How and why did religion evolve?
Làm thế nào và tại sao tôn giáo phát triển?

Getty Images

“This is my body – Này là thân thể ta.”

These words, recorded in the Gospels as being spoken by Jesus during the Last Supper, are said daily at Church services around the world before the communion meal is eaten. When Christians hear these words spoken in the present, we’re reminded of the past, which is always with us, which never goes away.

Những lời này, mà theo Tin Mừng là lời của Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly, vang lên hàng ngày tại các buổi lễ cầu nguyện trên khắp thế giới trước mỗi bữa ăn. Thời nay, mỗi khi người Kitô giáo nghe những lời này thì đó là lúc chúng ta được nhắc nhở về quá khứ. Vậy người Kitô giáo được nhắc nhở về quá khứ nhiều tới mức nào? Chúng tôi nhắc nhở về quá khứ, luôn luôn ở bên chúng tôi, không bao giờ biến mất.

Just how much past are Christians reminded of? Certainly the last two millennia, which, in addition to devout celebrations of the Eucharist, are rife with doctrinal disputes, church splits, episodes of violence, excommunications, papal pronouncements, and various metaphysical debates, all revolving around the communion meal.

Kitô hữu nhắc nhớ bao lâu về quá khứ? Chắc chắn là trong hai thiên niên kỷ qua, ngoài các nghi thức tôn sùng Thánh Thể còn rất nhiều những tranh cãi về giáo lý, những cuộc phân nhánh thành các giáo hội khác nhau, những giai đoạn bạo lực, những cuộc rút phép thông công, các công bố về giáo hoàng và các cuộc tranh luận siêu hình, tất cả đều diễn ra xoay quanh bữa ăn hiệp thông.

But we can rewind further back, to the development of the oral traditions that got fixed into texts that were incorporated into the canonical New Testament. We can also wonder about the historical meal on which the various Last Supper texts are based.

Nhưng chúng ta có thể quay trở lại quá khứ xa hơn, tìm về thời kỳ bắt đầu có những tập tục truyền miệng, sau được viết thành văn bản rồi được tập hợp vào Tân Ước. Chúng ta cũng có thể băn khoăn muốn tìm hiểu về bữa ăn lịch sử, sự kiện được nhiều phiên bản ghi chép khác nhau về Bữa Tiệc Ly dựa vào để miêu tả.

We can travel further back still, long before even the emergence of Christianity. After all, Jesus was a Jew, and so his act of breaking bread with the disciples reminds us of the entire history of the Jewish people, including their harrowing escape from Egyptian slavery and their receiving of the Torah at Sinai.

Chúng ta có thể quay trở lại xa hơn, từ rất lâu trước khi Kitô giáo ra đời. Xét cho cùng, Chúa Giêsu là người Do Thái, và vì vậy, hành động Ngài bẻ bánh chia cho các môn đệ gợi cho ta nhớ về toàn bộ lịch sử của người Do Thái, gồm cả cuộc đào thoát đầy đau đớn của họ khỏi cảnh làm nô lệ cho Ai Cập và đón nhận bộ kinh Torah trên núi Sinai.

But we can go back even further. Any religious meal is, before it is anything else, a meal. It is an act of table-sharing, certainly an important ritual in the ancient Near East. Seder, and later communion, were “taken up” theologically and liturgically, but the positive feelings around table-sharing were already in place. They’d already been in place since the emergence of modern humans, about 200,000 years ago.

Nhưng ta có thể quay trở lại còn xa hơn cả thời điểm đó nữa. Bữa ăn tôn giáo bất kể thế nào thì trước tiên vẫn là một bữa ăn. Đó là việc ngồi ăn chung với nhau, một nghi thức chắc chắn là rất quan trọng ở vùng Cận Đông cổ đại. Lễ Vượt Qua của người Do Thái rồi sau đó là lễ thông công của người Ki-tô giáo đã được ‘nâng lên’ để thể hiện tính thần học và phụng vụ, nhưng những cảm xúc tích cực xung quanh việc ngồi ăn chung với nhau thì vốn đã có sẵn. Những cảm xúc đó đã tồn tại kể từ khi có sự hiện diện của con người hiện đại, khoảng 200.000 năm trước. 

The sharing of food is common in many world religions – and it may reflect some prehistoric preoccupations. Việc ngồi ăn chung, chia sẻ thức ăn với nhau là điều phổ biến ở nhiều tôn giáo trên thế giới. (Credit: Getty)

And yet– Homo sapiens wasn’t the only species to discover the benefits of food-sharing. Neanderthals certainly pooled their resources, as did the several other Homo species dating back two million years.

Chưa hết – người thông minh (Homo sapiens) không phải là loài duy nhất phát hiện ra lợi ích của việc chia sẻ thức ăn. Người Neanderthal chắc chắn đã góp chung thực phẩm. Một số nhóm người khác cũng đã làm vậy kể từ hai triệu năm trước.

“Think of uber pro-social hunter-gatherers having a meal,” one of my theology professors told me when I wondered about the deep evolutionary history behind the Eucharist. “The hunters feel proud to have done well and shared with their family; those who prepared the food are recognised and appreciated; everyone’s belly is getting filled and feeling good; and so many positive social interactions are taking place. No wonder so much mythological content is built up around the meal.”

“Hãy nghĩ về việc những người săn bắn – hái lượm vì lợi ích chung của cả nhóm, cùng ăn với nhau,” một trong các giáo sư thần học nói khi tôi còn đang băn khoăn tự hỏi về lịch sử tiến hóa sâu sắc đằng sau Bí tích Thánh Thể. “Những người thợ săn cảm thấy tự hào vì đã làm tốt phần việc của mình và chia sẻ thực phẩm với gia đình họ; những thành viên chế biến chuẩn bị đồ ăn thì được ghi nhận và trân trọng phần công sức đóng góp. Mọi người đều được ăn no và cảm thấy dễ chịu; và rất nhiều các hoạt động tiếp xúc xã hội tích cực diễn ra. Cho nên ta sẽ không mấy ngạc nhiên khi thấy rằng có rất nhiều những câu chuyện thần thoại đã được xây dựng xung quanh bữa ăn.”

But food-sharing even predates our Homo ancestors, and is currently observed in chimpanzees and bonobos. In fact, one recent paper even documented research of bonobos sharing food with bonobos outside of their own social group. Barbara Fruth, one of the study’s authors, told the digital magazine Sapiens that meal-sharing “must have its roots in our last common ancestor”. Based on the molecular clock, the last common ancestor, or LCA, of humans and Great Apes lived about 19 million years ago.

Nhưng việc chia sẻ thức ăn thậm chí còn có từ trước khi có sự tồn tại của tổ tiên loài người chúng ta, điều mà ngày nay ta có thể nhận thấy ở tinh tinh và vượn bonobos. Trên thực tế, một bài báo gần đây thậm chí còn ghi nhận nghiên cứu về việc vượn bonobo chia sẻ thức ăn với những con bonobo nằm ngoài nhóm của chúng. Barbara Fruth, một trong những tác giả của nghiên cứu, nói với tạp chí kỹ thuật số Sapiens rằng việc chia sẻ bữa ăn “phải có nguồn gốc từ tổ tiên chung cuối cùng của chúng ta”. Dựa trên phân tích về phân tử, con người và vượn lớn có tổ tiên chung gần nhất (last common ancestor – LCA) là vào thời điểm cách đây khoảng 19 triệu năm.

When I hear the words “This is my Body,” then, my mind immediately launches into a race to the evolutionary starting line, if you will.

Khi nghe thấy những từ “Này là thân thể ta” là lúc tâm trí tôi lập tức nảy ra một cuộc đua nhằm chạy đến xuất phát điểm của quá trình phát triển.

[nextpage title=”Nguồn gốc sâu xa của tôn giáo”]

Deep religion – Nguồn gốc sâu xa của tôn giáo

I begin with a discussion of the Eucharist because my particular religious tradition is Christian. But the point I’m making – that religious experiences emerge from very specific, very long histories – could be made with most religious phenomena. That’s because, in the words of the late sociologist Robert Bellah, “Nothing is ever lost.” History goes all the way back, and who and how and where we are now is the result of its winding forward. Any human phenomenon that exists is a human phenomenon that became what it is. This is no less true of religion.

Tôi sẽ bắt đầu bằng việc thảo luận về Bí tích Thánh Thể, vì tôi là người Kitô giáo. Nhưng quan điểm mà tôi nêu ra – rằng những trải nghiệm tôn giáo xuất hiện từ những quá trình lịch sử rất cụ thể, rất dài – có lẽ sẽ phù hợp với hầu hết các hiện tượng tôn giáo. Đó là bởi, theo lời của nhà xã hội học quá cố Robert Bellah, thì “Không có gì mất đi cả”. Lịch sử quay trở lại; chúng ta là ai, chúng ta đang như thế nào và chúng ta đang ở đâu, đó chính là kết quả của quá trình lịch sử.

If we’re going to think about the deep history of religion, then we need to be clear about what religion is. In his book The Bonobo and the Atheist, the primatologist Frans de Waal shares a funny story about participating in a panel hosted by the American Academy of Religion. When one participant suggested they start with defining religion, someone was quick to note that last time they tried to do that, “half the audience had angrily stomped out of the room”. Quipped de Waal: “And this in an academy named after the topic!”

Nếu chúng ta sẽ nghĩ về lịch sử sâu xa của tôn giáo, thì chúng ta cần phải làm rõ, tôn giáo là gì. Trong cuốn sách Vượn Bonobo và Người Vô thần (The Bonobo and the Atheist), nhà nghiên cứu linh trưởng Frans de Waal chia sẻ câu chuyện hài hước liên quan đến một hội thảo do Học viện Tôn giáo Hoa Kỳ tổ chức. Khi một người tham gia đề nghị mọi người bắt đầu với việc đưa ra định nghĩa về tôn giáo, có người đã nhanh chóng lưu ý rằng trong lần hội thảo trước họ đã cố gắng làm thế, nhưng “một nửa số cử toạ đã giận dữ bỏ ra khỏi phòng họp”. De Waal nói một cách châm biếm: “Mà đây lại chính là học viện mang danh nghĩa tôn giáo!”

Still, we need to start somewhere, so de Waal suggests this definition: religion is “the shared reverence for the supernatural, sacred, or spiritual as well as the symbols, rituals, and worship that are associated with it”. De Waal’s definition echoes one given by sociologist Émile Durkheim, who also emphasised the importance of shared experiences that “unite into one single moral community”.

Thế nhưng chúng ta vẫn cần phải bắt đầu từ đâu đó, vì vậy de Waal nêu ra định nghĩa như sau: tôn giáo là “lòng tôn kính chung dành cho đấng siêu nhiên, sự linh thiêng, tâm linh cũng như các biểu tượng, nghi lễ và sự thờ cúng đi kèm”. Định nghĩa của de Waal lặp lại định nghĩa từng được nêu ra bởi nhà xã hội học Émile Durkheim, người cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của những trải nghiệm chung “được kết hợp thành một cộng đồng có chung tiêu chuẩn đạo đức”.

The importance of shared experience can’t be overstated since, in the story we’re telling, the evolution of human religion is inseparable from the ever-increasing sociality of the hominin line. As Bellah points out, religion is as a way of being. We might also view it as a way of feeling, as a way of feeling together.

Tầm quan trọng của kinh nghiệm chia sẻ có thể được cường điệu hóa bởi vì, trong câu chuyện mà chúng tôi nói, sự phát triển của tôn giáo loài người không thể tách rời khỏi tính xã hội ngày càng tăng của dòng hominin. Như Bellah chỉ ra, tôn giáo là một cách để tồn tại. Chúng ta cũng có thể xem nó như một cách cảm nhận, như một cách để cùng nhau cảm nhận.

Followers of the Nazareth Baptist Church climb the Nhlangakazi Holy Mountain. Religious beliefs and rituals help to unite groups of individuals – Những người theo Giáo hội Baptist Nazareth trèo lên Núi Thiêng Nhlangakazi. Các niềm tin và nghi lễ tôn giáo khác nhau giúp các nhóm cá nhân đơn lẻ hợp nhất lại với nhau. (Credit: Getty)

While much of the scientific study of religion is on theology-based doctrinal religions, the evolutionary psychologist Robin Dunbar thinks this is a narrow way of studying the phenomenon because it “completely ignores the fact that for most of human history religions have had a very different shamanic-like form that lacks gods and moral codes”. (By shamanic, Dunbar means religions of experience that commonly involve trance and travel in spirit worlds.) While the theology-based forms are only a few thousand years old and characteristic of post-agricultural societies, Dunbar argues that the shamanic forms date back 500,000 years. These, he claims, are characteristic of hunter-gatherers.

Phần lớn nghiên cứu khoa học về tôn giáo là nhằm tìm hiểu về các loại tôn giáo dựa trên thần học, nhưng nhà tâm lý học tiến hóa Robin Dunbar cho rằng đó chỉ là một cách nghiên cứu hạn hẹp bởi nó đã “hoàn toàn bỏ qua thực tế rằng hầu hết các tôn giáo trong lịch sử loài người đều có một hình thức pháp sư rất khác biệt, thứ không có các vị thần và các quy tắc đạo đức”. (Dunbar dùng chữ pháp sư – ‘shaman’ – để chỉ các tín ngưỡng chủ yếu gắn với việc lên đồng và kết nối với linh hồn người chết.). Trong khi các hình thức tôn giáo thần học mới chỉ tồn tại vài nghìn năm và là nét đặc trưng cho các xã hội hậu nông nghiệp, thì Dunbar lập luận rằng các hình thức pháp sư đã có từ 500 nghìn năm trước. Những thứ này, ông nói, là đặc trưng của người săn bắn hái lượm.

If we want to understand how and why religion evolved, Dunbar says we need to start out by examining religions “with the cultural accretions stripped away”. We need to focus less on questions about Big Gods and creeds, and more on questions about the capacities that emerged in our ancient ancestors that allowed them to achieve a religious way of being together.

Để hiểu được làm thế nào và tại sao tôn giáo phát triển, Dunbar nói rằng chúng ta cần phải bắt đầu bằng cách xem xét các tôn giáo theo cách “gạt bỏ các yếu tố phát triển văn hoá”. Chúng ta cần bớt chú ý vào các câu hỏi về các vị thần quan trọng và các tín ngưỡng, và cần đặt trọng tâm vào câu hỏi những năng lực gì đã khiến tổ tiên xa xưa của chúng ta tiến tới sống chung với nhau thành cộng đồng.

Adaptation or by-product? –

Thích ứng hay sản phẩm phụ?

All societies, after all, seem to have religions of some sort. “There are no exceptions to this,” de Waal told me over the phone.

Mọi xã hội xét cho cùng dường như đều có tôn giáo dưới hình thức này hay hình thức khác. “Không có ngoại lệ,” de Waal nói với tôi qua điện thoại.

If all societies have religion, it must have a social purpose – Frans de Waal

Nếu tất cả các xã hội đều có tôn giáo, thì nó phải có mục đích xã hội – Frans de Waal

There are two major perspectives on why this might be. One is called functionalism or adaptationism: the idea that religion brings positive evolutionary benefits, which are most often framed in terms of its contribution to group living. As de Waal puts it: “If all societies have [religion], it must have a social purpose.”  

Có hai quan điểm chính lý giải điều này. Một được gọi là thuyết chức năng, hay thuyết thích nghi: Thuyết này cho rằng tôn giáo đem lại lợi ích tích cực cho quá trình phát triển, chủ yếu là nhờ vào sự đóng góp của các thành viên trong nhóm vào đời sống chung. Như de Waal, thì “Nếu mọi xã hội đều có [tôn giáo], thì tôn giáo hẳn phải có mục đích xã hội.”

Others take the view that religion is a spandrel, or by-product of evolutionary processes. The word spandrel refers to an architectural shape that emerges as a by-product between arches and ceiling. Religion, on this interpretation, is akin to a vestigial organ. Perhaps it was adaptive in the environments it originally evolved in, but in this environment it’s maladaptive. Or perhaps religious beliefs are the result of psychological mechanisms that evolved to solve ecological problems unrelated to religion. Either way, evolution didn’t “aim” at religion; religion just emerged as evolution “aimed” at other things.

Thuyết thứ hai thì cho rằng tôn giáo là một ‘mắt cửa’ (‘spandrel’), hay một sản phẩm của quá trình phát triển. ‘Mắt cửa’ là từ được dùng để chỉ một hình dạng kiến trúc ít ai để ý, nằm giữa phần mái vòm và trần nhà. Tôn giáo, theo cách giải thích này, giống như một cơ quan chỉ để lại vai trò mờ nhạt trong cơ thể. Có thể là nó từng thích nghi được trong môi trường đã khiến nó phát sinh, nhưng trong môi trường khác, nó lại không thích nghi nổi. Hoặc có lẽ niềm tin tôn giáo là kết quả của việc các cơ chế tâm lý phát triển nhằm xử lý những vấn đề sinh thái không liên quan đến tôn giáo. Dù là giải thích theo cách nào thì cả hai thuyết trên đều cho rằng sự phát triển đã không “hướng tới” tôn giáo; tôn giáo chỉ trỗi dậy khi sự phát triển “hướng tới” những thứ khác.

