LINH HỨNG VÀ CHÂN LÝ THÁNH KINH (II)

Bài 2 / 2 trong loạt bài LINH HỨNG VÀ CHÂN LÝ THÁNH KINH

PHẦN THỨ HAI: CHỨNG TỪ CỦA CÁC TRƯỚC TÁC KINH THÁNH VỀ SỰ THẬT CỦA CHÍNH CHÚNG

62. Trong phần thứ hai của tài liệu này, chúng ta xem xét cách các trước tác Kinh Thánh làm chứng cho sự thật trong sứ điệp của chính chúng. Sau khi giới thiệu chủ đề này, chúng ta sẽ trình bày trong tiết đầu về cách các bản văn Cựu Ước, khi chuẩn bị mặc khải Tin Mừng (xem Dei Verbum {DV}, 3), trình bày ra sao sự thật được Thiên Chúa mặc khải; trong tiết hai, chúng ta sẽ trình bày cách các bản văn được chọn trong Tân Ước đề cập đến vấn đề sự thật được Chúa Giêsu Kitô mặc khải, Đấng dẫn dắt sự mặc khải thần thiêng đến chỗ nên trọn của nó (xem DV, 4).

1. Dẫn nhập

Khi đề cập đến chủ đề của phần thứ hai này, trước tiên chúng ta hãy xem xét cách Dei Verbum hiểu khái niệm sự thật Kinh Thánh, trước khi xác định sự nhấn mạnh theo chủ đề nào sẽ được dành ưu thế lúc khảo sát các bản văn Kinh thánh.

1.1 Sự thật Kinh Thánh theo Dei Verbum

63. Trong Kinh Thánh, sự thật của Lời Chúa được liên kết chặt chẽ với sự linh hứng của chúng: Thiên Chúa, Đấng lên tiếng, không thể lừa dối chính Người. Nhưng bất chấp việc tuyên bố về nguyên tắc này, nhiều cách diễn đạt các bản văn Kinh thánh quả tạo ra khó khăn. Các Giáo phụ đã ý thức được điều này, và ngay cả ngày nay, các vấn đề này vẫn tồn tại, như các cuộc thảo luận trong Công đồng Vatican II đã cho thấy. Các yếu tố sau đây có mục đích trình bày ý nghĩa của khái niệm “sự thật”, như Công đồng đã hiểu nó.

Các nhà thần học đã áp dụng vào Kinh Thánh khái niệm “không sai lầm” (inerrance). Nếu được hiểu theo nghĩa tuyệt đối của nó, thuật ngữ này có nghĩa: không thể có bất cứ sai lầm nào trong Kinh thánh. Nhưng với những khám phá đã dần dần được thực hiện trong lĩnh vực lịch sử, triết học và khoa học tự nhiên, và vì sự kiện áp dụng phương pháp phê bình lịch sử vào nghiên cứu Kinh thánh, các nhà chú giải đã phải công nhận rằng toàn bộ các bản văn tạo nên Kinh thánh không được phát biểu theo cách phù hợp với các đòi hỏi của khoa học đương thời, bởi vì các nhà soạn tác Kinh thánh tự phát biểu theo các giới hạn trong kiến thức bản thân, và hơn thế nữa, trong kiến thức của thời đại và nền văn hóa của họ. Công đồng Vatican II đã phải đối diện với vấn đề này lúc soạn thảo Hiến chế tín lý Dei Verbum.

Ở số 11 của Dei Verbum, chúng ta tìm thấy học thuyết truyền thống: “Giáo Hội, nhờ đức tin tông truyền, xác nhận rằng toàn bộ các sách Cựu Ước cũng như Tân Ước với tất cả các phần đoạn đều là Sách Thánh và được ghi vào quy điển Kinh Thánh, vì được viết ra dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần (xem Ga 20: 31; 2 Tm 3:16; 2 Pr 1: 19-21; 3: 15-16), chúng có Thiên Chúa là tác giả”. Hiến chế không đi sâu vào chi tiết các phương thức của linh hứng (xem Thông điệp của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII Providentissimus Deus), nhưng trong cùng số 11 này, Hiến chế nói: ” Vì mọi lời các tác giả được linh hứng, cũng gọi là thánh sử, đã viết ra là những điều được xác quyết bởi Chúa Thánh Thần, nên phải tuyên nhận rằng Kinh Thánh dạy ta cách chắc chắn, trung thành và không sai lầm về chân lý mà Thiên Chúa đã muốn Kinh Thánh ghi lại để cứu độ chúng ta. Bởi vậy ‘toàn bộ Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng và hữu dụng trong việc giảng giải, biện bác, sửa dạy, giáo dục để nên công chính: giúp cho người của Thiên Chúa trở nên toàn hảo và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành” (2 Tm 3:16-17: bản Hy Lạp).

