ thông thạo tiếng Việt và sáng chế ra cách ghi âm tiếng Việt bằng chữ cái Latinh thay cho chữ Nôm, các nhà truyền giáo dòng Tên từ năm 1615-1665 đã giới thiệu những giá trị nền tảng của Kitô giáo về nền dân chủ, về gia đình một vợ một chồng sống chung thuỷ với nhau suốt đời, về sự bình đẳng nam nữ vì đều có nhân phẩm như nhau, về những khoa học thường thức để giúp cho đời sống khoẻ mạnh và tươi đẹp nên được nhiều người Việt đón nhận.

Sau khi quân đội Pháp bắn thị uy vào cảng Đà Nẵng năm 1847 và nhanh chóng chiếm được 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ năm 1862, cuộc bách hại người Công giáo trở nên hết sức khốc liệt vì vua quan đổ tội cho người Công giáo theo gót kẻ xâm lăng. Nhiều đám dân chúng cũng hùa theo quân lính triều đình cướp phá các làng trù phú của người Công giáo với khẩu hiệu “bình Tây sát Tả”. Tuy nhiên nhiều nhà Nho nổi tiếng yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Kỳ ngoại hầu Cường Để, Lương Văn Can, qua các phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, đã minh oan cho người Công giáo và hô hào toàn dân hãy đón nhận những giá trị mới về dân chủ, bình đẳng nam nữ, hôn nhân một vợ một chồng, chữ Việt và tinh thần cởi mở với khoa học kỹ thuật của người Công giáo[9]. Những giá trị của nền văn hoá Công giáo đã được toàn dân Việt đón nhận để bước vào một giai đoạn mới của đất nước.

vh - dao Cong giao

4. Văn hoá thời kỳ phát triển và hội nhập với thế giới (1945- nay)

4.1. Lịch sử.

Từ năm 1930, Hồ Chí Minh và một số nhà ái quốc theo ý thức hệ Cộng sản để giải phóng đất nước. Sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939-1945) kết thúc, phát xít Nhật đầu hàng, những người Cộng sản Việt Nam tiến hành cuộc Cách Mạng tháng Tám năm 1945. Ngày 2/9/1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập ở Hà Nội, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà. Ngày 23/9/1945, quân đội thực dân Pháp tiến công Sài Gòn, mở màn cho cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, qua Hiệp định Genève, quân Pháp rút khỏi miền Bắc Việt Nam. Việt Nam được chia thành 2 miền theo hai ý thức hệ khác nhau: miền Bắc theo chủ nghĩa Cộng sản với tên nước là Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, miền Nam theo chủ nghĩa Tư bản với tên nước là Việt Nam Cộng Hoà. Hai miền lại bắt đầu chiến tranh khốc liệt cho đến ngày 30/4/1975, khi quân đội Việt Nam Cộng Hoà buông súng đầu hàng vì chính quyền Hoa Kỳ tìm lợi ích kinh tế trước một nước Trung Quốc với hơn một tỷ người, không còn yểm trợ cho chính quyền của Việt Nam Cộng Hoà trong cuộc chiến tranh bảo vệ tự do và giá trị con người, trong khi Liên Xô và Trung Cộng vẫn hỗ trợ chính quyền Cộng sản miền Bắc.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu bắt đầu từ Ba Lan vào năm 1989, và tiếp tục ở HungaryBungary, Romania, Đông ĐứcTiệp Khắc và nhất là sự sụp đổ của Bức tường Berlin năm 1989, dẫn đến việc Liên Xô bị giải thể vào cuối năm 1991. Kết quả là Nga và 14 quốc gia của khối Liên Xô tuyên bố độc lập. Sự kiện Thiên An Môn năm 1989 tuy không thành công trong việc kích thích sự thay đổi chính trị lớn ở Trung Quốc, nhưng lại ảnh hưởng đến những phần khác của thế giới. Chế độ Xã hội Chủ nghĩa đã bị bãi bỏ ở các nước như Mông Cổ, CampuchiaEthiopia và Nam Yemen. Theo xu hướng đó, Đảng Cộng Sản Việt Nam buộc phải đổi mới để tồn tại. Cuộc hội nhập vào nền văn hoá thế giới của dân tộc Việt Nam bắt đầu từ 1986 khi Đảng Cộng Sản Việt Nam công bố thời kỳ đổi mới và kéo dài đến ngày nay.

vh - asean

Việt Nam gia nhập WTO (Tổ chức Thương mại Thế giới) vào ngày 7-11-2006, và được công nhận là thành viên chính thức của tổ chức này vào ngày 11-1-2007. Việc gia nhập WTO đã mở ra cơ hội lớn cho người Việt hoà nhập vào nền văn hoá thế giới với xu hướng đô thị hoá, hiện đại hoá nhờ khoa học kỹ thuật và mở ra với mọi nguồn văn hoá đại chúng nhờ sách báo, phim ảnh, truyền hình, internet và điện thoại thông minh.