While folks on both sides of this debate have their reasons, it seems unhelpful to frame the evolution of religion in such either/or terms. Something that was merely a by-product of a blind evolutionary process could well be taken up by human beings to perform a specific function or solve a specific problem. (Read about what the future of religion could be like.)

Mặc dù những người ở cả hai phía của cuộc tranh luận này đều có cái lý của mình, nhưng dường như việc đóng khung sự phát triển tôn giáo theo một trong hai cách trên không giúp đem lại lời giải đáp thoả đáng. Một thứ dù chỉ là sản phẩm phụ của quá trình tiến hóa mù quáng vẫn có thể được con người nắm bắt để thực hiện một chức năng, hoặc để xử lý một vấn đề cụ thể nào đó.

Muslim worshippers perform the evening (Isha) prayers at the Kaaba. Emotions such as awe, loyalty, and love are central to many religious celebrations – Người Hồi giáo làm lễ cầu nguyện tối (Isha) tại Kaaba. Những cảm xúc như sự kính trọng, lòng trung thành và tình yêu là trung tâm của nhiều nghi lễ tôn giáo. (Credit: Getty)

This can be true for many behaviours – including music – but religion presents a particular puzzle, since it often involves extremely costly behaviours, such as altruism and, at times, even self-sacrifice.

Điều này là đúng đối với nhiều hành vi ứng xử – bao gồm cả âm nhạc – nhưng tôn giáo đưa ra một câu đố cụ thể, vì nó thường liên quan đến các hành vi cực kỳ đắt giá, chẳng hạn như lòng vị tha và có những lúc là cả sự tự hy sinh.

For this reason, some theorists such as Dunbar argue that we should also look beyond the individual to the survival of the group.

Vì lý do này, một số nhà lý thuyết như Dunbar cho rằng chúng ta cũng cần phải nhìn xa ra bên ngoài phạm vi một cá nhân, để nhìn vào vấn đề sinh tồn của cả nhóm.

This is known as multilevel selection, which “recognises that fitness benefits can sometimes accrue to individuals through group-level effects, rather than always being the direct product of the individual’s own actions”, as Dunbar defines it.

Đây được gọi là sự lựa chọn đa cấp, theo đó “thừa nhận rằng các cá nhân đôi khi được hưởng lợi nhiều hơn nhờ vào kết quả mà cả nhóm đạt được thay vì lúc nào cũng chỉ trực tiếp dựa vào hành động đơn lẻ của từng cá nhân”, Dunbar nói.

An example is cooperative hunting, which enables groups to catch bigger prey than any members could catch as individuals. Bigger prey means more for me, even if I have to share the meat (since the animal being shared is already larger than anything I could catch alone). Such group-level processes “require the individual to be sensitive to the needs of other members of the group”, says Dunbar.

Một ví dụ có thể nêu ra là việc cùng nhau săn bắn – việc đi cùng với nhau cho phép các thợ săn bắt được con mồi to hơn so với việc bất kỳ cá nhân đơn lẻ nào đi săn một mình. Con mồi lớn hơn cũng đồng nghĩa với việc phần thịt mỗi người nhận được sẽ nhiều hơn, ngay cả khi họ phải chia sẻ với những thợ săn khác (vì con thú săn được lớn hơn nhiều so với bất kỳ con thú nào mỗi người có thể tự mình bắt được). Những phối hợp ở cấp độ nhóm như vậy “đòi hỏi cá nhân phải nhạy cảm với nhu cầu của các thành viên khác trong nhóm”, Dunbar nói.

There is no history of the religion of an individual creature. Our story is about us.

Không có lịch sử tôn giáo của một sinh vật đơn lẻ. Câu chuyện của chúng ta là nói về chúng ta.

[nextpage title=”Cảm xúc đầu tiên”]

Feeling first

Cảm xúc đầu tiên

If we are to understand religion, then, we first need to look back into your deep history to understand how human ancestors evolved to live in groups in the first place.

Nếu để chúng ta hiểu về tôn giáo, trước hết chúng ta cần nhìn lại lịch sử sâu xa để hiểu được tổ tiên con người đã phát triển ra sao để sống thành từng nhóm.

We are, after all, descended from a long line of ancestral hominoids with “weak social ties and no permanent group structures”, says Jonathan Turner, author of The Emergence and Evolution of Religion. That leads Turner to what he considers the million-dollar question: “How did Darwinian selection work on the neuroanatomy of hominins to make them more social so they could generate cohesive social bonds to form primary groups?” he asked me on the phone. “That’s not a natural thing for apes.”

Sau tất cả, chúng ta là hậu duệ của một chuỗi dài các thế hệ linh trưởng tiền nhân với “các mối quan hệ xã hội lỏng lẻo và không có cấu trúc nhóm ổn định”, Jonathan Turner, tác giả của cuốn Sự Xuất hiện và Phát triển của Tôn giáo (The Emergence and Evolution of Religion), nói. Điều này đưa Turner đến với câu hỏi trị giá triệu đô la: “Tại sao thuyết chọn lọc của Darwin về giải phẫu thần kinh ở tông người lại khiến con người ưa giao tiếp xã hội hơn, dẫn đến việc con người có thể tạo ra những gắn bó xã hội để hình thành nên những nhóm quần thể nguyên thuỷ đầu tiên?” ông hỏi tôi qua điện thoại. “Đó không phải là điều tự nhiên đối với các loài linh trưởng.”

Our ape line evolved from our last common ancestor around 19 million years ago. Orangutans broke away about 13-16 million years ago, while the gorilla line branched away about 8-9 million years ago. The hominin line then branched into two about 5-7 million years ago, with one line leading to the chimpanzees and bonobos, and the other leading to us. We modern humans share 99% of our genes with living chimpanzees – which means we’re the two most closely related apes in the whole line.

Gốc gác chung cuối cùng, nơi tổ tiên loài người có chung tổ tiên với linh trưởng, là cách đây 19 triệu năm về trước. Đười ươi orangutan tách ra vào khoảng 13-16 triệu năm trước, còn khỉ đột gorilla, khoảng 8-9 triệu năm trước. Rồi tông người tách ra thành hai nhánh vào khoảng 5-7 triệu năm trước, với một nhánh tiến hoá thành tinh tinh (chimpanzee) và vượn bonobos, còn một nhánh trở thành chúng ta. Con người hiện đại chúng ta có chung 99% các bộ gene với tinh tinh, và điều đó có nghĩa hai loài này là họ hàng gần gũi nhất với nhau trong toàn bộ họ linh trưởng.

Human religion emerges out of our increased capacity for sociality

Tôn giáo của con người xuất hiện từ khả năng gia tăng xã hội của chúng ta

The similarities between humans and chimps are well known, but one important difference has to do with group size. Chimpanzees, on average, can maintain a group size of about 45, says Dunbar. “This appears to be the largest group size that can be maintained through grooming alone,” he says. In contrast, the average human group is about 150, known as Dunbar’s Number. The reason for this, says Dunbar, is that humans have the capacity to reach three times as many social contacts as chimps for a given amount of social effort. Human religion emerges out of this increased capacity for sociality.

Những nét tương đồng giữa con người và tinh tinh đã được biết đến, nhưng có một điểm khác biệt quan trọng giữa hai loài, đó là quy mô nhóm sinh sống cùng nhau. Tinh tinh trung bình duy trì khoảng 45 cá thể mỗi nhóm, nhà tâm lý học tiến hóa Robin Dunbar nói. “Đây có vẻ như là quy mô nhóm lớn nhất,” ông nói. Thế nhưng ở con người thì con số này trung bình là 150, được gọi là Số của Dunbar. Lý do, theo Dunbar, là bởi con người có khả năng đạt được các mối liên hệ xã hội lớn gấp ba lần so với tinh tinh nếu bỏ ra cùng mức độ nỗ lực trong giao tiếp xã hội. Tôn giáo khiến con người tăng khả năng giao tiếp xã hội.

How come? As our ape ancestors moved from receding forest habitats to more open environments, like the savannahs of eastern and southern Africa, Darwinian pressures acted on them to make them more social for increased protection from predators and better access to food; it also made it easier to find a mate. Without the ability to maintain new structures – like small groups of five or six so-called nuclear families, says Turner – these apes wouldn’t have been able to survive.

Sao có thể thế? Khi tổ tiên linh trưởng của chúng ta chuyển từ việc sống trong rừng sang các môi trường mở như thảo nguyên savannah ở đông và nam Phi, áp lực của sự lựa chọn tự nhiên theo học thuyết Darwin đã khiến họ phải tăng cường giao tiếp xã hội để tăng cơ hội được bảo vệ khỏi những loài mãnh thú ăn thịt và để có được nguồn thực phẩm dự trữ tốt hơn. Còn một chuyện nữa, là việc này cũng giúp cho việc tìm kiếm bạn tình thuận lợi hơn. Nếu như không thể duy trì các cơ cấu mới, như tạo thành các nhóm nhỏ gồm khoảng năm, sáu gia đình nhỏ, Turner nói, thì các loài linh trưởng sẽ không có khả năng sinh tồn.

So how did nature achieve this socialisation process? Turner says the key isn’t with what we typically think of as intelligence, but rather with the emotions, which was accompanied by some important changes to our brain structure. Although the neocortex figures prominently in many theories of the evolution of religion, Turner says the more important alterations concerned the subcortical parts of the brain, which gave hominins the capacity to experience a broader range of emotions. These enhanced emotions promoted bonding, a crucial achievement for the development of religion.

Vậy thế giới tự nhiên đạt được tiến trình xã hội hóa này như thế nào? Turner nói điểm then chốt không phải là điều chúng ta vẫn thường nghĩ tới, trí thông minh, mà là cảm xúc. Đây là thứ gắn liền với một số những thay đổi quan trọng trong cấu trúc não của chúng ta. Cho dù tân vỏ não (neocortex), tức là phần não chịu trách nhiệm về ngôn ngữ và ý thức, đóng vai trò chủ đạo trong nhiều giả thuyết về sự tiến hóa của tôn giáo, nhưng Turner nói rằng các phần quan trọng hơn là các phần ở dưới vỏ não, là các bộ phận khiến tông người có được năng lực trải nghiệm một loạt các cảm xúc phong phú hơn. Những cảm xúc này giúp làm tăng mức độ gắn bó giữa các cá thể với nhau, điều rất quan trọng để tôn giáo phát triển.

Complex religious feelings are often the combination of many emotions. Awe, for instance, is a heady mix of fear and happiness. – Những cảm xúc tôn giáo phức tạp thường là sự tổng hợp của nhiều loại cảm xúc khác nhau. Chẳng hạn, nỗi kinh sợ là kết quả của sự pha trộn giữa nỗi sợ hãi và niềm hạnh phúc. (Credit: Getty)

The process of subcortical enhancement Turner refers to dates to about 4.5 million years ago, when the first Australopithecine emerged. Initially, says Turner, selection increased the size of their brains about 100 cubic centimetres (cc) beyond that of chimpanzees, to about 450 cc (in Australopithecus afarensis). For the sake of comparison, this is smaller than later hominins – Homo habilis had a cranial capacity of 775 cc, while Homo erectus was slightly larger at 800-850. Modern humans, in contrast, boast a brain size much bigger than any of these, with a cranial capacity of up to 1,400 cc.

Tiến trình cải thiện phần dưới vỏ não, theo Turner, diễn ra từ khoảng 4,5 triệu năm trước, khi vượn người phương nam (còn gọi là ‘vượn người Australopithecine’) đầu tiên xuất hiện. Lúc ban đầu, Turner nói, là sự lựa chọn tăng kích thước não lên, lớn hơn chừng 100 phân khối so với não tinh tinh, đạt khoảng 450 phân khối ở vượn người Australopithecine. So sánh cho dễ hình dung, thì kích thước này nhỏ hơn não của tông người – xuất hiện sau đó – xảo nhân, hay còn gọi là người khéo léo (Homo habilis) có kích thước sọ là 775 phân khối, trong lúc người đứng thẳng (Homo erectus) thì có não lớn hơn một chút, 800-850 phân khối. Con người hiện đại thì có não với kích cỡ to hơn hẳn, tới 1.400 phân khối.

It is in the story of how these [subcortical] mechanisms evolved that, ultimately, the origins of religion are to be discovered – Jonathan Turner

Việc đó nằm trong câu chuyện các cơ chế phần dưới vỏ não này phát triển ra sao, để cuối cùng dẫn đến sự ra đời của tôn giáo – Jonathan Turner

But the comparably smaller brain size doesn’t mean that nothing was happening to the hominin brain. Brain size is measured by an endocast, but Turner says these do not reflect the subcortical enhancement that was occurring between the emergence of Australopiths (around 4 million years ago) and Homo erectus (1.8 million years ago). “It is in the story of how these [subcortical] mechanisms evolved that, ultimately, the origins of religion are to be discovered.”

Nhưng việc có kích thước não nhỏ hơn đáng kể không có nghĩa là không có chuyện gì xảy ra trong não ở tông người. Kích thước não được đo bằng phần hốc xương sọ, nhưng Turner nói rằng những thứ này không thể hiện được sự cải thiện của phần dưới vỏ não, vốn xuất hiện trong thời kỳ từ lúc bắt đầu có vượn người phương nam (Australopiths), khoảng bốn triệu năm trước, và người đứng thẳng (Homo erectus), 1,8 triệu năm trước. “Việc đó nằm trong câu chuyện các cơ chế phần dưới vỏ não này tiến hóa ra sao, để cuối cùng dẫn đến sự ra đời của tôn giáo.”

Although the neocortex of humans is three times the size of apes’, the subcortex is only twice as big – which leads Turner to believe that the enhancement of hominin emotion was well underway before the neocortex began to grow to its current human size.

Cho dù tân vỏ não ở người lớn gấp ba lần so với bộ phận tương đương ở các loài linh trưởng, nhưng phần dưới vỏ não thì chỉ lớn gấp đôi, và điều này khiến cho Turner tin rằng việc cải thiện cảm xúc ở tông người đã diễn ra từ trước khi tân vỏ não bắt đầu phát triển cho tới kích thước ở người hiện nay.

Here’s how nature pulled it off. You’ve probably heard talk of the so-called four primary emotions: aggression, fear, sadness, and happiness. Notice anything about that list? Three of the emotions are negative. But the promotion of solidarity requires positive emotions – so natural selection had to find a way to mute the negative emotions and enhance the positive ones, Turner says. The emotional capacities of great apes (particularly chimpanzees) were already more elaborate than many other mammals, so selection had something to work with.

Đây chính là chỗ mà thế giới tự nhiên đã thành công. Có lẽ bạn đã từng nghe những thảo luận về cái gọi là các cảm xúc căn bản: hung hăng, sợ hãi, buồn rầu, và hạnh phúc. Bạn có nhận ra bất kỳ điều gì từ danh sách liệt kê trên không? Ba trong số các cảm xúc đó là mang tính tiêu cực. Nhưng việc thúc đẩy tinh thần đoàn kết thì đòi hỏi phải có các cảm xúc tích cực – cho nên tiến trình lựa chọn tự nhiên phải tìm cách tắt đi các cảm xúc tiêu cực và tăng các cảm giác tích cực, Turner nói. Khả năng có cảm xúc ở các loài linh trưởng lớn (đặc biệt là ở tinh tinh) đã đạt mức tinh tế hơn nhiều so với các loài động vật có vú khác, cho nên sự lựa chọn tự nhiên cần phải có cách phát triển tiếp.

At this point in his argument, Turner introduces the concept of first- and second-order elaborations, which are emotions that are the result of a combinations of two or more primary emotions. So, for example, the combination of happiness and anger generates vengeance, while jealousy is the result of combining anger and fear. Awe, which figures majorly in religion, is the combination of fear and happiness. Second-order elaborations are even more complex, and occurred in the evolution from Homo erectus (1.8 million years ago) to Homo sapiens (about 200,000 years ago). Guilt and shame, for example, two crucial emotions for the development of religion, are the combination of sadness, fear, and anger.

Tại điểm này trong lập luận của mình, Turner đưa ra khái niệm những sự kết hợp nhân tố bậc một và nhân tố bậc hai, theo đó cho rằng các cảm xúc là kết quả của sự kết hợp giữa hai cảm xúc căn bản trở lên. Chẳng hạn như hạnh phúc kết hợp với tức giận sẽ tạo nên cảm xúc báo thù, trong khi sự ghen tuông là kết quả của việc kết hợp giữa tức giận và sợ hãi. Nỗi kinh sợ, vốn đóng vai trò quan trọng trong tôn giáo, là sự kết hợp giữa nỗi sợ hãi và niềm hạnh phúc. Các kết hợp theo nhân tố bậc hai thậm chí còn phức tạp hơn, và chúng xuất hiện trong quá trình tiến hoá từ người đứng thẳng (Homo erectus), 1,8 triệu năm trước, lên người thông minh (Homo sapiens), khoảng 200 ngàn năm trước. Chẳng hạn như cảm giác tội lỗi và hổ thẹn, là hai cảm xúc rất quan trọng cho sự phát triển tôn giáo, là sự kết hợp giữa đau buồn, sợ hãi và tức giận.