Ủy ban Thần học đã loại bỏ biểu thức “sự thật cứu rỗi”, bằng cách du nhập một công thức dài hơn: “sự thật mà Thiên Chúa đã muốn Kinh Thánh ghi lại để cứu độ chúng ta ” (veritatem quam Deus nostrae salutis causa Litteris Sacris consignari voluit).Vì cùng Ủy ban Thần học này đã giải thích rằng câu chêm vào “để cứu độ” chúng ta có ý nói đến “sự thật”, điều này có nghĩa là: khi nói đến vấn đề “sự thật của Kinh thánh”, là có ý nói đến sự thật được sắp đặt để cứu rỗi chúng ta. Nhưng điều này không được diễn giải theo nghĩa một sự thật của Kinh thánh chỉ liên quan đến các phần Sách Thánh cần thiết cho đức tin và luân lý, loại bỏ các phần khác (một cách chính xác, biểu thức veritas salutaris của sơ đồ thứ tư không được duy trì để tránh cách giải thích như vậy). Biểu thức “sự thật mà Thiên Chúa đã muốn Thánh Kinh ghi lại để cứu độ chúng ta” đúng hơn có nghĩa là: các sách Kinh thánh, với tất cả các phần của chúng, bao lâu chúng được Chúa Thánh Thần linh hứng và có Thiên Chúa là tác giả, đều tìm cách truyền đạt sự thật bao lâu nó liên quan đến sự cứu rỗi của chúng ta, một điều, trong thực tế, vốn là mục đích Thiên Chúa tự mặc khải chính Người.

Để xác nhận luận điểm này, Dei Verbum trích dẫn, tại số 11, không những 2 Tm 3:16-17, mà còn, trong ghi chú 21, De Genesi ad litteram 2.9.20 và Epistula 82, 3 của Thánh Augustinô, các bản văn trong đó tác giả này loại bỏ khỏi giáo huấn Kinh thánh tất cả những gì không hữu ích cho sự cứu rỗi của chúng ta. Thánh Tôma, dựa trên trích dẫn thứ nhất của Thánh Augustinô, tuyên bố trong De Veritate q. 12, a. 2: Illa vero, quae ad salutem pertinere non possunt, sunt extranea a materia prophetae (“Tuy nhiên, những điều không liên quan đến sự cứu rỗi không thuộc về bản thể của lời tiên tri”).

64. Do đó, ở đây có ý nói đến việc hiểu biểu thức “sự thật cho sự cứu rỗi của chúng ta”, trong bối cảnh của Dei verbum. Chỉ hiểu thuật ngữ “sự thật” theo nghĩa phổ biến của nó là điều không đủ: khi nói đến sự thật Kitô giáo, ý niệm này được phong phú hóa bằng ý nghĩa Kinh thánh về sự thật, và hơn thế nữa bằng cách sử dụng nó của Công đồng trong các văn kiện khác. Trong Cựu Ước, chính Thiên Chúa là chân lý cao nhất, bởi tính không thay đổi trong các lựa chọn, các lời hứa và các hồng phúc của Người; các lời Người nói đều đúng sự thật, và đòi hỏi một sự không thay đổi giống hệt nhau trong việc tiếp nhận và đáp trả của con người, một đáp trả của trái tim cũng như một đáp trả của hành động (xem, thí dụ 2 Sm 7:28, Tv 3 &, 6). Sự thật là nền tảng của giao ước. Trong Tân Ước, chính Chúa Kitô là sự thật, vì Người là Amen nhập thể của mọi lời hứa của Thiên Chúa (xem 2 Cr 1:19-20), và vì Người là “đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14: 6), mặc khải Chúa Cha (xem Ga 1:18) và cho ta đường dẫn tới Người (x. Ga 14:6), Đấng là nguồn tối hậu của sự sống (x. Ga 5:26; 6:57). Chúa Thánh Thần mà Chúa Kitô ban là Thần chân lý (x. Ga 14:17; 15:24; 16:13), Đấng sẽ nâng đỡ chứng từ của các Tông Đồ (x. Ga 15:26-27) và sự vững vàng trong đáp trả đức tin của chúng ta. Do đó, sự thật có một chiều kích Ba Ngôi, nhưng chủ yếu là Kitô học, và Giáo hội, người công bố nó, là “trụ cột và chống đỡ sự thật” (1 Tm 3:15). Do đó, Chúa Kitô là Đấng mặc khải và là đối tượng của sự thật để cứu rỗi chúng ta, được Cựu Ước công bố: sự thật được tỏ hiện trong Tân Ước trong con người của Người, và trong Vương quốc, cả hiện tại lẫn cánh chung, mà Người đã công bố và khai mở. Do đó, khái niệm sự thật, theo cách hiểu của Công đồng Vatican II, có thể được giải thích trong bối cảnh Ba Ngôi, Kitô học và giáo hội này (xem Dei Verbum, các số 2, 7, 8, 19, 24; Gaudium et Spes số 3, Dignitatis humanae số 11): Người Con đích thân mặc khải Chúa Cha, và sự mặc khải của Người được Chúa Thánh Thần thông đạt và xác nhận và được truyền đạt cho Giáo hội.