vh - VN gia nhap WTO

4.2. Văn hoá

Những giá trị văn hoá được tạo nên trong thời kỳ xung đột mãnh liệt giữa các ý thức hệ khi hai miền Nam Bắc trở thành tiền đồn của hai thế giới Tư bản và Cộng sản, cũng như những giá trị văn hoá của các dân tộc phản ánh tâm tư của nhân loại trong một giai đoạn nhất định của lịch sử, đều đáng trân trọng. Chúng giống như những chất liệu đường, chanh, muối, nước, tự bản thân và để riêng rẽ thì rất tốt, nhưng khi hoà trộn vào nhau mà không được điều chỉnh định lượng cho phù hợp thì không thể trở thành ly nước chanh ngon ngọt, bổ dưỡng, trái lại, còn làm nguy hại đến sức khoẻ con người. Đấy là trường hợp của dân tộc Việt Nam trong thời kỳ hội nhập và phát triển với thế giới hiện nay khi có quá nhiều những giá trị đối chọi nhau.

Nhiều giá trị trong nền văn hoá truyền thống bị loại bỏ như niềm tin vào Trời, giá trị của các tôn giáo, vì một số người quá say mê cái mới, nhất là khi chính quyền công khai loại bỏ chúng ra khỏi chương trình giáo dục, đào tạo con người. Nhiều người trẻ choáng ngợp trước vẻ hào nhoáng của khoa học hiện đại nên bỏ hết những kinh nghiệm ngàn đời của tổ tiên. Người ta bị cuốn hút vào cơn lốc xoáy của việc hưởng thụ vật chất, đánh giá nhau theo những phương tiện, bằng cấp, tài sản bên ngoài, nên không còn trọng tình nghĩa, đức hạnh, từ đó gây nên sự đổ vỡ hạnh phúc gia đình, suy thoái trầm trọng đạo đức xã hội[10]. Tội ác, tham nhũng, bất công và nhiều tệ nạn xã hội tràn lan khắp nơi. Vấn đề cần giải quyết là chính quyền cũng như mỗi người dân nhận thức được giá trị của việc hội nhập văn hoá và thực hiện việc hội nhập này như thế nào cho có kết quả tốt đẹp.

v h- tho cung to tien

Lời kết

Vì thế, khi tìm hiểu về cuộc hội nhập văn hoá trong lịch sử dân tộc Việt Nam và kết quả hiện nay của nền văn hoá dân tộc, mỗi người chúng ta đều có trách nhiệm phân định những giá trị nào cần tiếp tục gìn giữ và phát huy, giá trị nào nên loại bỏ hoặc điều chỉnh mức độ hợp lý tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Dù đây là trách nhiệm nặng nề của chính quyền và những người lãnh đạo trong cộng đồng xã hội, nhưng cá nhân mỗi người, như một thực thể chịu ảnh hưởng của văn hoá, vẫn là chủ thể tác động vào nền văn hoá và thay đổi được những giá trị cho thế hệ tương lai. Như thế chúng ta vẫn có quyền sống trong niềm tin và hy vọng vào một tương lai tốt đẹp cho từng người cũng như cho dân tộc Việt Nam.

——————————————————

Câu hỏi gợi ý

1. Bạn đã thu nhận được những giá trị nào trong dòng lịch sử văn hoá của dân tộc?

2.Bạn hãy liệt kê những giá trị lỗi thời mà hiện nay người Việt đang nắm giữ và đề nghị sửa đổi bằng giá trị nào của nền văn hoá Công giáo?

a6667a883911df4f8600

——————————————————

Chú thích:

  1. x. Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo Biên soạn, Từ điển Bách khoa Việt Nam, Mục từ Việt Nam, NXB TĐBKVN, 2005, tr.890-892.

  2. x. Bs Alice Roberts, Atlas Giải phẫu Cơ thể Người, NXB Y Học, 2015, tr.014.

  3. x. Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, đôi khi gọi tắt là Toàn Thư, là bộ quốc sử viết bằng văn ngôn của Việt Nam, viết theo thể biên niên, ghi chép lịch sử Việt Nam từ thời đại truyền thuyết Kinh Dương Vương năm 2879 TCN đến năm 1675 đời vua Lê Gia Tông nhà Hậu Lê.

  4. x. Toan Ánh, Tín ngưỡng Việt Nam, Quyển Thượng, NXB TP.HCM.

  5. x. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Niên giám 2016 Giáo hội Công giáo Việt Nam, NXB Tôn Giáo, 2017, tr.470.

  6. x. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở Văn hoá Việt Nam, Trường Đại học Tổng hợp Tp.HCM, 1996; nhiều bài về văn hoá nông nghiệp trên mạng internet viết theo hướng đó.

  7. X. Văn Lang thời Hùng Vương đã từng có chữ viết riêng? Internet, 16/4/2016, về nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền.

  8. X. Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử ký toàn thư.

  9. X. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Niên giám 2016 Giáo hội Công giáo Việt Nam, NXB Tôn Giáo, tr.178-185.

  10. X. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Niên giám 2016 GHCGVN, NXB Tôn Giáo, tr.215; Họp Đại biểu Quốc Hội, Vì sao đạo đức xuống cấp?, Báo Tuổi Trẻ, ngày 31/10/2018, tr.1-3.