Kashmiri Muslims celebrate Eid-e-Milad-un-Nabi, the anniversary of the Prophet’s birth – Người Hồi giáo Kashmir đón mừng lễ Eid-e-Milad-un-Nabi, là dịp kỷ niệm ngày sinh của Đấng Tiên tri. (Credit: Getty)

It’s difficult to imagine religion without the capacity to experience these emotional elaborations for the same reason it’s difficult to imagine close social groups without them: such an emotional palette binds us to one another at a visceral level. “Human solidarities are only possible by emotional arousal revolving around positive emotions – love, happiness, satisfaction, caring, loyalty – and the mitigation of the power of negative emotions, or at least some negative emotions,” says Turner. “And once these new valences of positive emotions are neurologically possible, they can become entwined with rituals and other emotion-arousing behaviours to enhance solidarities and, eventually, produce notions of power gods and supernatural forces.”

Khó để mà tưởng tượng ra tôn giáo không có năng lực trải qua những kết hợp cảm xúc này, với cùng lý do của việc khó mà tưởng tượng ra những nhóm xã hội khép kín không có năng lực đó: một bảng cảm xúc như vậy ràng buộc chúng ta với những người khác ở tầm mức nội tâm bên trong. “Những tính đoàn kết ở con người chỉ có thể hình thành nhờ có những cảm xúc được phát triển lên từ những cảm xúc tích cực – yêu thương, hạnh phúc, thoả mãn, chăm sóc, trung thành – và sự làm dịu bớt sức mạnh của các cảm xúc tiêu cực, hoặc ít nhất cũng là của một số cảm xúc tiêu cực,” Turner nói. “Và một khi những giá trị mới của cảm xúc tích cực có thể có về mặt thần kinh, chúng có thể bị cuốn vào các nghi thức và các hành vi khơi dậy cảm xúc khác để tăng cường tình đoàn kết và cuối cùng, tạo ra các khái niệm về các vị thần quyền lực và các thế lực siêu nhiên.”

Not to jump ahead too far, but it’s important to understand how pivotal feeling is in the evolution of religion. As far as Darwin was convinced, there wasn’t any difference between religious feeling and any other feeling. “It is an argument for materialism,” he wrote in a journal entry, “that cold water brings on suddenly in head, a frame of mind, analogous to those feelings, which may be considered as truly spiritual.” If this is true, then that means the causes of religious feelings can be pinpointed and studied just like any other feeling.

Điều quan trọng ở đây là chúng ta cần hiểu được cảm giác xoay trục là thế nào trong sự phát triển của tôn giáo. Như Darwin cảm thấy bị thuyết phục, thì không có khác biệt nào giữa cảm xúc tôn giáo với bất kỳ loại cảm xúc nào khác. Nếu như điều này là đúng, thì điều đó có nghĩa là các nguyên nhân gây ra cảm xúc tôn giáo cũng có thể được xác định và được nghiên cứu giống như bất kỳ cảm xúc nào khác.

[nextpage title=”Nghi lễ”]

Ritual

Nghi lễ

As selection worked on existing brain structures, enhancing emotional and interpersonal capacities, certain behavioural propensities of apes began to evolve. Some of the propensities that Turner lists as already present in apes include: the ability to read eyes and faces and to imitate facial gestures; various capacities for empathy; the ability to become emotionally aroused in social settings; the capacity to perform rituals; a sense of reciprocity and justice; and the ability to see the self as an object in an environment. An increase in the emotional palette available to apes would, according to Turner, result in an increase in all of these behavioural capacities.

Do tiến trình lựa chọn tự nhiên diễn ra với việc có những thay đổi trong cấu trúc não bộ và việc phát triển khả năng xúc cảm, giao tiếp, một số thiên hướng ứng xử ở linh trưởng bắt đầu tiến hoá. Một số thiên hướng mà Jonathan Turner, tác giả của cuốn Sự Xuất hiện và Phát triển của Tôn giáo (The Emergence and Evolution of Religion), liệt kê là đã tồn tại sẵn ở linh trưởng gồm có: khả năng đọc biểu hiện trong ánh mắt và gương mặt, khả năng bắt chước cách biểu cảm trên khuôn mặt; khả năng biết cảm thông ở một chừng mực nào đó; khả năng cảm nhận được môi trường xã hội xung quanh; khả năng thực hiện các nghi lễ; có ý thức ứng xử có đi có lại và công bằng; và khả năng tự nhận biết bản thân mình là một vật thể trong môi trường xung quanh. Theo Turner thì việc gia tăng cung bậc cảm xúc ở linh trưởng khiến cho năng lực thực hiện các hành vi ứng xử này cũng tăng lên.

Though many if not all of these behaviours have been documented in apes, I want to concentrate on two of them – ritual and empathy – without which religion would be unthinkable.

Có khá nhiều, nếu không muốn nói nói là tất cả các hành vi ứng xử này đã được ghi nhận ở các loài linh trưởng. Tuy nhiên, tôi muốn tập trung vào hai hành vi trong số đó, là nghi lễ và sự cảm thông. Đây là hai hành vi mà nếu chúng không tồn tại thì sẽ không thể có tôn giáo.

In archival footage, primatologist and anthropologist Jane Goodall describes the well-known waterfall dance which has been widely observed in chimpanzees. Her comments are worth quoting at length:

Trong một đoạn băng hình lưu (archival footage), nhà linh trưởng học và nhân chủng học Jane Goodall mô tả vũ điệu thác nước nổi tiếng của tinh tinh. Nhận xét của bà được trích dẫn một đoạn dài:

When the chimpanzees approach, they hear this roaring sound, and you see their hair stands a little on end and then they move a bit quicker. When they get here, they’ll rhythmically sway, often upright, picking up big rocks and throwing them for maybe 10 minutes. Sometimes climbing up the vines at the side and swinging out into the spray, and they’re right down in the water which normally they avoid. Afterwards you’ll see them sitting on a rock, actually in the stream, looking up, watching the water with their eyes as it falls down, and then watching it going away. I can’t help feeling that this waterfall display or dance is perhaps triggered by feelings awe, wonder that we feel.

Khi tinh tinh đến gần, chúng nghe thấy âm thanh gầm vang này, và bạn sẽ thấy lông chúng dựng lên một chút, rồi chúng di chuyển nhanh hơn một chút. Khi tới nơi, chúng sẽ lắc lư theo nhịp điệu, mà thường là đứng thẳng lên, nhặt những viên đá lớn ném đi trong chừng có lẽ là 10 phút. Đôi khi chúng trèo lên những gốc nho ở bên cạnh rồi đu bay ra, ẩn thân vào màn hơi nước, rồi chúng nhảy xuống nước, điều mà bình thường thì chúng sẽ tránh làm. Sau đó, bạn sẽ thấy chúng ngồi trên một tảng đá nằm giữa dòng chảy, nhìn lên trên, ngắm làn nước đổ xuống, rồi nhìn nước trôi đi. Tôi không thể không nghĩ rằng màn trình diễn, hoặc là vũ điệu thác nước này, có lẽ chính là được tạo ra từ cảm giác dễ chịu, cảm giác thấy rằng mọi thứ thật tuyệt.

The chimpanzee’s brain is so like ours: they have emotions that are clearly similar to or the same as those that we call happiness, sad, fear, despair, and so forth – the incredible intellectual abilities that we used to think unique to us. So why wouldn’t they also have feelings of some kind of spirituality, which is really being amazed at things outside yourself?

Não của tinh tinh cũng giống như não chúng ta: chúng có những cảm xúc rõ ràng là tương tự hoặc giống hệt như những cảm xúc mà chúng ta gọi là hạnh phúc, buồn, sợ, kinh hãi, và các cảm xúc khác – những khả năng trí tuệ phi thường mà chúng ta từng nghĩ rằng chỉ con người mới có. Vậy tại sao chúng lại không có cảm xúc về một dạng nghi lễ nào đó, điều sẽ thực sự là kỳ diệu nằm bên ngoài mỗi bản thân chúng ta?

Goodall has observed a similar phenomenon happen during a heavy rain. These observations have led her to conclude that chimpanzees are as spiritual as we are. “They can’t analyse it, they don’t talk about it, they can’t describe what they feel. But you get the feeling that it’s all locked up inside them and the only way they can express it is through this fantastic rhythmic dance.” In addition to the displays that Goodall describes, others have observed various carnivalesque displays, drumming sessions, and various hooting rituals.

Goodall đã quan sát thấy hiện tượng tương tự xảy ra trong một trận mưa lớn. Quan sát này khiến bà đi đến kết luận rằng tinh tinh cũng có những nghi lễ như chúng ta. “Chúng không thể phân tích nghi lễ đó, chúng không nói về nghi lễ đó, chúng không thể mô tả cảm giác mà chúng cảm thấy. Nhưng bạn sẽ cảm nhận được rằng mọi thứ đều được cất giấu bên trong chúng, và cách duy nhất để chúng thể hiện ra chính là thông qua vũ điệu nhịp nhàng tuyệt diệu này.” Bên cạnh việc có những màn trình diễn mà Goodall mô tả, những người khác đã quan sát được nhiều màn trình diễn lễ hội, những đợt gõ đập, và nhiều nghi thức hú hét ở tinh tinh.

The roots of ritual are in what Bellah calls “serious play” – activities done for their own sake, which may not serve an immediate survival capacity, but which have “a very large potentiality of developing more capacities”. This view fits with various theories in developmental science, showing that playful activities are often crucial for developing important abilities like theory of mind and counterfactual thinking.

Gốc rễ của nghi thức thì nằm trong thứ mà Bellah gọi là “màn trình diễn nghiêm túc”, các hoạt động được thực hiện vì chính nó, có thể không phục vụ cho năng lực sinh tồn ngay lập tức nhưng có “tiềm năng rất lớn trong việc phát triển thêm các năng lực khác”. Quan điểm này phù hợp với những thuyết trong khoa học phát triển theo đó cho rằng các hoạt động vui đùa đóng vai trò rất quan trọng cho việc phát triển các khả năng quan trọng như thuyết tâm ý (theory of mind) và tư duy đối chứng (counterfactual thinking).

Play, in this evolutionary sense, has many unique characteristics: it must be performed “in a relaxed field” – when the animal is fed and healthy and stress-free (which is why it is most common in species with extended parental care). Play also occurs in bouts: it has a clear beginning and ending. In dogs, for example, play is initiated with a “bow”. Play involves a sense of justice, or at least equanimity: big animals need to self-handicap in order to not hurt smaller animals. And it might go without saying, but play is embodied.

Màn trình diễn, đặt trong bối cảnh tiến hoá này, thì có nhiều đặc tính độc đáo: nó phải được thực hiện “trong một môi trường thư giãn” – khi con vật được cho ăn uống đầy đủ, khoẻ mạnh và không bị stress (đó là lý do vì sao đây là hiện tượng phổ biến nhất xảy ra trong các loài có tập tính chăm sóc con non trong một thời gian dài). Màn trình diễn cũng xuất hiện trong các cuộc đọ sức: có sự bắt đầu và kết thúc rõ ràng. Chẳng hạn như ở chó, màn trình diễn bắt đầu với động tác ‘cúi chào’. Màn trình diễn liên quan tới cảm giác công lý, hoặc ít nhất cũng là sự bình thản: những con vật cỡ lớn cần phải tự điều chỉnh cân bằng để không làm tổn hại đến các con nhỏ hơn. Và không cần nói cũng rõ, màn trình diễn là sự tự thể hiện bản thân.

Ultra-Orthodox Jewish men take part in the Tashlich ritual, during which sins are cast into the water to the fish. Người Do Thái dòng Chính thống giáo thực hiện nghi lễ Tashlich, là lúc để mọi người sám hối, mọi tội lỗi được rửa gột sạch theo dòng nước, trôi theo cá. (Credit: Getty)

Now compare that to ritual, which is enacted, which is embodied. Rituals begin and end. They require both shared intention and shared attention. There are norms involved. They take place in a time within time – beyond the time of the everyday. (Think, for example, of a football game in which balls can be caught “out of bounds” and time can be paused. We regularly participate in modes of reality in which we willingly bracket out “the real world”. Play allows us to do this.) Most important of all, says Bellah, play is a practice in itself, and “not something with an external end”.

Bây giờ, hãy so sánh màn trình diễn với nghi lễ xem cái nào là diễn, cái nào là tự thể hiện bản thân. Các nghi lễ thì có sự bắt đầu và sự kết thúc. Cả hai đều đòi hỏi phải chia sẻ mục đích, chia sẻ sự chú ý. Có những quy tắc, tiêu chuẩn trong đó. Các nghi lễ được thực hiện trong một khoảng thời gian nào đó, vượt ra ngoài giới hạn thời gian hàng ngày. (Chẳng hạn như, hãy thử nghĩ về một trận bóng đá khi bóng bị bắt ở “ngoài vòng cấm địa” và thời gian thi đấu sẽ ngừng lại. Chúng ta thường tham gia vào những tình huống thực tế trong đó chúng ta sẵn lòng bỏ qua “thế giới thực”. Màn trình diễn cho phép chúng ta làm điều này.) Quan trọng hơn cả, Bellah nói, màn trình diễn bản thân nó là một sự thực hành, và “không phải là thứ có một sự kết thúc bên ngoài”.

Bellah calls ritual “the primordial form of serious play in human evolutionary history”, which means that ritual is an enhancement of the capacities that make play first possible in the mammalian line. There is a continuity between the two. And while Turner acknowledges it might be pushing it to refer to a chimpanzee waterfall dance or carnival as Ritual with a capital R, it is possible to affirm that “these ritual-like behavioural propensities suggest that some of what is needed for religious behaviour is part of the genome of chimpanzees, and hence, hominins”.

Bellah gọi nghi lễ là “hình thức nguyên thuỷ của sự trình diễn nghiêm túc trong lịch sử tiến hoá của loài người”, có nghĩa là nghi lễ là sự nâng cao của những năng lực khiến cho việc trình diễn lần đầu tiên trở nên khả thi trong những loài động vật có vú. Có sự tiếp nối liền lạc giữa hai vấn đề này. Và trong lúc Turner thừa nhận rằng có thể sẽ là quá đà nếu coi vũ điệu dưới thác nước của tinh tinh là Nghi lễ (với chữ N viết hoa), thì có thể khẳng định rằng “những thiên hướng hành xử giống như nghi lễ cho thấy có một số thứ cần có đối với cách hành xử tôn giáo là một phần có trong gene của tinh tinh, và do đó, trong tông người.”

[nextpage title=”Sự cảm thông”]

Empathy

Sự cảm thông

The second trait we must consider is empathy. Empathy is not primarily in the head. It’s in the body –at least that’s how it started. It began, writes de Waal, “with the synchronisation of bodies, running when others run, laughing when others laugh, crying when others cry, or yawning when others yawn”.

Đặc tính thứ hai mà chúng ta cần phải xem xét đến là sự cảm thông. Cảm thông không phải là thứ có sẵn trong tâm trí. Nó là trong cơ thể – ít nhất đó cũng là nơi nó bắt đầu. De Waal viết rằng nó bắt đầu “với sự đồng bộ hoá của các cơ thể, chạy khi người khác chạy, cười khi người khác cười, khóc khi người khác khóc, hoặc ngáp khi người khác ngáp”.

Buddhist monks launch a sky lantern during the Yee Peng Festival in Chiang Mai. The ritual symbolises the release of kindness and goodwill – Các nhà sư Phật giáo thả đèn lồng trời trong Lễ Yee Peng ở Chiang Mai. Đây là nghi lễ nhằm thả lòng tử tế và những lời chúc tốt lành lên trời xanh. (Credit: Getty)

Empathy is absolutely central to what we call morality, says de Waal. “Without empathy, you can’t get human morality. It makes us interested in others. It makes us have an emotional stake in them.” If religion, according to our definition, is a way of being together, then morality, which instructs us as to the best ways to be together, is an inextricable part of that.

Sự cảm thông chắc chắn là nằm ở trung tâm thứ mà ta gọi là giá trị đạo đức, de Waal nói. “Nếu không có sự cảm thông, bạn không thể có giá trị đạo đức con người. Nó khiến chúng ta quan tâm đến người khác. Nó khiến chúng ta có cảm xúc với người khác.” Nếu như tôn giáo, theo định nghĩa của chúng ta, là một cách để chúng ta ở bên nhau, thì giá trị đạo đức, thứ chỉ định cho chúng ta những cách thức tốt nhất để ở bên nhau, là một phần không thể thiếu được trong đó.

De Waal has been criticised over the years for offering a rose-coloured interpretation of animal behaviour. Rather than view animal behaviour as altruistic, and therefore springing from a sense of empathy, we should, these wise scientists tell us, see this behaviour for what it is: selfishness. Animals want to survive. Period. Any action they take needs to be interpreted within that matrix.

De Waal đã bị chỉ trích trong nhiều năm về việc đưa ra cách diễn giải màu hồng về hành vi ứng xử của động vật. Thay vì coi hành vi ứng xử của động vật là có tính vị tha và do đó dẫn tới sự cảm thông, thì các nhà khoa học thông thái này nói với chúng ta rằng chúng ta nên coi hành vi ứng xử này theo cách đúng với bản chất của nó: sự ích kỷ. Các con vật đều muốn sinh tồn. Chấm. Bất kỳ hành động nào chúng cần có đều được giải nghĩa trong khuôn khổ ma trận này.