1.2 Trọng tâm nghiên cứu của chúng ta về sự thật Kinh Thánh

65. Việc nghiên cứu của chúng ta về chủ đề “sự thật Kinh Thánh”, một nghiên cứu sẽ được thực hiện khởi đi từ một số bản văn Kinh thánh, sẽ dựa vào giáo huấn và sự hướng dẫn của Dei Verbum, như chúng ta vừa được xác định. Trước tiên chúng ta hãy trích dẫn các câu kết luận ở số 2 của Dei Verbum về sự mặc khải: ” nhờ mạc khải này, chân lý thâm sâu về Thiên Chúa cũng như về công cuộc cứu độ con người được bày tỏ cho chúng ta trong Chúa Kitô, Đấng vừa là trung gian vừa là sự viên mãn của toàn thể mạc khải” ( Xem Mt 11: 27; Ga 1:14,17; 14: 6; 17: 1-3; 2 Cr 3: 16 và 4: 6; Ep 1: 3-14).

Không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự thật nằm ở trung tâm của mặc khải, và do đó ở trung tâm của Kinh thánh, vốn là dụng cụ truyền tải mặc khải (xem DV các số 7-10), liên quan tới Thiên Chúa và sự cứu rỗi của con người. Và không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự viên mãn của sự thật này được tỏ lộ bởi và trong Chúa Kitô. Người đích thân là Lời của Thiên Chúa (x. Ga 1,1,14) xuất phát từ Thiên Chúa và mặc khải Thiên Chúa. Người không chỉ nói lên sự thật về Thiên Chúa, mà Người còn là sự thật về Thiên Chúa, Người là Đấng đã nói: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14:9; xem Ga 12:45). Sự xuất hiện của Chúa Con cũng mặc khải sự cứu rỗi của con người: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Người Con duy nhất của Người để bất cứ ai tin vào Người Con này sẽ không hư mất, nhưng sẽ được sự sống đời đời” (Ga 3: 16).

Do đó, sự chú ý trong nghiên cứu của chúng ta về sự thật của các trước tác Kinh thánh sẽ tập trung vào hai chủ đề liên quan chặt chẽ này: điều các trước tác nói về Thiên Chúa và điều chúng nói về dự án của Thiên Chúa nhằm cứu rỗi con người. Sự viên mãn của mặc khải và cứu rỗi được Chúa Kitô mang đến; nhưng sự xuất hiện của Người được chuẩn bị bằng một cuộc mặc khải thần thiêng lâu dài được các trước tác của Cựu Ước chứng thực. Do đó, điều thích đáng là phải chú ý đến điều các trước tác này khẳng định về Thiên Chúa và về sự cứu rỗi, vì biết rằng sự mặc khải trọn vẹn về điều chúng chứng thực đã được thực hiện trong con người và công trình của Chúa Kitô. Mặc khải không giới hạn ở kỳ hạn của nó: con đường dẫn đến nó và sự chuẩn bị cho nó tạo thành một phần thiết yếu của nó.