But this is a misguided way of talking about altruism, de Waal says.

Thế nhưng đây là một cách nói sai lầm về lòng vị tha, de Waal nói.

“We see animals want to share food even though it costs them. We do experiments on them and the general conclusion is that many animals’ first tendency is to be altruistic and cooperative. Altruistic tendencies come very naturally to many mammals.”

“Chúng ta thấy rằng động vật muốn chia sẻ thức ăn cho dù như vậy chúng có thể thiệt thòi. Chúng ta làm các thử nghiệm trên chúng, và kết luận chung được đưa ra là khuynh hướng đầu tiên xuất hiện ở nhiều con vật là sự cảm thông và hợp tác. Khuynh hướng cảm thông diễn ra một cách hết sức tự nhiên ở nhiều loài động vật.”

But isn’t this just self-preservation? Aren’t the animals just acting in their own best interests? If they behave in a way that appears altruistic, aren’t they just preparing (so to speak) for a time when they will need help? “To call that selfish,” says an incredulous de Waal, “because in the end of course these pro-social tendencies have benefits?” To do that, he says, is to define words into meaninglessness.

Nhưng phải chăng đó chỉ là sự tự bảo tồn? Chẳng phải là các con vật chỉ hành động vì lợi ích riêng của mình sao? Nếu như chúng cư xử như thể đầy lòng vị tha, liệu có phải chúng chỉ chuẩn bị để cho lúc chúng cần sự giúp đỡ? “Gọi đó là ích kỷ,” de Waal đầy hoài nghi nói, “bởi vì cuối cùng thì tất nhiên là những khuynh hướng mang tính ủng hộ mối quan hệ xã hội sẽ có lợi sao?” Để làm vậy, ông nói, thì định nghĩa về các từ sẽ trở nên vô nghĩa.

Yes, of course there are pleasurable sensations associated with the action of giving to others. But evolution has produced pleasurable sensations for behaviours we need to perform, like sex and eating and female-nursing. The same is true for altruism, says de Waal. That does not fundamentally alter what the behaviour is.

Đúng vậy, tất nhiên là có những cảm xúc dễ chịu gắn với hành động trao tặng cho người khác. Nhưng sự tiến hoá đã tạo ra những cảm xúc dễ chịu đối với các hành vi ứng xử mà chúng ta cần làm, như làm tình, ăn uống, hay người mẹ cho con bú. Điều đó cũng đúng đối với lòng vị tha, de Waal nói. Điều đó không thay đổi về mặt căn bản hành vi ứng xử.

Such a hard and fast line between altruism and selfishness, then, is naive at best and deceptive at worst. And we can see the same with discussions of social norms. Philosophers such as David Hume have made the distinction between what a behaviour “is” and what it “ought” to be, which is a staple of ethical deliberation. An animal may perform the behaviour X, but does it do so because it feels it should do so – thanks to an appreciation of a norm?

Vậy làn ranh giới cứng giữa lòng vị tha và sự ích kỷ, nếu nói dễ nghe nhất thì ta nói là ngây thơ, còn nếu nhìn nhìn một cách khắt khe, thì nó có tính lừa gạt. Các nhà triết học như David Hume đã nêu ra sự khác biệt giữa một hành vi ứng xử ‘cần tồn tại’ và một hành vi ứng xử ‘nên tồn tại’, thứ là đề tài cho việc cân nhắc thận trọng về đạo đức. Một con vật có thể có hành vi ứng xử X, nhưng nó làm vậy bởi vì cảm thấy là nó cần phải làm vậy, nhờ vào sự đánh giá đúng đắn đối với một chuẩn mực?

Women prepare food for the homeless during a charity Christmas dinner. – Các bà các chị chuẩn bị thức ăn cho những người vô gia cư trong dịp mời bữa ăn thiện nguyện mùa Giáng sinh. (Credit: Getty)

This distinction is one that de Waal has run into from philosophers who say that any of his observations of empathy or morality in animals can’t possibly tell him about whether or not they have norms. De Waal disagrees, pointing out that animals do recognise norms:

Sự khác biệt này là thứ mà de Waal đã nhận thấy từ các nhà triết học, những người nói rằng bất kỳ quan sát nào của ông về sự cảm thông hay đạo đức ở động vật đều không thể nói cho ông biết liệu chúng có những chuẩn mực hay là không. De Waal không tán thành ý này, và nói rằng động vật có nhận thức được các chuẩn mực:

The simplest example is a spider web or nest. If you disturb it, the animal’s going to repair that right away because they have a norm for how it should look and function. They either abandon it, or start over and repair it. Animals are capable of having goals and striving towards them. In the social world, if they have a fight, they come together and try to repair damage. They try to get back to an ought state. They have norm of how this distribution should be. The idea that normativity is [restricted to] humans is not correct.

Ví dụ đơn giản nhất là mạng nhện. Nếu như bạn khuấy động đến nó, thì con vật sẽ sửa chữa mạng ngay lập tức, bởi chúng có chuẩn mực đối với việc mạng nhện trông phải thế nào, và cần hoạt động ra sao. Chúng hoặc là sẽ bỏ luôn, hoặc bắt đầu sửa chữa mạng nhện. Động vật có khả năng đặt ra các mục tiêu và cố gắng đạt được các mục tiêu đó. Trong thế giới có mối quan hệ xã hội, nếu như có giao tranh, chúng sẽ tập hợp bên nhau và cố sửa chữa thiệt hại. Chúng cố đưa trở lại tình trạng cần có. Chúng có tiêu chuẩn về việc sự phân chia này cần phải được thực hiện ra sao. Ý tưởng cho rằng tính cách quy chuẩn chỉ có ở con người là không chính xác.

In the Bonobo and the Atheist, de Waal argues that animals seem to possess a mechanism for social repair. “About 30 different primate species reconcile after fights, and that reconciliation is not limited to the primates. There is evidence for this mechanism in hyenas, dolphins, wolves, domestic goats.”

Trong cuốn Vượn Bonobo và Người Vô thần, de Waal lập luận rằng các loài động vật dường như sở hữu một cơ chế để hàn gắn xã hội. “Khoảng 30 loài linh trưởng khác nhau hoà giải sau giao tranh, và sự hoà giải đó không chỉ có ở các loài linh trưởng. Có những bằng chứng cho thấy cơ chế này cũng tồn tại ở linh cẩu, cá heo, sói, dê nhà.”

He also finds evidence that animals “actively try to preserve harmony within their social network … by reconciling after conflict, protesting against unequal divisions, and breaking up fights among others. They behave normatively in the sense of correcting, or trying to correct, deviations from an ideal state. They also show emotional self-control and anticipatory conflict resolution in order to prevent such deviations. This makes moving from primate behaviour to human moral norms less of a leap than commonly thought.”

Ông cũng tìm thấy những bằng chứng cho thấy các loài động vật “chủ động tìm cách bảo toàn sự hoà hợp trong mạng lưới xã hội của chúng… bằng cách hoà giải sau xung đột, phản kháng những phân chia bất bình đẳng, và phá vỡ các cuộc giao tranh giữa chúng với nhau. Hành xử của chúng mang tính quy chuẩn, nhìn theo hướng nhằm sửa chữa hoặc tìm cách sửa chữa những lệch lạc trượt ra khỏi tình trạng lý tưởng. Chúng cũng thể hiện việc tự kiềm chế cảm xúc và tìm kiếm giải pháp cho cuộc xung đột nhằm ngăn chặn những sự lệch lạc đó”. Điều này khiến cho việc dịch chuyển từ cách hành xử của linh trưởng sang các quy chuẩn đạo đức ở con người có khoảng cách nhỏ hơn so với những gì ta thường nghĩ.

There’s obviously a gap between primate social repair and the institutionalisation of moral codes that lie at the heart of modern human societies. Still, says de Waal, all of these “human moral systems make use of primate tendencies”.

Rõ ràng là có khoảng cách giữa việc sửa chữa xã hội ở linh trưởng và việc có cơ cấu tổ chức với những quy tắc đạo đức trong xã hội loài người hiện đại. Kể cả như vậy, de Waal nói, thì toàn bộ “những hệ thống đạo đức của con người đều sử dụng các khuynh hướng như của linh trưởng.”

How far back to these tendencies go? Probably, like those capacities that allowed for play (and ultimately ritual), to the advent of parental care. “During 200 million years of mammalian evolution, females sensitive to their offspring out-reproduced those who were cold and distant,” says de Waal. Of course, nurturing is arguably seen in species of fish, crocodiles, and snakes, but the nurturing capabilities of mammals is really a giant leap forward in the evolutionary story.

Những khuynh hướng này bắt đầu có từ khi nào? Có lẽ, giống như các khả năng khác vốn cho phép màn trình diễn (và lên đến tột cùng là nghi thức) được thực hiện, chúng có từ thời bắt đầu xuất hiện bản năng cha mẹ chăm sóc con cái. “Trong 200 triệu năm tiến hoá của động vật có vú, các con cái nhạy cảm với con non của chúng hơn sẽ sinh đẻ nhiều hơn so với những con thờ ơ, ít quan tâm đến con cái,” de Waal nói. Tất nhiên việc chăm sóc con non cũng có cả ở những loài như cá, cá sấu và rắn, nhưng khả năng chăm con non ở các loài động vật có vú thì thực sự là bước đại nhảy vọt trong câu chuyện phát triển.

The early dawn of religion

Tôn giáo thuở sơ khai

Our religious services of today may seem worlds away from the mammalian play and empathy that emerged in our deep past, and indeed institutionalised religion is much more advanced than a so-called waterfall dance. But evolution teaches us that complex, advanced phenomena develop from simple beginnings. As Bellah reminds us, we don’t come from nowhere. “We are embedded in a deep biological and cosmological history.”

Các buổi hành lễ tôn giáo ngày nay của chúng ta có vẻ như vô cùng cách xa so với các màn trình diễn và thể hiện tình cảm ở động vật có vú vốn từng có trong quá khứ xa xưa của chúng ta, và thực sự thì tôn giáo được thể chế hoá đã tiến xa vượt bậc so với cái được gọi là màn khiêu vũ dưới thác nước. Thế nhưng sự tiến hoá dạy cho chúng ta biết rằng những hiện tượng phức tạp, tiến bộ đều phát triển từ những khởi đầu đơn giản. Như Bellah nhắc nhở chúng ta, chúng ta không phải là bỗng dưng mà xuất hiện. “Chúng ta gắn bó với lịch sử sinh học và vũ trụ học sâu xa.”

Our religious services of today seem worlds away from their ancient origins, but like all human behaviours, they are deeply embedded in evolutionary history. – Những buổi làm lễ tôn giáo của chúng ta ngày nay dường như khác rất nhiều so với các buổi lễ thuở sơ khai, nhưng cũng giống như mọi thói quen ứng xử của con người, chúng gắn bó chặt chẽ với lịch sử phát triển (Credit: Getty)

As the ape line evolved from our last common ancestor in more open environments, it was necessary to pressure apes, who prefer to go it alone, to form more lasting social structures. Natural selection was able to accomplish this astonishing feat by enhancing the emotional palettes available that had long been available to our ancestors. With a broader set of emotions, the hominin brain was then able to enhance some of its capabilities, some of which quite naturally lent themselves a religious way of being. As these capacities got more acutely enhanced with the growth of the Homo brain and the development of the neocortex, behaviours such as play and ritual entered a new phase in hominin development, becoming the raw materials out of which cultural evolution would begin to institutionalise religion.

Khi dòng vượn phát triển từ tổ tiên chung gần nhất với loài người chúng ta để sống được trong những môi trường mở, thì điều cần thiết là phải tạo áp lực để vượn người, những động vật thích sống đơn lẻ, phải cùng nhau tạo thành những cơ cấu xã hội tồn tại bền vững hơn. Lựa chọn tự nhiên đạt được chiến thắng đáng kinh ngạc này bằng cách phát triển cao hơn các bảng màu cảm xúc mà tổ tiên chúng ta vốn đã có sẵn từ lâu. Với việc có thêm nhiều cảm xúc phong phú, bộ não ở tông người đã có thể phát triển, nâng cao được một số các năng lực, trong đó có một số năng lực tự nhiên trao cho họ cách thức để thực hành tôn giáo. Bởi các năng lực này được nhanh chóng nâng cao với sự phát triển ở não người Homo và sự phát triển của tân vỏ não, các hành vi ứng xử như màn trình diễn và nghi lễ bước vào một giai đoạn mới trong sự phát triển của tông người, trở thành nguyên liệu thô để cuộc tiến hoá về văn hoá bắt đầu trở thành tôn giáo có tổ chức kết cấu chặt chẽ.

And though this history doesn’t determine us – for with each new phase in life’s story comes greater power of agency – this bio-cosmological history influences everything we do and are. Even the most seemingly autonomous human decision is made from within history. That’s the big picture here. That’s what we’ve been keeping in mind as we made our way back in time to the evolutionary seeds that would eventually – and quite slowly – blossom into human religion.

Và mặc dù quá trình lịch sử này không định đoạt chúng ta – đi cùng với mỗi một giai đoạn mới trong câu chuyện cuộc đời sẽ là mức quyền lực to lớn hơn – nhưng quá trình lịch sử sinh học – vũ trụ học này ảnh hưởng tới mọi thứ chúng ta làm. Ngay cả quyết định có vẻ như tự trị của con người cũng được đưa ra từ lịch sử này. Đó chính là bức tranh rộng lớn. Đó là điều chúng ta giữ trong tâm trí khi nhìn lại quá khứ, nhìn lại cả một quá trình mà những hạt giống tiến hoá ban đầu được hình thành, và rốt cuộc từ từ phát triển thành tôn giáo.

Though I often think theologically about the words “This is my body,” I shouldn’t overlook the basic fact that communion is about bodies – mine, yours, ours. Religion is an embodied phenomenon because the human religious way of being has evolved for millions of years as the bodies of our ancestors interacted with the other bodies around them. Whether or not one takes communion or even feels religious, we are at all times navigating our social worlds with our evolved capacities to play, to empathise, and to celebrate rituals with each other.

Tuy vậy, tôi thường suy nghĩ về mặt thần học của câu “Này là thân thể ta,” tôi không thể bỏ qua thực tế căn bản rằng sự thông công chính là cơ thể – của bạn, của tôi, của chúng ta. Tôn giáo là một hiện tượng được hiện thân bởi cách thức con người thực hành tôn giáo đã được phát triển trong hàng triệu năm, khi cơ thể của tổ tiên chúng ta tiếp xúc với các cơ thể khác ở xung quanh. Cho dù đó có phải là sự thông công hay không, hay thậm chí có phải là tôn giáo hay không, thì chúng ta, với những năng lực trình diễn đã được tiến hoá, lúc nào cũng tìm kiếm trong thế giới quanh mình để cảm thông, và để cùng người khác kỷ niệm các nghi lễ.

Brandon Ambrosino has written for the New York Times, Boston Globe, The Atlantic, Politico, Economist, and other publications. He lives in Delaware. This is the first of a two-part special examining the evolutionary roots of religion.

Brandon Ambrosino viết bài cho New York Times, Boston Globe, The Atlantic, Politico,Economist và các báo khác. Ông sống tại Delaware. Đây là phần đầu tiên của loạt bài đặc biệt gồm hai phần, tìm hiểu về cội rễ phát triển của tôn giáo.

Nguồn: BBC Future

Do humans have a ‘religion instinct’?
Con người có một ‘bản năng tôn giáo ’?

When I was in grade school, there was an anti-drug commercial that regularly came on television. There were a few different versions of it but the gist was, an egg would be shown to the camera as a voice said, “This is your brain.” And then the egg would be smashed by a frying pan and the voice would say, “This is your brain on drugs.” We all got the point: drugs did something to your brain.

Khi tôi còn đi học, quảng cáo chống ma túy thường xuyên xuất hiện trên truyền hình. Có vài phiên bản khác nhau nhưng nội dung chính thường là một quả trứng hiện ra trên màn ảnh cùng với giọng nói vang lên, “Đây là bộ não của bạn.” Sau đó, quả trứng bị đập vỡ vào một cái chảo và giọng nói sẽ bảo, “Đây là bộ não của bạn khi có tác động của ma túy.” Thế là tất cả chúng ta đều nhận thức được vấn đề: ma túy đã tác động lên não của bạn.

At my Pentecostal Church, drugs were talked about somewhat differently. We didn’t need them, we were told, because we could get high from God. God could do the same thing to our brain – give us a rush, a sense of euphoria – but our brains wouldn’t end up scrambled. God provided all the “positive benefits” of heroin with none of the damaging side effects. (Of course, when we consider the amount of religious violence throughout history, it’s impossible to claim that there are no damaging side effects to some beliefs in God. More on that later.)

Tại Giáo hội Ngũ Tuần (Pentecostal Church) của tôi, ma túy lại được đề cập tới theo cách khác.  Chúng tôi luôn được dạy rằng không cần đến ma túy, bởi vì Chúa đem đến cho chúng ta niềm hưng phấn. Giống như ma túy, Chúa có thể tác động tương tự – khiến ta rạo rực, phấn khích – nhưng bộ não của ta sau đó sẽ không bị xáo trộn. Chúa ban tặng cho chúng ta tất cả các “hiệu ứng tốt đẹp” của heroin mà không kèm theo tác dụng phụ tai hại. (Tất nhiên, khi xét mức độ bạo lực tôn giáo trong suốt chiều dài lịch sử thì không thể nói là có một số đức tin đối với Chúa không hề gây ra bất kỳ ảnh hưởng tai hại nào. Tôi sẽ nói thêm về điều này sau.)

I long ago left my childhood church and often feel embarrassed about the “God as a drug” theology. But the more I think about religion as an emerging phenomenon, the more I wonder if, for all their sloppy Pentecostal vocabulary, my youth leaders were onto something: God does something to your brain.

Tôi đã thôi đến nhà thờ thời thơ ấu của mình từ lâu, song vẫn thường cảm thấy xấu hổ về thuyết “Chúa là một loại ma túy” này. Nhưng càng nghĩ về tôn giáo như một hiện tượng mới nổi, tôi càng băn khoăn tự hỏi liệu có phải bằng những từ vựng Ngũ Tuần vụng về của họ, những người dẫn dắt trẻ của giáo phái này khi đó đã nhận ra một điều: Chúa đã tác động lên bộ não của chúng ta.

“This is your brain. This is your brain on God.”

“Đây là não của bạn. Đây là bộ não của bạn trong tay Chúa.”

From a very young age, our minds may be primed for religious belief. – Từ khi còn rất nhỏ, tâm trí của chúng ta có thể đã được ươm mầm sẵn cho đức tin tôn giáo. (Credit: Getty Images)

Andrew Newberg, a neuroscientist who studies the brain in light of religious experience, has spent his career following this hunch. “If you contemplate God long enough,” he writes in How God Changes Your Brain, “something surprising happens in the brain. Neural functioning begins to change. Different circuits become activated, while others become deactivated. New dendrites are formed, new synaptic connections are made, and the brain becomes more sensitive to subtle realms of experience. Perceptions alter, beliefs begin to change, and if God has meaning for you, then God becomes neurologically real.”

Andrew Newberg, nhà thần kinh học chuyên nghiên cứu não bộ con người với những trải nghiệm tôn giáo, đã dành cả sự nghiệp để theo đuổi thế giới tâm linh của con người. “Nếu bạn chiêm ngưỡng Chúa đủ lâu,” ông viết trong cuốn How God Changes Your Brain (Chúa Thay Đổi Não Bộ Của Bạn Như Thế Nào),”điều kỳ diệu sẽ xảy ra trong não. Chức năng thần kinh bắt đầu thay đổi. Nhiều mạch thần kinh được kích hoạt, trong khi một số khác ngừng hoạt động. Các nhánh thần kinh mới được hình thành, các mối nối thần kinh mới được tạo ra, và bộ não trở nên nhạy cảm hơn với những tầng tinh tế của trải nghiệm tôn giáo. Nhận thức đổi thay, niềm tin bắt đầu thay đổi, và nếu Chúa có ý nghĩa với bạn, thì Chúa trở thành hiện thực dưới quan điểm thần kinh học.”

Religious experiences, he tells me in his Pennsylvania-area office, satisfy two basic functions of the brain: self-maintenance (“How do we survive as individuals and as a species?”) and self-transcendence (“How do we continue to evolve and change ourselves as people?”).

Ngồi trong phòng làm việc của mình ở Pennsylvania, ông nói với tôi rằng trải nghiệm tôn giáo cần đáp ứng hai chức năng cơ bản của não bộ: tự duy trì sự sống (“Làm thế nào để sinh tồn với tư cách cá thể và tư cách loài?”), và tự vượt lên (“Làm thế nào để tiếp tục tiến bộ và thay đổi bản thân như mọi người?”).

Newberg and his team take brain scans of people participating in religious experiences, such as prayer or meditation. Though he says there isn’t just one part of the brain that facilitates these experiences – “If there’s a spiritual part, it’s the whole brain” – he concentrates on two of them.

Newberg và nhóm của ông scan não những người tham gia các nghi lễ tôn giáo, chẳng hạn như cầu nguyện hoặc thiền. Ông nói rằng không phải là chỉ có một phần nào đó của não bộ đóng vai trò trong những trải nghiệm này – “Nếu có một phần não riêng cho thế giới tâm linh, thì đó chính là toàn bộ bộ não” – và ông chủ yếu tập trung vào hai phần: thùy đỉnh và thùy trán.

There is a deactivation of the parietal lobe during certain ritual activities

Thùy đỉnh rơi vào trạng thái tĩnh khi chúng ta thực hiện một số các nghi thức tôn giáo nhất định.

The first, the parietal lobe, located in the upper back part of the cortex, is the area that processes sensory information, helps us create a sense of self, and helps to establish spatial relationships between that self and the rest of the world, says Newberg. Interestingly, he’s observed a deactivation of the parietal lobe during certain ritual activities.

Phần đầu tiên, thùy đỉnh, nằm ở phần trên phía sau của vỏ não, là khu vực xử lý thông tin cảm giác, giúp chúng ta cảm nhận được sự hiện hữu của chính chúng ta và giúp thiết lập mối quan hệ giữa bản thân với phần còn lại của thế giới, Newberg nói. Thật thú vị, ông phát hiện ra rằng thùy đỉnh rơi vào trạng thái tĩnh khi chúng ta thực hiện một số các nghi thức tôn giáo nhất định.

Religious beliefs are one of the few “human universals” that appear in all cultures. – Niềm tin tôn giáo là một trong số ít những thứ “tâm lý phổ quát chung ở con người”, tồn tại trong mọi nền văn hóa. (Credit: Getty Images)

“When you begin to do some kind of practice like ritual, over time that area of brain appears to shut down,” he said. “As it starts to quiet down, since it normally helps to create sense of self, that sense of self starts blur, and the boundaries between self and other – another person, another group, God, the universe, whatever it is you feel connected to – the boundary between those begins to dissipate and you feel one with it.”

“Khi bạn bắt đầu thực hành một số loại nghi lễ, dần dần vùng não đó dường như ngừng hoạt động,” ông nói. “Bởi đây là vùng não mà khi ở trạng thái bình thường nó sẽ giúp ta nhận thức về bản thân, cho nên khi nó bắt đầu dần rơi vào trạng thái tĩnh thì bạn cảm thấy sự hiện hữu của bản thân bắt đầu nhạt nhoà dần. Ranh giới giữa cái tôi bên trong với những thứ bên ngoài – như là một người khác, một nhóm người khác, Chúa, vũ trụ, hoặc bất cứ điều gì bạn cảm thấy có liên kết – bắt đầu tan biến. Rồi bạn cảm thấy hòa làm một với vạn vật.”

The other part of the brain heavily involved in religious experience is the frontal lobe, which normally help us to focus our attention and concentrate on things, says Newberg. “When that area shuts down, it could theoretically be experienced as a kind of loss of willful activity – that we’re no longer making something happen but it’s happening to us.”

Phần thứ hai của bộ não liên quan nhiều đến trải nghiệm tôn giáo là thùy trán, nơi thường giúp chúng ta tập trung chú ý và tập trung tâm trí vào các thứ chúng ta làm, Newberg nói. “Khi vùng đó ngừng hoạt động, về mặt lý thuyết thì nó giống như là chúng ta không còn suy nghĩ về hành động có chủ đích nữa. Cụ thể là chúng ta không làm gì để khiến cho một điều gì đó xảy ra, thế nhưng điều đó vì lý do nào khác vẫn xảy ra với chúng ta.”

Newberg thinks all the brain scans he’s collected might beg the question about why the brain is built in such a way as to facilitate spiritual kinds of experiences.

Newberg cho rằng tất cả các kết quả scan não mà ông thu thập được giúp lý giải cho câu hỏi tại sao bộ não lại được thiết kế để sẵn sàng đáp ứng các nghi lễ tâm linh.

“If you’re spiritual or religious, the answer is obvious,” he says. But even if we leave aside any talk of God, we still have to wonder why the brain developed in ways that not only facilitate but seem to promote the kinds of experiences Newberg is studying. These are experiences that seem to be an inescapable part of human existence. (Read about what the future of religion might be like.)

“Nếu là người duy tâm hay có niềm tin tôn giáo, bạn sẽ thấy điều đó hoàn toàn là đương nhiên,” ông nói. Nhưng ngay cả khi không đề cập đến Chúa, chúng ta vẫn phải tự hỏi tại sao bộ não phát triển theo hướng không chỉ đáp ứng mà còn có vẻ ưu ái thúc đẩy các loại trải nghiệm mà Newberg nghiên cứu. Chúng dường như là một phần không thể thiếu trong sự sống của loài người.

***

[nextpage title=”Cơ Chế Nhận Biết Yếu Tố Siêu Nhạy Cảm”]

 “The explanation for religious beliefs and behaviours is to be found in the way all human minds work,” writes Pascal Boyer in his book Religion Explained. And he really means all of them, he says, because what matters to this discussion “are properties of minds that are found in all members of our species with normal brains”.

“Ta có thể lý giải được niềm tin và hành vi tôn giáo thông qua cách mà tâm trí của loài người vận hành,” nhà nhân loại học người Pháp Pascal Boyer viết trong cuốn Religion Explained (Lý Giải Về Tôn Giáo). Và ông nói rằng ông thực sự đề cập tới toàn bộ các niềm tin và hành vi tôn giáo, bởi “các thuộc tính của tâm trí con người được tìm thấy trong tất cả những ai có não bộ bình thường”.

Let’s take a look at some of these properties, beginning with one known as Hypersensitive Agency Detection Device (HADD).

Hãy xem xét một số thuộc tính này, bắt đầu với một thứ gọi là Cơ Chế Nhận Biết Yếu Tố Siêu Nhạy Cảm (Hypersensitive Agency Detection Device – HADD).

Say you’re out in the savannah and you hear a bush rustle. What do you think? “Oh, it’s just the wind. I’m perfectly fine to stay right where I am.” Or, “It’s a predator, time to run!”

Giả sử đang đứng giữa thảo nguyên Bắc Mỹ thì bạn nghe thấy tiếng bụi cây xào xạc. Bạn nghĩ sao? “À, chỉ là gió thổi thôi. Mình cứ đứng nguyên tại chỗ là ổn.” Hoặc, “Trời, có thú dữ, phải chạy ngay!”

Well, from an evolutionary perspective, the second option makes the most sense. If you take the precaution of fleeing and the rustling ends up being nothing more than the wind, then you haven’t really lost anything. But if you decide to ignore the sound and a predator really is about to pounce, then you’re going to get eaten.

Theo quan điểm tiến hóa thì tình huống thứ hai sẽ là hợp lý. Nếu bạn cảnh giác, chạy trốn và rốt cuộc tiếng xào xạc chẳng qua chỉ là tiếng gió thổi thì bạn thực sự cũng chả mất gì. Nhưng nếu bạn quyết định phớt lờ âm thanh báo động và một con mãnh thú sắp vồ lấy bạn, thì bạn tất sẽ bị ăn thịt.

Religious beliefs are one of the few “human universals” that appear in all cultures. – Niềm tin tôn giáo là một trong số ít những thứ “tâm lý phổ quát chung ở con người”, tồn tại trong mọi nền văn hóa. (Credit: Getty Images)

The cognitive scientist Justin Barrett has spent his career studying the cognitive architecture that seems to lend itself quite naturally to religious belief. One of our cognitive capacities Barrett is interested in is HADD. It’s this property, he writes in The Believing Primate, that causes us to attribute agency to the objects and noises we encounter. It’s the reason we’ve all held our breath upon hearing the floor creak in the next room, which we assumed was empty.

Nhà khoa học nhận thức Justin Barrett đã theo đuổi sự nghiệp nghiên cứu cấu trúc nhận thức, thấy nó gần như phù hợp một cách tự nhiên với niềm tin tôn giáo. Một trong những năng lực nhận thức mà Barrett quan tâm là HADD. Ông viết trong cuốn sách The Believing Primate (Loài Linh Trưởng Có Đức Tin) rằng đó chính là thuộc tính khiến chúng ta gán mác siêu nhiên cho các vật thể và tiếng ồn mà chúng ta bắt gặp nhưng không lý giải được đó là gì. Đó là lý do khiến tất thảy chúng ta đều nín thở khi nghe thấy tiếng sàn nhà cọt kẹt ở phòng bên cạnh, căn phòng mà chúng ta tin là bỏ trống, không có ai ở.

Barrett says this detection device causes us to attribute agency to events with no clear physical cause (my headache was gone after I prayed) and puzzling patterns that defy an easy explanation (someone must’ve constructed that crop circle). This is particularly the case when urgency is involved. “A hungry subsistence hunter will find HADD registering more positives than a well-sated recreational hunter,” he writes.

Barrett nói rằng cơ chế phát hiện này khiến chúng ta gán mác siêu nhiên cho các sự kiện không có nguyên nhân vật lý rõ ràng (ví dụ, tôi thấy hết đau đầu sau khi cầu nguyện) và các họa tiết khó hiểu mà ta không thể giải thích một cách đơn giản vì sao chúng lại xuất hiện (phải có ai đó làm nên cái họa tiết vòng tròn bí ẩn này chứ). Điều này đặc biệt đúng trong trường hợp khi có yếu tố khẩn cấp. “Một người đi săn để kiếm sống sẽ cảm nhận HADD rõ nét hơn một người đi săn chỉ để tiêu khiển,” Barrett viết.

HADD is what Barrett calls a non-reflective belief, which are always operating in our brains even without our awareness of them. Reflective beliefs, on the other hand, are ones we actively think about. Non-reflective beliefs come from various mental tools, which he terms “intuitive inference systems”. In addition to agency detection, these mental tools include naive biology, naive physics, and intuitive morality. Naive physics, for example, is the reason children intuitively know that solid objects can’t pass through other solid objects, and that objects fall if they’re not held up. As for intuitive morality, recent research suggests that three-month old “infants’ evaluations of others’ prosocial and antisocial behaviours are consistent with adults’ moral judgments”.

HADD là thứ mà nhà khoa học nghiên cứu cấu trúc nhận thức Justin Barrett gọi là niềm tin nội tâm và có tính bản năng. Nó luôn hoạt động trong não bộ của chúng ta ngay cả khi ta không nhận ra là nó đang hoạt động. Thế còn đức tin mà chúng ta lĩnh hội được là những thứ chúng ta chủ động suy nghĩ tới. Niềm tin nội tâm hình thành từ các công cụ tâm lý khác nhau, mà Barrett gọi là “các hệ thống suy luận trực giác”. Ngoài việc phát hiện những dấu hiệu tâm linh, những công cụ tâm lý này bao gồm trực giác sinh học, trực giác vật lý và trực giác đạo đức. Chẳng hạn, trực giác vật lý khiến trẻ em tự nhiên đã biết rằng các vật thể rắn không thể xuyên qua các vật thể rắn khác và sẽ rơi xuống đất nếu không được cầm nắm. Đối với trực giác đạo đức, nghiên cứu gần đây cho thấy rằng đánh giá của trẻ sơ sinh ba tháng tuổi về hành vi phù hợp xã hội và hành vi không phù hợp xã hội của một người là giống với quan niệm đạo đức của người trưởng thành.

Barrett claims that non-reflective beliefs are crucial in forming reflective beliefs. “The more non-reflective beliefs that converge the more likely a belief becomes reflectively held.” If we want to evaluate humans’ reflective beliefs about God, then we need to start with figuring out whether and how those beliefs are anchored in non-reflective beliefs.

Barrett nói rằng niềm tin nội tâm chiếm vị trí rất quan trọng trong việc hình thành đức tin mà con người ta lĩnh hội được. “Niềm tin nội tâm của một người càng cao thì càng có nhiều khả năng là người đó sẽ lĩnh hội được đức tin.” Để đánh giá đức tin của con người đối với Chúa, chúng ta cần bắt đầu tìm hiểu xem liệu những đức tin đó có bám rễ sâu vào niềm tin nội tâm hay không.

But how do we go from non-reflective beliefs like HADD and Naive Biology to reflective ones like a God who rewards good people and punishes bad ones? It’s here that Barrett invokes the idea of minimally counterintuitive (MCI) concepts, which are often strong candidates for cultural transmission. MCI concepts are basically intuitive concepts with one or two minor tweaks. In a different paper, Barrett gives the example of a flying carpet, which “behaves” like a regular carpet in every way except one. “Such ideas combine the processing ease and efficiency of intuitive ideas with just enough novelty to command attention, and hence receive deeper processing.”

Nhưng làm thế nào để chúng ta đi từ những niềm tin nội tâm như HADD và trực giác sinh học đến những đức tin được lĩnh hội như đặt lòng tin vào Chúa, tin tưởng rằng Chúa sẽ ban phước cho người thiện lành và trừng phạt kẻ xấu? Đây chính là điểm để Barrett viện dẫn đến ý tưởng về các khái niệm hiệu ứng phản trực quan tối thiểu (MCI – minimally counterintuitive concepts). Về cơ bản, nó chính là trực giác với một vài điều chỉnh nho nhỏ. Barrett đưa ra ví dụ về tấm thảm bay: đó là một tấm thảm không khác gì những tấm thảm bình thường, ngoại trừ việc nó có thể bay. “Các ý tưởng trực quan khi được đơn giản hoá và kết hợp với một chút sáng tạo thì sẽ gây chú ý nhiều hơn, và nhờ vậy các ý tưởng đó được người ta nhận biết rõ ràng, sâu sắc hơn.”