2. Chứng từ của các trích đoạn chọn lựa từ Cựu Ước

66. Trong rất nhiều các bản văn Kinh thánh, chúng ta chọn một số cuốn sách có lưu ý đến sự đa dạng trong các thể loại văn chương, và đến đặc điểm quyết định của chúng đối với chủ đề được bàn. Nhiều chủ đề trung tâm sẽ được nghiên cứu. Chúng liên quan đến Thiên Chúa và sự cứu rỗi, như đã được chứng thực trong các câu chuyện về sáng thế (St 1-2), mười giới răn, các sách lịch sử và các sách tiên tri, các Thánh vịnh, Diễm ca và các trước tác khôn ngoan. Mặc dù Cựu Ước là một sự chuẩn bị cho đỉnh cao mạc khải của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô, việc xem xét chiều rộng, sự đa dạng và phong phú của các bản văn của nó đã dẫn chúng ta đến chỗ nghiên cứu một số lượng lớn các đoạn văn Cựu Ước, nếu chúng ta so sánh độ lớn của chúng với các bản văn Tân Ước sẽ được nghiên cứu. Ý định của chúng ta ở đây là chứng tỏ cách các bản văn khác nhau đóng góp vào sự mặc khải của Thiên Chúa và sự cứu rỗi mà Người mang tới, và do đó giúp đào sâu việc thấu hiểu các khái niệm này.

2.1 Những câu chuyện về sáng thế (St 1-2)

67. Những trang đầu của Kinh thánh, tức các trang có những câu chuyện thường được gọi là “trình thuật sáng thế” (St 1-2), chứng thực đức tin vào một Thiên Chúa, Đấng là nguồn gốc và là kết thúc của mọi sự. Trong tư cách “những trình thuật sáng thế”, chúng không tìm cách chứng tỏ sự khởi đầu của thế giới và con người đã xẩy ra “cách” nào, nhưng chúng nói về Đấng Tạo Hóa và mối liên hệ của Người với sáng thế và với tạo vật. Người ta sẽ phạm các sai lầm nghiêm trọng khi đọc các câu chuyện cổ xưa này theo con mắt đương thời và coi chúng như các quả quyết về việc dựng nên thế giới và con người “cách nào”. Cần phải thách thức việc đọc như vậy để làm sáng tỏ một cách thỏa đáng hơn ý định của các bản văn Kinh thánh, và để tránh đưa các tuyên bố của chúng cạnh tranh với kiến thức khoa học tự nhiên của thời đại chúng ta. Điều này không mâu thuẫn với ý định của Kinh Thánh là truyền đạt sự thật, vì sự thật của các câu chuyện trong Kinh thánh về sáng thế liên quan đến sự gắn bó chặt chẽ, nặng ý nghĩa, về thế giới tạo dựng, như Thiên Chúa đã đặt để nó. Nhờ cấu trúc soạn thảo rất công phu của nó, trình thuật đầu tiên về nguồn gốc (St 1,1-2,4a) mô tả, không phải cách thế giới đã trở thành như thế nào, mà là tại sao và vì mục đích gì mà thế giới đã được tạo ra như nó hiện nay. Bằng một văn phong thi ca và dùng các hình ảnh đương thời của mình, tác giả của St 1,1-2,4a cho thấy: Thiên Chúa là nguồn gốc của vũ trụ và con người. Thiên Chúa Sáng Tạo, mà Kinh thánh nói đến, hướng về tạo vật để bước vào mối liên hệ với nó, đến nỗi cả cách tạo dựng ra nó, như đã được mô tả trong Kinh thánh, cũng nhấn mạnh đến mối liên hệ này. Khi tạo ra con người “theo hình ảnh của chính mình” và giao cho họ sứ mệnh chăm sóc sáng thế, Thiên Chúa biểu lộ ý muốn cứu độ nền tảng của Người.

Các yếu tố căn bản của sự hiện hữu nhân bản nằm ở tâm điểm câu chuyện ở St 1, đạt đến đỉnh cao trong lời khẳng định có tính nhân học rằng con người là “hình ảnh của Thiên Chúa”, nghĩa là phụ tá của Người trong việc sáng tạo. Theo câu chuyện, công việc đầu tiên của Thiên Chúa sáng tạo bao gồm việc tạo ra thời gian (xem St 1:3-5), được sắp đặt bởi sự xen kẽ ánh sáng và bóng tối. Câu chuyện không tìm cách mô tả một cách chính xác thời gian hệ ở điều gì. Khi phân chia các công trình sáng tạo khác nhau thành sáu ngày, Người không tìm cách khẳng định, như một sự thật của đức tin, rằng thế giới thực sự được hình thành trong sáu ngày, trong khi vào ngày thứ bảy, Chúa nghỉ ngơi. Đúng hơn, câu chuyện tìm cách cho thấy rằng có một trật tự và một mục đích trong việc sáng thế. Con người có thể và phải tự lồng mình vào trật tự này, để, qua diễn biến từ việc làm qua nghỉ ngơi, họ nhận ra rằng thời gian mà Thiên Chúa đã sắp đặt gúp họ tự hiểu về mình như một tạo vật mang nợ ơn mình hiện hữu nơi Đấng Tạo hóa.