Bộ não của chúng ta có thể phải gắng sức để cân bằng sau cái chết của những người thân yêu; ở đây có sự mơ hồ mà các đức tin tôn giáo khác nhau có thể giúp lý giải. (Getty Images)

It’s not surprising, then, that cross-cultural studies have shown that MCI concepts are easily recalled and shared. There are two reasons for this, says Barrett. First, MCI concepts maintain their conceptual structure. Second, MCI concepts tend to stand out from among an array of ordinary concepts. “What captures your attention more,” he writes, “a potato that is brown, a potato that weighs two pounds, or an invisible potato?”

Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi các nghiên cứu về giao thoa văn hóa đã chỉ ra rằng các khái niệm MCI được nhớ lại và chia sẻ một cách dễ dàng. Có hai lý do dẫn đến việc này, Barrett nói. Thứ nhất là các MCI vẫn duy trì cấu trúc khái niệm của chúng. Và thứ hai, các MCI có xu hướng nổi bật hơn so với các khái niệm thông thường. “Cái gì sẽ khiến bạn chú ý tới nhiều hơn,” ông viết, “một củ khoai tây màu nâu, một củ khoai tây nặng hai cân Anh, hay một củ khoai tây vô hình?”

Religious beliefs are shared – and they’re shared by human animals with a shared neural anatomy. Our mental toolkit contains built-in biases, such as HADD, which is responsible for a number of false positives. (Most of the time it is just the wind!) For brains that seem wired to find agency and intention everywhere, religion comes very naturally.

Đức tin tôn giáo được chia sẻ – và chúng được chia sẻ bởi loài người có cấu trúc giải phẫu thần kinh giống nhau. Bộ công cụ tâm lý của chúng ta chứa đầy các thành kiến tích tụ từ bao đời, chẳng hạn như thuộc tính HADD khiến chúng ta đưa ra một số những kết luận sai lầm. (Hầu hết các lần ta nghe thấy tiếng xào xạc thì đó chỉ là âm thanh do gió gây ra chứ không phải là do có thú dữ đang rình mò xung quanh. Thế nhưng HADD khiến ta e rằng có thú dữ, cho nên cảnh giác, đề phòng hơn, và điều đó có lợi cho sự sinh tồn của chúng ta.) Đối với những ai có bộ não dễ bị kích thích, ưa tìm đến sự trung gian và tìm kiếm sự chú ý ở mọi nơi, tôn giáo được tiếp nhận một cách rất tự nhiên.

As Daniel Dennett points out, our adoption of the intentional stance is so much a part of who we are that we have a hard time turning it off – especially after someone dies. A loved one’s death, he writes, “confronts us with a major task of cognitive updating: revising all our habits of thought to fit a world with one less intentional system in it”. And so we talk about our deceased loved ones as if they’re still around, telling stories about them, reminding ourselves that they would approve of our decisions.

Như Daniel Dennett, triết gia, cây viết đồng thời là nhà khoa học nhận thức, chỉ ra, chúng ta rất khó nguyện ý từ bỏ quan điểm của mình, nhất là sau khi có người thân yêu qua đời. Ông viết rằng, cái chết đó “khiến chúng ta phải đối đầu với một nhiệm vụ quan trọng về nhận thức: đó là phải thay đổi mọi thói quen suy nghĩ để thích nghi với một thế giới mà trong đó mình vừa mất đi một người thân”. Cho nên chúng ta nói về những người thân yêu đã qua đời như thể họ vẫn còn ở quanh đâu đây, kể chuyện về họ, tự nhủ với lòng mình rằng có lẽ là họ sẽ đồng ý với các quyết định của mình.

In short, we keep them around. But not physically because, as Boyer points out, dead bodies are a problem. “Something must be done” with them. Indeed, “religion may be much less about death than dead bodies”. For this reason, some suggest that the earliest forms of supernatural agents were the departed, the ghosts of whom are minimally counterintuitive: like us in almost every way, except for the disappearing through the wall thing.

Nói tóm lại, chúng ta vẫn giữ họ bên mình. Nhưng về mặt vật lý thì đó là điều không thể, bởi vì, như nhà nhân loại học nổi tiếng Boyer đã chỉ ra, xác chết là một vấn đề. “Cần phải làm điều gì đó” đối với các thi thể. Thực sự thì “tôn giáo ít liên quan đến cái chết mà liên quan nhiều hơn tới thi thể”. Vì lý do này, một số người cho rằng các yếu tố siêu nhiên xuất hiện sớm nhất chính là những người đã khuất, những hồn ma: hồn ma hầu như giống hệt chúng ta, ngoại trừ việc hồn ma có thể xuyên qua tường rồi biến mất.

Closely related to the idea of agency is what Dennett refers to as a cards-up phenomenon. Agency detection carries with it certain risks: do you know about that bad thing I did? How can I be sure you know, and how can I be sure about what you think about me because of it? These are complex questions and human beings aren’t good at managing all the options. What’s needed for learning how to navigate these muddy waters is for everyone to be taught the rules of the game by placing all of our cards face up on the table. The teacher, then, is something of a full-access agent: they see everything and can instruct us accordingly.

Liên quan chặt chẽ đến ý tưởng nhân tố siêu nhiên là những điều Dennett gọi là hiện tượng chơi bài ngửa. Cơ chế nhận biết đi kèm với những rủi ro nhất định: có ai đó biết về chuyện xấu mà ta đã làm không? Làm thế nào mà ta chắc chắn rằng người đó biết, và làm thế nào để ta biết chắc là chuyện đó khiến người đó nghĩ về ta như thế nào? Đó là những câu hỏi phức tạp, và con người không đủ khả năng trả lời. Để học cách tránh bị sa lầy vào chuyện này, mọi người cần được dạy luật chơi bằng cách đặt ngửa tất cả các quân bài lên bàn. Khi đó, người dạy chúng ta chơi bài là người xem được toàn bộ các quân bài: họ nhìn thấy mọi thứ và dựa theo đó mà đưa ra các chỉ dẫn cho chúng ta.

The original full-access agents, says Dennett, were our dead ancestors. But eventually, the seeds of this idea became more formalised in various theologies.

Những người đầu tiên nhìn được mọi thứ, Dennett nói, chính là tổ tiên đã khuất của chúng ta. Và những mầm mống sơ khai này đã được chính thức hoá trong các học thuyết thần học khác nhau.

“Humans are not very good at behaving just because you punish them for not behaving,” says evolutionary psychologist Robin Dunbar, “otherwise we would all be driving well under 70 on the motorway.” The real problem isn’t how bad the punishment is, but how risky it is to be caught. If the risk is low, he says, we’re prepared for the punishment.

“Con người không xử sự đúng mực chỉ vì họ sẽ bị trừng phạt nếu không xử sự đúng mực,” nhà tâm lý học tiến hóa Robin Dunbar nói, “nếu không thì tất cả chúng ta sẽ đều lái xe an toàn mà không chạy quá tốc độ.” Vấn đề thực sự không phải là hình phạt được áp dụng sẽ nặng nề đến mức nào, mà là nguy cơ hành vi không đúng mực đó bị phát hiện cao tới mức nào. Nếu nguy cơ thấp, ông nói, con người ta sẽ sẵn sàng chấp nhận hình phạt.

Niềm tin tâm linh ban đầu khác xa với các tôn giáo được tổ chức chặt chẽ ngày nay. (Getty Images)

This would have been a major issue in prehistory. As hunter-gatherer groups grow, they need to be able enforce a punishment mechanism – but the greater the size of the group, the less chance there is of being found out.

Đây là một vấn đề lớn trong thời tiền sử. Khi các nhóm săn bắn hái lượm phát triển, họ cần thiết lập một cơ chế trừng phạt – nhưng nhóm càng đông thì càng ít có cơ hội phát hiện ra hành vi vi phạm.

Enter full-access agents: “We don’t see what you do on Saturday night, but there is somebody who does, so beware,” as Dunbar puts it.

Và thế là xuất hiện những người biết được mọi thứ: “Chúng ta không nhìn thấy ngươi đã làm gì vào tối thứ Bảy, nhưng có người biết đấy, hãy coi chừng,” Dunbar nêu giả định.

This idea was consonant with the intuitive mental tools such as HADD and intuitive morality, so it was well-received by our ancestors’ evolved brains. Plus it had the added bonus of regulating behaviour from the bottom up.

Ý tưởng này phù hợp với các công cụ tâm lý trực giác như thuộc tính HADD và trực giác đạo đức, cho nên nó được tổ tiên chúng ta với bộ não đã tiến hoá dễ dàng tiếp nhận. Thêm nữa, nó còn có tác dụng theo dõi, điều chỉnh hành vi từ dưới lên trên trong toàn bộ cấu trúc xã hội.

“You always get better behaviour from individual commitment,” says Dunbar, “not coercion.”

“Bạn luôn hành xử tốt hơn khi hành vi của bạn là xuất phát từ cam kết tự giác cá nhân chứ không phải do bị bắt buộc,” Dunbar nói.

As I argued in the first part of this series, morality predates religion, which certainly makes sense given what we know about the very old origins of empathy and play. But the question remains as to why morality came to be explicitly connected with religion. Boyer grounds this connection in our intuitive morality and our belief that gods and our departed ancestors are interested parties in our moral choices.

Như tôi đã phân tích trong phần trước của loạt bài này, đạo đức xuất hiện trước tôn giáo, điều đương nhiên hợp lý dựa trên những gì chúng ta biết về nguồn gốc xưa cũ của sự cảm thông và màn trình diễn. Song câu hỏi chưa được giải đáp là tại sao đạo đức lại được kết nối rõ ràng với tôn giáo. Boyer đặt mối liên hệ này trong trực giác đạo đức và niềm tin của chúng ta rằng các vị thần và tổ tiên đã khuất ảnh hưởng tới các lựa chọn đạo đức của chúng ta.

“Moral intuitions suggest that if you could see the whole of a situation without any distortion you would immediately grasp whether it was right or wrong. Religious concepts are just concepts of persons with an immediate perspective on the whole of a situation.”

“Trực giác đạo đức cho rằng nếu bạn có thể nhìn thấy bức tranh toàn cảnh, không bị làm biến dạng, bạn sẽ ngay lập tức nhận định xem nó đúng hay sai. Khái niệm tôn giáo chỉ là khái niệm của những người ngay lập tức có viễn cảnh về bức tranh đó.”

Say I do something that makes me feel guilty. That’s another way of saying that someone with strategic information about my act would consider it wrong. Religion tells me these Someones exist, and that goes a long way to explaining why I felt guilty in the first place. Boyer sums it up in this way: “Most of our moral intuitions are clear but their origin escapes us… Seeing these intuitions as someone’s viewpoint is a simpler way of understanding why we have these intuitions.” Thus, Boyer concludes, religious concepts are in some way “parasitic upon moral intuitions”.

Giả sử tôi làm điều gì đó mà bản thân cảm thấy là có lỗi. Như vậy có nghĩa là một Đấng nào đó có thông tin tổng thể về hành động của tôi sẽ coi hành động này là sai. Tôn giáo cho tôi biết rằng những Đấng nào đó này có tồn tại, và phải mất một chặng dài để giải thích lý do tại sao tôi cảm thấy có lỗi ngay từ đầu. Boyer tóm tắt lại như sau: “Hầu hết các trực giác đạo đức của chúng ta đều rõ ràng nhưng chúng ta không hiểu căn nguyên khiến phát sinh các trực giác đó… Việc coi những trực giác này là do ý của một Đấng nào đó sẽ giúp đơn giản hoá vấn đề để lý giải vì sao chúng ta lại có những trực giác này.” Do đó, Boyer kết luận, các khái niệm tôn giáo, theo một cách nào đó “tồn tại ký sinh trên các trực giác đạo đức.”

***

[nextpage title=”Những nghi thức tôn giáo thuở sơ khai”]

We tend to think of religious beliefs as the result of individual minds, but they’re actually quite social. This isn’t surprising since, as I’ve been arguing in both parts of this essay, religion emerges from an evolutionary process that pressured apes to become more social.

Chúng ta có xu hướng nghĩ rằng niềm tin tôn giáo là kết quả suy ngẫm của từng cá nhân đơn lẻ, nhưng chúng thực sự mang tính xã hội. Đây không phải là điều đáng ngạc nhiên vì, như tôi đã phân tích trong loạt bài này, tôn giáo xuất hiện từ một quá trình phát triển vốn buộc loài vượn người phải trở nên có tính kết nối cộng đồng cao hơn

But the problem created by increased sociality is its maintenance, as Dunbar explains. Before our ancestors settled into villages, they could simply “move from the Joneses to the Smiths’ group when tensions arise”. After settlement, however, they faced a very serious problem: “how to prevent everybody from killing each other”. Enter grooming.

Nhưng vấn đề đặt ra là làm sao để duy trì được sự bền vững của cộng đồng một khi cộng đồng đó phát triển, có đông thành viên hơn nữa, nhà tâm lý học tiến hóa Robin Dunbar giải thích. Trước khi tổ tiên của chúng ta định cư thành các làng xóm, họ chỉ đơn giản là “di chuyển từ nhóm này sang nhóm khác khi có mâu thuẫn”. Tuy nhiên, sau khi định cư, họ vẫn phải đối mặt với một vấn đề rất nghiêm trọng: “làm thế nào để không để xảy ra tình trạng mọi người tàn sát nhau”. Thế là bắt đầu xuất nhu cầu quan tâm chăm sóc gây cảm tình thông qua đụng chạm cơ thể – chải lông, bắt rận – nhằm tăng tình cảm gắn bó giữa các cá thể trong cộng đồng.

The bonding process is built around endorphin systems in the brain, which are normally triggered by the social grooming mechanism of touch, or grooming. When it comes to large groups, says Dunbar, touch has two disadvantages: you can only groom one person at a time; and the level of intimacy touch requires restricts it to close relationships.

Quá trình kết thân giữa các cá thể diễn ra dựa vào các hệ thống endorphin trong não, được kích hoạt bởi tập tính chải lông bắt rận nhằm tăng tình cảm bầy đàn, gây dựng cảm tình với nhau. Đối với các nhóm lớn, Dunbar nói, việc lấy lòng bằng cách tiếp xúc trực tiếp có hai nhược điểm: tại bất kỳ thời điểm nào thì việc chải lông bắt rận cũng chỉ có thể thực hiện được với một cá thể; và mức độ đụng chạm thân mật đòi hỏi phải có mối quan hệ thân thiết.

Recent data caps wild primates’ daily maximum grooming time to about 20 percent of their activity. Dunbar calculates that this cap limits group size to fewer than 70 members, which is significantly less than the group capacities of modern humans, at about 150. The problem, then, was to find a way to trigger social bonding without touching. Laughter and music were good solutions, which Dunbar says create the same endorphin-producing effects as grooming by imposing stress on muscles. Language works, too, a theory Dunbar has explored at length in his book Grooming, Gossip, and the Evolution of Language. Because these effects can be achieved sans touch, social bonding can happen on a much larger scale.

Dữ liệu gần đây cho thấy các loài linh trưởng trong đời sống hoang dã dành tối đa là 20% thời gian hoạt động hàng ngày vào việc chải lông bắt rận cho nhau. Dunbar tính toán rằng điều này chỉ có thể xảy ra ở các quần thể có dưới 70 cá thể, tức là thấp hơn đáng kể so các nhóm người hiện đại vốn thường có khoảng 150 thành viên. Cho nên vấn đề nảy sinh là cần tìm cách thúc đẩy mối liên kết xã hội mà không cần đến phải dùng đến việc gần gũi thân mật. Tiếng cười và âm nhạc là những giải pháp tốt, mà Dunbar cho rằng hai thứ này tạo ra các hiệu ứng giải phóng endorphin tương tự như đụng chạm cơ thể. Ngôn ngữ cũng có tác dụng, một lý thuyết mà Dunbar đã khám phá từ rất lâu trong cuốn sách Grooming, Gossip, and the Evolution of Language (Chải Lông Gây Cảm Tình, Tán Gẫu Và Sự Tiến Hóa Của Ngôn Ngữ). Do những hiệu ứng này có thể đạt được mà không cần đụng chạm cơ thể, chúng giúp gắn bó cộng đồng ở quy mô lớn hơn nhiều.

Dunbar’s argument is that religion evolved as a way of allowing many people at once to take part in endorphin-triggering activation. Many of the rituals associated with religion, like song, dance, and assuming various postures for prayer, “are extremely good activators of the endorphin system precisely because they impose stress or pain on the body”.

Theo Dunbar thì tôn giáo phát triển theo cách cho phép nhiều người cùng tham gia kích hoạt giải phóng endorphin. Nhiều nghi thức liên quan đến tôn giáo, như hát, múa và các tư thế mô phỏng khác nhau để cầu nguyện, “là những kích hoạt tố cực kỳ tốt lên hệ thống endorphin, bởi chúng gây áp lực căng thẳng tinh thần hoặc đau đớn thể chất lên cơ thể.”

Spiritual practices cause the brain to release endorphins, which can improve group bonding.
– Thực hành tâm linh khiến não giải phóng endorphin, có thể cải thiện liên kết nhóm (Credit: Getty Images)

One ritual Dunbar says was involved in shamanistic religions – the earliest types of doctrine-less religion – was trance dance, which Dunbar says was about restoring social equilibrium.

Một nghi thức Dunbar cho rằng có liên quan trong các tôn giáo có thầy cúng hay pháp sư, thầy phù thuỷ – tức những loại tôn giáo xuất hiện sớm nhất trong số các loại tôn giáo không có giáo lý – là lên đồng.

“It works specifically as social bonding,” he says. “They do it as things are getting tough, until they annoy each other enough, and then they say, ‘Let’s do a trance dance.’”

“Nó hoạt động như một liên kết xã hội đặc biệt,” ông nói. “Họ làm điều đó khi mọi thứ đang trở nên khó khăn, cho đến khi họ làm phiền nhau đủ, và sau đó họ nói, ‘Hãy lên đồng’”.

In effect, he says, the same pharmacological effect of grooming is achieved: many individuals feel powerfully bonded together, at the same time. But maybe they don’t know what it all means…

Trong thực tế, ông nói, hiệu quả dược lý tương tự của chải chuốt đã đạt được: nhiều cá nhân cảm thấy mạnh mẽ liên kết với nhau, cùng một lúc. Nhưng có lẽ họ không biết ý nghĩa của nó…

“You come out of these states feeling relaxed and at peace, and bonded with the people you’re doing it with,” says Dunbar. “Then you start asking what it’s all about. How is it I feel good after these? Then after that maybe you have a few Einstein theologians who can make sense of it. ‘I can tell you what it all means!’ Then you’ve got the capacity for more doctrinal religions.”

“Khi bước ra khỏi trạng thái này, bạn cảm thấy thư thái bình yên và gắn bó với những người đã tham gia cùng bạn,” Dunbar nói. “Sau đó, bạn bắt đầu hỏi rốt cuộc đó là thứ gì. Làm sao mà tôi lại cảm thấy dễ chịu sau khi tham gia? Tiếp đến có lẽ sẽ xuất hiện một ít những nhà thần học thông tuệ có thể lý giải việc đó. ‘Ta sẽ giải thích cho ngươi mọi nhẽ!’ Thế là bạn đã sẵn sàng tiếp nhận các tôn giáo mang tính chất giáo lý cao hơn.”

But these sporadic dances only worked until our ancestors began to settle down. Once hunter-gatherers began to form more permanent settlements, around 12,000 years ago, something more robust was needed to encourage populations to behave prosocially towards each other. Especially given the enormous newfound stress that comes with living in such large and inescapable groups. Trance dances could happen in these larger communities with some regularity – say, monthly – but what is needed are more regularised rituals to encourage social cohesion.

Nhưng những điệu nhảy lẻ tẻ này chỉ có tác dụng cho đến khi tổ tiên chúng ta bắt đầu sống ổn định. Khi những người săn bắn hái lượm hình thành các nơi chốn sinh sống ổn định, khoảng 12.000 năm trước, cần phải có một điều gì đó bền vững hơn để khuyến khích dân chúng cư xử nền nếp với nhau. Đặc biệt với sự căng thẳng gây hấn mới phát sinh khi bắt buộc phải sống trong những nhóm lớn là không thể tránh khỏi. Việc lên đồng có thể thực hành trong các cộng đồng đông dân này với tần suất định kỳ – chẳng hạn như hàng tháng – nhưng cần phải có các nghi thức được thực hiện đều đặn hơn để khuyến khích sự gắn kết xã hội.

The formation of permanent settlements corresponds with the advent of farming. The agricultural, or Neolithic, revolution, began in the Fertile Crescent in the Middle East, which is sometimes referred to as the Cradle of Civilisation. Dunbar says it’s in these settlements where history’s first ritual spaces appear, the oldest of which is Gobekli Tepe in south-east Turkey. First examined in the 1960s, the site was excavated from 1996-2014 by a team led by German archaeologist Klaus Schmidt. In a 2008 Smithsonian Magazine feature, Schmidt referred to the site as humanity’s first “cathedral on a hill”. Gobekli Tepe, which means “belly hill” in Turkish, is a non-residential space that seems to have housed various temples made of pillars. It is estimated to date to about 10,000 BCE.

Sự hình thành các nơi chốn sinh sống ổn định lâu dài tương ứng với sự ra đời của nền nông nghiệp. Cuộc cách mạng nông nghiệp, hay thời đồ đá mới, bắt đầu từ vùng đất Trăng Lưỡi Liềm Màu Mỡ ở Trung Đông, nơi được coi là cái nôi của nền văn minh nhân loại.  Dunbar nói rằng tại các khu định cư này xuất hiện không gian tâm linh đầu tiên trong lịch sử, trong đó lâu đời nhất là Gobekli Tepe ở đông nam Thổ Nhĩ Kỳ. Được khảo sát lần đầu tiên vào thời thập niên 1960, địa điểm này được khai quật từ năm 1996-2014 bởi một nhóm do nhà khảo cổ học người Đức Klaus Schmidt dẫn đầu. Trong bài báo đăng trên thuộc Tạp chí Smithsonian năm 2008, Schmidt đã gọi nơi này là “thánh đường trên ngọn đồi” đầu tiên của nhân loại. Gobekli Tepe, có nghĩa là “đồi bát úp” theo tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, là nơi không có dân cư, có vẻ như là nơi có nhiều ngôi đền khác nhau được dựng lên bằng những cây cột. Nó được cho là đã tồn tại từ khoảng 10.000 năm trước Công nguyên.

As historian David Christian writes in Origin Story: A Big History of Everything, farming was a mega-innovation, like photosynthesis. That is, farming was a major threshold that, once crossed, set off our ancestors on a whirlwind journey that ran headlong into the complex societies that have dominated our species’ recent history. As population growth surged, mega-settlements saw increased social complexity, and large-scale political, economic, and military networks, says Christian. To accommodate such large groups, earlier ideas about kinship had to be modified “with new rules about properties, rights, ranking, and power”. The result of this ranking was the concept of specialisation, which led to different the stratification of classes. Some were rulers, some were merchants, some were priests.

Như nhà sử học David Christian viết trong cuốn Câu Chuyện Nguồn Gốc: Lịch Sử Vĩ Đại Về Vạn Vật (Origin Story: A Big History of Things), nông nghiệp là một sự đổi mới vĩ đại, kỳ diệu. Thật vậy, nông nghiệp là một cột mốc lớn mà một khi vượt qua được, tổ tiên chúng ta tiến vào một hành trình phát triển như vũ bão tạo ra các xã hội phức tạp hơn, thống trị lịch sử cận đại của loài người. Khi dân số tăng, tại các khu định cư đông dân, xã hội ngày càng trở nên phức tạp, và thế là các mạng lưới chính trị, kinh tế và quân sự bắt đầu xuất hiện, Christian nói. Để phù hợp với các nhóm lớn như vậy, những quan niệm trước đây chủ yếu về mối quan hệ huyết thống họ hàng thân thích phải được cải tiến bằng “các quy tắc mới về tài sản, quyền hạn, thứ hạng tầng lớp xã hội và quyền lực.” Kết quả của bảng xếp hạng mới này là khái niệm chuyên biệt hóa, dẫn đến sự phân chia các giai cấp khác nhau trong xã hội. Một số trở thành những người cai trị, một số là thương nhân, một số là linh mục.

In contrast to hunter-gatherer religious experiences, the religious rituals of Neolithic humans “focuses above all on one person, the divine or quasi-divine king, and only a few people, priests or members of the royal lineage, participate”, writes the late sociologist Robert Bellah. Importantly, it was during this period that “king and god emerged together… and continued their close association throughout history”.

Tương phản với nhu cầu tôn giáo của con người trong thời săn bắn hái lượm, các nghi thức tôn giáo của người thời đại đồ đá mới “tập trung tất cả vào một người, là vị vua thiêng liêng, được coi như vị thần hoặc á thánh, và một số ít người gồm các tu sỹ hoặc người thuộc dòng dõi hoàng thất,” nhà xã hội học quá cố Robert Bellah viết. Điều quan trọng là trong thời kỳ này, “vua và thần linh đã kết hợp với nhau… và tiếp tục duy trì mối liên kết bền chặt đó trong suốt quá trình lịch sử”.

[nextpage title=”Thời trục”]

At around 10,000 years old, Gobekli Tepe in Turkey is the world’s oldest temple site. The emergence of farming at this time heralded new forms of religion. –
Tồn tại từ khoảng 10.000 năm trước, Gobekli Tepe ở Thổ Nhĩ Kỳ là địa điểm xây dựng đền đài cổ nhất thế giới. Sự xuất hiện của cách mạng nông nghiệp vào thời điểm này đã báo trước những hình thức tôn giáo mới. (Credit: Getty Images)

Eventually that association came to be challenged in what some have called the Axial Age. Originally coined by the philosopher Karl Jaspers, the term refers to a time of sweeping changes that occurred in the first century BCE in China, India, Iran, Israel, and Greece. It was then, claimed Jaspers, that “man becomes conscious of Being as a whole” and “experiences absoluteness in the lucidity of transcendence”. It was then that our species took “the step into universality”.

Và rồi sự liên kết đó đã bị thách thức trong giai đoạn mà một số người gọi là Thời Trục (Axial Age). Khái niệm ‘Thời Trục’ do nhà triết học Karl Jaspers đưa ra, dùng để chỉ thời kỳ diễn ra những thay đổi sâu rộng trước Công Nguyên ở Trung Quốc, Ấn Độ, Iran, Israel và Hy Lạp. Jaspers nói rằng đó là lúc mà “con người bắt đầu nhận thức rõ ràng về việc mình Tồn Tại như một cá thể trọn vẹn” và “đạt tới trải nghiệm tuyệt đối về những thay đổi nhanh chóng”. Khi đó, nhân loại đã “bước chân vào thế giới vạn vật bao la”.

The concept of axiality, as Jaspers framed it, is controversial. Not only is there disagreement about the what and the when, but as Bellah has noted, Jaspers’ history looks a lot like his existential philosophy. “In discussing the Axial Age,” says Bellah, “it is all too easy to read in our own presuppositions.”

Khái niệm tính hướng trục là điều gây tranh cãi, theo Jasper. Không chỉ có những ý kiến khác nhau về chuyện giai đoạn lịch sử này là gì, xảy ra vào khi nào, mà, như Bellah đã lưu ý, phần lịch sử Jaspers nêu ra rất giống với triết lý sinh tồn của ông. Tuy nhiên, Bellah nghĩ rằng khái niệm này đáng để cân nhắc, dẫu cho nó cần phải được cân nhắc bằng những đánh giá dè dặt.

Still, Bellah thinks the concept is worth holding onto, albeit with qualifications. If we set Jaspers aside, it’s still impossible to deny that huge transitions in thought happened very quickly in the first century BCE. When I ask Dunbar if he buys the Axial Age hypothesis, he says, “If by that you mean a phase transition in which suddenly and quickly you have the emergence of religions with rituals and doctrines, the answer is yes.”

Dù chúng ta có bỏ qua triết lý của Jaspers thì vẫn không thể phủ nhận rằng sự chuyển đổi lớn về nhận thức đã xảy ra rất nhanh trong Thiên niên kỷ 1 trước Công Nguyên. Khi tôi hỏi Dunbar rằng liệu ông có đồng ý với giả thuyết Thời Trục không, ông nói, “nếu ý ông cho rằng giả thuyết này đề cập đến một giai đoạn chuyển đổi trong đó có sự xuất hiện đột nhiên và nhanh chóng của các tôn giáo với các nghi lễ và hệ thống giáo lý, thì câu trả lời là có.”

So what was axial about the axial age? First, all of the so-called axial breakthroughs occurred outside imperial centres. Bellah says an increased competition between states “created the possibility for the emergence of itinerant intellectuals not functioning within centralised priesthoods or bureaucracies”. Axial figures were able to criticise the centre from the margin. In fact, one historian has called the Axial Age “the age of criticism”.

Vậy bản chất hướng trục là gì trong thời đại này? Đầu tiên, tất cả những cái gọi là đột phá trục xảy ra bên ngoài các trung tâm đế quốc. Bellah nói rằng cuộc cạnh tranh ngày càng tăng giữa các nước đã “tạo điều kiện cho các học giả tuỳ ý bôn tẩu mà không chịu sự ràng buộc từ giới tăng lữ hoặc quan lại trung ương tập quyền”. Đặc điểm của Thời Trục là các gương mặt tên tuổi của thời này có thể đứng từ bên ngoài mà chỉ trích chính quyền trung ương. Trên thực tế, một sử gia đã gọi Thời Trục là “thời đại chỉ trích”.

Bellah says the question that was key during this breakthrough period was, “Who is the true king, the one who truly reflects justice?” So, for example, in Greece, Plato instructs people to look not to the aristocrat Achilles but to Socrates. In India, the Buddha was the one who gave up his claim to kingly succession. And in Israel, the God/king unity was decisively broken with the prophetic tales about YHWH rejecting and installing kings at will. In short, Bellah argues, axiality consists in the ability to imagine new models of reality as preferential alternatives to the ones already in place.

Bellah nói rằng câu hỏi quan trọng nhất trong giai đoạn đột phá này là, “ai là bậc quân vương, là người thực sự thực thi công đạo?” Cho nên, chẳng hạn như ở Hy Lạp, triết gia Plato giảng giải rằng chúng dân chớ hướng vào những người thuộc giới quý tộc như Achilles, mà cần học hỏi triết gia Socrates. Ở Ấn Độ, Đức Phật là người từ bỏ ngai vàng. Và ở Israel, sự hợp nhất giữa Thần linh và vua đã phá vỡ những câu chuyện tiên tri về việc Đức Chúa Trời (YHWH) tuỳ ý phế truất và lập các vị vua. Nói tóm lại, Bellah nói, tính hướng trục bao gồm khả năng hình dung ra các mô hình mới, thực tiễn, hấp dẫn hơn để thay thế cho các mô hình đã có.

The key to this transition to criticism was the capacity for graphic invention and external memory, without which a bridge from Neolithic to modern humans might never have emerged, according to Bellah. Without the ability to store information outside the human brain, humans would not have been able to develop second-order thinking. And without that, we would never have been able to codify our religious experiences into elaborate theologies.

Chìa khóa cho sự chuyển đổi sang thời đại chỉ trích này là khả năng phát minh hình vẽ (ký hiệu tượng hình) và lưu giữ trí nhớ dưới dạng văn bản, nếu không có cầu nối chuyển giao này thì sẽ không thể xảy ra sự chuyển dịch từ Thời Đồ Đá Mới sang con người hiện đại, theo Bellah. Nếu không có khả năng lưu trữ thông tin bên ngoài bộ não con người, con người sẽ không thể phát triển tư duy bậc cao. Và nếu không có điều đó, chúng ta sẽ không bao giờ có thể mã hóa các trải nghiệm tôn giáo của mình thành các học thuyết thần học phức tạp.

Surely there were theory and analysis before writing, as Bellah admits. Nor should we overlook the fact that orality and literacy overlap in ways that make it difficult to say that something is only the effect of literary culture. Still, as Bellah notes, we shouldn’t downplay the importance of the written word, which allowed narratives to be written down, studied, and compared, “thus increasing the possibility of critical reflection”.

Chắc chắn là học thuyết và sự phân tích đã tồn tại từ trước khi có chữ viết, như Bellah thừa nhận. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể bỏ qua thực tế rằng ngôn ngữ truyền miệng và ngôn ngữ bằng văn bản cùng tồn tại đan xen theo các cách khác nhau, khiến khó có thể nói rằng thứ gì đó là hệ quả của duy nhất chữ viết. Tất nhiên, như Bellah lưu ý, chúng ta cũng không thể coi nhẹ tầm quan trọng của chữ viết, công cụ đã cho phép các câu chuyện được viết ra, được tìm hiểu và so sánh, “do đó làm tăng khả năng suy ngẫm, phân tích”.

The written word has allowed more elaborate theologies to emerge. – Chữ viết đã cho phép các học thuyết thần học phức tạp hơn xuất hiện. (Credit: Getty Images)

The kind of thinking that he sees emerging in the Axial Age is theory about theory, thinking about thinking. It’s second-order thinking that leads to a religious and philosophical breakthrough: “not only a critical reassessment of what has been handed down, but also a new understanding of the nature of reality, a conception of truth against which the falsity of the world can be judged, and a claim that truth is universal, not merely local”.

Lối tư duy mà ông thấy xuất hiện trong Thời Trục là học thuyết về các học thuyết, tư duy về các lối tư duy. Chính khả năng tư duy bậc cao đã dẫn đến bước đột phá về tôn giáo và triết học: “không chỉ là sự đánh giá lại quan trọng về những gì đã được lưu truyền từ đời trước, mà còn là một khám phá mới về bản chất của thực tế, quan niệm thượng tôn sự thật trước những gian dối có thể bị phán xét, và niềm tin rằng sự thật điều có tính phổ quát chứ không phải là điều mang tính địa phương cục bộ”.

The historian Antony Black, who has taken major issue with Jaspers’ notion of an Axial Age, nevertheless agrees that in roughly the same period described, there develops “an approach to the self and to the cosmos that is more reasoned, brooding, reflective, self-conscious, and at the same time more articulate… What was involved was nothing less than a new interpretation of our experience and a new set of goals.”

Sử gia Antony Black, người cực lực phản đối quan niệm của Jaspers về Thời Trục, cũng đồng ý rằng trong cùng khoảng thời gian đó đã xuất hiện “một cách tiếp cận về cái tôi và vũ trụ hợp lý, sâu sắc hơn, mang tính phản ánh, giác ngộ, đồng thời mạch lạc hơn…. Tựu chung lại chính là một cách giải thích mới về trải nghiệm và một loạt các mục tiêu mới của chúng ta.”

In short, what makes the Axial Age axial is that it is still with us today. The “fundamental categories with which we still think, and the beginnings of the world religions, by which human beings still live, were created”, writes Jaspers. Of course these religions and philosophies have undergone some changes, but they represent the something from which all of our contemporary institutionalised religions emerge.

Nói tóm lại, dấu ấn hướng trục của Thời Trục vẫn còn đến tận ngày hôm nay. “Các thành phần cơ bản trong lối tư duy của chúng ta và sự khởi đầu của các tôn giáo trên thế giới mà con người vẫn đang theo đuổi đã được tạo ra trong thời kỳ này,” Jaspers viết. Tất nhiên, những tôn giáo và triết học này đã trải qua một số thay đổi, nhưng chúng đại diện cho những thứ mà từ đó hình thành nên tất cả các tôn giáo đương đại của chúng ta.

***

[nextpage title=”Nhìn lại lịch sử hình thành, phát triển của tôn giáo”]

The words “This is my body” spoken at Mass set my mind off on this two-part journey into the origins of religious being. The focus is always on embodiment – ours, Jesus’s, his followers’, their ancient Jewish ancestors’, hunter-gatherers’, or that of other hominins, chimpanzees, bonobos, apes. Our bodies can feel and act and be in religious ways because the embodiment that eventually became our embodiment was responding to environmental pressures (biological and cultural) to flourish. Many of these developments occurred as nature pressured our ape line to become more social, and the unprecedented numbers of members living together in close proximity. Social cohesion had to be maintained and promoted, but the tried-and-true method of grooming was no longer possible because it was time-prohibitive. Certain rituals, like dancing, were capable of producing the same pharmacological effects in its practitioners, and hunter-gatherers eventually began to practice them with more regularity, especially as their group sizes grew.

Những lời “Này là thân thể ta” được nói trong Thánh Lễ đã thôi thúc tôi đến với hành trình thực hiện hai phần trong loạt bài này , tìm hiểu nguồn gốc của tôn giáo. Tôi luôn đặt trọng tâm vào việc tìm hiểu những biểu hiện bên trong – của chúng ta, của Chúa Jesus, của những con chiên đi theo Ngài, của tổ tiên cổ đại của người Do Thái, của người săn bắt hái lượm, hay của loài người cổ, loài tinh tinh, loài vượn bonobos, hay các loài linh trưởng khác (chimpanzees, bonobos, apes). Cơ thể chúng ta có thể cảm nhận, hành động và bị cuốn hút theo các nghi lễ tôn giáo, bởi rốt cuộc thì đó chính là sự phản ứng của chúng ta trước áp lực môi trường (sinh học và văn hóa), từ đó chúng ta có thể tiếp tục phát triển. Nhiều cách biểu hiện đã được hình thành khi áp lực từ cuộc sống tự nhiên khiến dòng linh trưởng chúng ta trở nên gắn kết hơn, và số lượng các cá thể quần tụ chung sống thành bầy đàn gần gũi nhau trở nên đông hơn nhiều so với trước. Sự gắn kết xã hội cần phải được duy trì, phát triển, nhưng hình thức kết thân bằng cách chải lông, đụng chạm cơ thể không còn hiệu quả bởi nó vấp phải hạn chế về mặt thời gian. Một số nghi thức như nhảy múa có khả năng tạo ra các hiệu ứng dược lý tương đương, cho nên những người săn bắn hái lượm cuối cùng bắt đầu thực hành chúng thường xuyên đều đặn hơn, đặc biệt là khi số lượng các thành viên nhóm tăng cao.

Eventually hunter-gatherers set down roots in permanent settlements, which required even more prosocial behaviour management to alleviate the stresses of group living. Given the human brain’s evolved ability for agency detection and intuitive morality, quasi-formal religion quite naturally emerged. These seeds became institutionalised throughout the Neolithic Revolution, which laid the groundwork for the so-called Axial Age to occur. The major ideas of this period – from Confucianism to Judaism and Ancient Greek philosophy – are still with us today.

Cuối cùng, người săn bắn hái lượm quyết định dừng chân, sinh sống tại một địa điểm cố định nào đó, và do vậy họ cần phải có cơ chế quản lý hành vi xã hội chặt chẽ hơn để xoa dịu căng thẳng có thể phát sinh giữa các thành viên. Với bộ não con người đã tiến hóa, có khả năng nhận ra nhân tố siêu nhiên và có trực giác đạo đức, thì tôn giáo tương đối chính thống được tiếp thu khá tự nhiên. Những hạt giống này đã được thể chế hóa trong suốt cuộc Cách mạng Thời Đồ Đá Mới, tạo nền tảng cho cái gọi là Thời Trục. Những hệ tư tưởng chính của thời kỳ này – từ Nho giáo, Khổng giáo đến Do Thái giáo và triết học Hy Lạp cổ đại – vẫn còn sức ảnh hưởng đối với chúng ta ngày nay.

At least that’s one way to tell the story. There are others, and perhaps some of these get the story more correct. Human knowledge – especially about our past – is constantly evolving, and therefore our theories are constantly being confirmed, fine-tuned, or left behind. No matter what we learn about religion’s past, though, we can be sure that our religious way of being has deep historical roots in our evolutionary lineage.

Ít nhất thì đây là một cách để kể câu chuyện về lịch sử tôn giáo. Có những câu chuyện khác, và có lẽ một vài trong số đó chính xác hơn câu chuyện này. Kiến thức của con người – đặc biệt về quá khứ của chúng ta – là không ngừng phát triển, và do đó, các học thuyết của chúng ta liên tục được xác nhận, tinh chỉnh, nếu không sẽ bị rơi vào quên lãng. Bất kể là ta học được những gì từ lịch sử tôn giáo, chúng ta có thể chắc chắn rằng lối sống với niềm tin tôn giáo của chúng ta có gốc rễ lịch sử sâu rộng trong quá trình phát triển của nhân loại.

But what about religion’s future? Some people argue that since we know how and why religion evolved, we’re now able to leave behind such childish, primitive things.

Nhưng tôn giáo trong tương lai sẽ như thế nào? Một số người cho rằng bởi chúng ta đã biết làm thế nào và tại sao tôn giáo phát triển, cho nên giờ đây chúng ta có thể loại bỏ những điều mang tính sơ khai, bản năng đó đi.

The emergence of art, architecture and writing brought new expressions of religious beliefs. – Sự xuất hiện của nghệ thuật, kiến trúc và chữ viết đã mang đến những cách thể hiện mới về đức tin tôn giáo. (Credit: Getty Images)

Some even argue that it’s in our best interest to do so because religion, like a virus, has infected our species and caused us to enact horrible atrocities the world over. Better to leave it to science and rationality to help us forge our way ahead. But this perspective is shortsighted. For one thing, science itself is not neutral, and it has facilitated some of the worst modern phenomena, including eugenics, the atomic bomb, and drone warfare. Should we also leave science behind because of its checkered history? Of course not.

Một số người thậm chí còn cho rằng điều đó sẽ mang lại lợi ích tốt nhất cho chúng ta, bởi tôn giáo, giống như virus, đã lây nhiễm toàn nhân loại và khiến chúng ta thực hiện những hành động tàn ác khủng khiếp trên toàn thế giới, và rằng tốt hơn hết là phải dựa vào khoa học và lý trí để giúp chúng ta mạnh mẽ phát triển. Nhưng đây là cái nhìn thiển cận. Bản thân khoa học không phải là trung lập; nó đã tạo điều kiện cho một số tai họa tồi tệ nhất xảy ra, trong đó có thuyết ưu sinh, bom hạt nhân và cuộc chiến của các thiết bị bay tự động. Liệu chúng ta có nên loại bỏ khoa học lại phía sau vì lịch sử đầy biến động của nó? Tất nhiên là không.

Our criticisms of human institutions shouldn’t blind us to the positive contributions those institutions have made across the globe. None of us should deny either the ugliness or nobility found in the deep history of religion. Instead, we should acquaint ourselves with that history, appreciate it where can, interrogate it where we ought, and, with both eyes open, trek on toward the future opening up before us.

Chúng ta không nên bị che mờ mắt bởi những chỉ trích mà nên chú ý tới những đóng góp tích cực mà các thể chế của loài người đã thực hiện trên toàn cầu. Không một ai nên phủ nhận sự xấu xí hay cao đẹp được tìm thấy trong lịch sử sâu xa của tôn giáo. Thay vào đó, chúng ta nên chấp nhận đoạn lịch sử đó, trân trọng và đặt câu hỏi có chọn lọc, và, với thái độ cởi mở cầu thị, thận trọng bước đi trên con đường tương lai.

Whatever that future ends up being, at the moment it looks like humans will be there, at least in some form. And we’ll be there with our hopes and our fears and our feelings and social norms and our bouts of play and our questions – all of the same capacities that came together in just the right way to allow religion to emerge and replicate and flourish across the entire planet. Religion is so bound up with everything we know about our species that it seems near impossible to imagine a future human without any religious sensibilities.

Dù tương lai có ra sao, thì vào lúc này có vẻ như nơi đó sẽ luôn có sự hiện diện của con người, ít nhất là dưới một hình thức nào đó. Và chúng ta sẽ hiện diện cùng những hy vọng, sợ hãi, những cảm xúc và chuẩn mực xã hội, cả những trò chơi và những câu hỏi của chúng ta – tất cả những thứ đó khi kết hợp đúng cách sẽ khiến tôn giáo xuất hiện, nhân rộng và phát triển trên toàn bộ hành tinh. Tôn giáo thật sự gắn bó với tất cả những gì chúng ta biết về giống loài của mình, đến mức hầu như không thể tưởng tượng được việc loài người trong tương lai không còn có bất kỳ cảm xúc tôn giáo nào.

“I’m sceptical that religion will disappear,” says the primatologist Frans de Waal. “I don’t think that’s a realistic option for the human species. Maybe it can be replaced by something better, but it cannot disappear.”

“Tôi không cho rằng tôn giáo sẽ biến mất,” nhà nghiên cứu linh trưởng Frans de Waal nói. “Tôi không nghĩ đó là một lựa chọn thực tế cho loài người. Tôn giáo có lẽ sẽ được thay thế bằng một thứ gì đó tốt hơn, nhưng nó không thể biến mất.”

One of the better somethings, for many people, seems to be religion sans doctrine or hierarchy. Many researchers have noted that at the same time Church attendance in the West has declined, there’s been a noticeable increase in spirituality. Hence, the so-called Spiritual But Not Religious (SBNR) phenomenon.

Đối với nhiều người thì một trong những ‘thứ gì đó tốt hơn’ rất có thể chính là thứ tôn giáo không giáo lý hoặc phân chia thứ bậc. Nhiều nhà nghiên cứu đã lưu ý rằng cùng lúc với tình trạng số người đi lễ nhà thờ ở phương Tây giảm xuống là sự gia tăng đáng chú ý về số người có niềm tin tâm linh. Điều này được gọi là hiện tượng Duy Tâm Phi Tôn Giáo (SBNR – Spiritual But Not Religious).

Spirituality in this sense has been defined by one researcher as “a personalised, subjective commitment to one’s values of connection to self, others, nature, and the transcendent”. In a 2017 survey across 15 Western countries, for example, 64% of SBNRs said even though they didn’t believe in God as described in the Bible, they believed in a higher power.

Tâm linh theo nghĩa này, được xác định bởi một nhà nghiên cứu, là “một cam kết cá nhân mang tính chủ quan đối với các giá trị kết nối với bản thân, với những người khác, với tự nhiên và thế giới siêu nhiên.” Chẳng hạn, trong một cuộc khảo sát năm 2017 trên 15 quốc gia phương Tây, 64% những người có niềm tin tâm linh nhưng không theo một tôn giáo nào cho biết mặc dù họ không tin vào Chúa như được mô tả trong Kinh Thánh, nhưng họ tin vào một đấng quyền năng cao hơn.

Evolutionary psychology may explain why “spiritual but non-religious” behaviours continue in modern society. – Tâm lý học tiến hóa có thể giải thích tại sao các hành vi mang tinh chất “tâm linh nhưng không tôn giáo” vẫn tiếp tục trong xã hội hiện đại. (Credit: Getty Images)

Some have referred to the SBNR trend as yet another example of DIY culture: practice whatever helps you achieve a sense of union with the transcendent. It’s not surprising, then, that yoga, meditation, and crystal healing have been gaining in popularity.

Một số người đã đề cập đến xu hướng SBNR như một ví dụ khác về văn hóa ‘tự xử’ (DIY – Do It Yourself): thực hành bất cứ điều gì giúp bạn đạt được cảm giác hợp nhất với thế giới siêu nhiên. Vậy nên không có gì đáng ngạc nhiên khi yoga, thiền và phương pháp trị liệu bằng pha lê đã trở nên phổ biến.

It’s also worth noting that the majority of American Christians hold at least one “New Age belief” (for example, a belief in reincarnation or astrology), according to another Pew study. Which means even those who participate in traditional religions may go about it non-traditionally. Without a doubt, these syncretistic trends attest to the processes of globalisation.

Theo một nghiên cứu khác của Pew, đáng chú ý là phần lớn những người Mỹ theo Kitô giáo theo đuổi ít nhất một “niềm tin vào Thời đại Mới” (ví dụ, tin vào thuyết luân hồi hoặc thuật chiêm tinh). Điều đó có nghĩa là ngay cả những người có đức tin vào các tôn giáo truyền thống cũng có thể đi theo hướng phi truyền thống. Không nghi ngờ gì, những xu hướng này đang minh chứng cho quá trình toàn cầu hóa. 

Paul Tillich, one of the most famous 20th Century theologians, developed a theology of correlation: the answers religion has to offer should correspond to the questions that a culture is asking. If it fails at this endeavour, then it becomes irrelevant. Much of the loudest theology preached by the loudest practitioners of religion seems to have failed in precisely this way. So many people have decided to take their questions elsewhere.

Paul Tillich, một trong những nhà thần học nổi tiếng nhất Thế kỷ 20, đã phát triển thuyết thần học tương quan: những câu trả lời mà một tôn giáo đưa ra phải tương xứng với những câu hỏi mà một nền văn hóa đặt ra. Nếu thất bại ở nỗ lực này thì tôn giáo đó trở nên xa vời, không thích hợp cho nền văn hoá đó. Hầu hết những nội dung thần học ồn ào nhất được rao giảng bởi các nhà truyền giáo nổi tiếng nhất dường như đều thất bại theo đúng cách này. Cho nên nhiều người đã quyết định chuyển hướng các câu hỏi của mình tới nơi khác.

But the questions remain. As do we – human animals whose brains “have been designed to blur the line between self and other”, as de Waal puts it. We’re always going to seek out activities – trance dance, prayer, communion – that remind us of and enhance this blur.

Nhưng các câu hỏi thì vẫn còn tồn tại. Chúng ta – loài động vật bậc cao có bộ não “được thiết kế để xoá nhoà đi ranh giới giữa bản thân và những người khác,” như de Waal nói – cũng vậy. Chúng ta luôn luôn tìm kiếm các hoạt động – như hầu đồng, cầu nguyện, làm lễ thông công – những hoạt động giúp ta nhớ tới, đồng thời cũng giúp đẩy mạnh sự xoá nhoà ranh giới đó.

At the centre of religion, says Dunbar, is a mystical concern with belonging – a concern that predates and will outlive Homo sapiens, who will, in the end, be said to have occupied a narrow sliver of time and space in the great cosmic story of the universe.

Nằm ở tâm điểm tôn giáo, Dunbar nói, là mối quan tâm thần bí về chuyện ta thuộc về cái gì – mối quan tâm vốn đã tồn tại từ trước khi xuất hiện của loài người thông minh Homo sapiens và sẽ tồn tại lâu hơn loài người đó, loài được cho là đã chiếm giữ được một khoảng thời gian và không gian nhỏ hẹp trong câu chuyện vĩ đại bao la của vũ trụ.

Brandon Ambrosino has written for the New York Times, Boston Globe, The Atlantic, Politico, Economist, and other publications. He lives in Delaware. This is the second of a two-part special examining the evolutionary roots of religion.

Brandon Ambrosino viết bài cho New York Times, Boston Globe, The Atlantic, Politico, Economist và các báo khác. Ông sống tại Delaware. Đây là phần thứ hai của loạt bài đặc biệt gồm hai phần, tìm hiểu về cột rễ phát triển của tôn giáo.