Qua mọi công trình sáng tạo, chính ý nghĩa của toàn bộ sáng thế được triển khai và mục đích của nó được biểu lộ. Như đã nói, toàn bộ câu chuyện đều hướng về con người. Do đó, câu chuyện sáng thế không tìm cách đưa ra một định nghĩa vật lý về khái niệm không gian, mà là trình bày nó như một “không gian sống” của con người và chứng tỏ ý nghĩa của nó. Nhiệm vụ “khuất phục” trái đất (St 1:28) thực sự là một ẩn dụ nói lên trách nhiệm của con người đối với không gian sống của họ, vốn có chung giữa họ và các động vật và thực vật.

Hai câu chuyện về nguồn gốc (St 1:1-2,4a; St 2: 4b-25) giới thiệu toàn bộ Qui điển Kinh thánh Do Thái, và cả Kinh thánh Kitô giáo nữa. Sử dụng những hình ảnh khác nhau, chúng tìm cách phát biểu cùng một sự thật: thế giới tạo dựng là một ơn ban của Thiên Chúa và là dự án của Người nhắm phúc lợi của con người (xem St 2:18), như đã được chứng tỏ bởi việc sử dụng thường xuyên tĩnh từ “tốt” (xem St 1: 4-31). Vì thế, nhân loại được định vị trong một “liên hệ sáng thế” với Thiên Chúa: ơn ban nguyên thủy và nhưng không của Tạo hóa kêu gọi đáp trả của con người.

2.2 Mười Điều Răn (Xh 20:2-17 và Đnl 5:6-21)

68. Hai bản Mười Điều Răn của Xh 20:2-17 và Đnl 5:6-21 giới thiệu các bộ sưu tập lập pháp khác nhau được tập hợp lại, một mặt, trong các sách Xuất hành, Lêvi và Dân số (xem Xh 19: 1-Ds 10:10) và mặt khác, trong sách Đệ nhị luật (xem Dt 12-26). Các bản văn này có hình thức một diễn từ của Chúa (GIAVÊ), ngỏ với Israel hoặc ở ngôi thứ nhất hoặc qua trung gian Môsê. Hình thức văn chương này mang lại cho các bản văn này một tư thế thẩm quyền rất mạnh mẽ. Các bản Mười Điều Răn đặt thành tương quan bản tóm tắt đức tin của Israel (Xh 20,2 = Đnl 5,6) – có nhắc đến những câu chuyện Xuất hành – và mặt khác, tập hợp các quy định về văn hóa và đạo đức. Hai bản Mười Điều Răn có nhiều điểm chung với nhau, và, đồng thời, mỗi bản đều có một đặc điểm thần học chuyên biệt: trong khi bản Mười Điều Răn của Xh 20 chủ yếu triển khai một nền thần học về sáng thế, thì bản Mười Điều Răn của Đnl 5 chủ yếu nhấn mạnh đến nền thần học cứu rỗi.

Nhờ cấu thành các tổng hợp thần học rất công phu, hai bản Mười Điều Răn có thể được coi như “các bản tóm tắt” kinh Tôra, và cung cấp các chìa khóa thần học cho phép ta giải thích chúng cách chính xác.

a. Cấu trúc văn chương của hai bản Mười Điều Răn

Việc trình bầy các bản Mười Điều Răn (Xh 20,2 = Đnl 5,6) định nghĩa Thiên Chúa (GIAVÊ) như Thiên Chúa Cứu thế trong lịch sử: Thiên Chúa của Israel tự làm cho mình được biết đến bằng công trình cứu rỗi mà Người thực hiện cho dân Người. Bài trình bày có tính thuật chuyện này về Thiên Chúa của Israel như vị cứu tinh dân Người đã tóm tắt toàn bộ phần thứ nhất của sách Xuất hành: công thức tự xưng mình của Chúa trong Xh 3:14 – “Ta là Đấng Ta là/sẽ là” – dẫn nhập một câu chuyện dài về việc giải phóng Israel (xem Xh 4-14). Chúa mặc khải căn tính thực sự của Người bằng cách mang đến cho dân Người ơn cứu rỗi. Do đó, ơn của Thiên Chúa tạo nền tảng cho các quy định lập pháp được tập hợp trong các bản Mười Điều Răn. Ơn của Thiên Chúa này bao gồm việc giải phóng ban cho Israel, giải thoát khỏi ách nô lệ ở Ai Cập. Các luật của các bản Mười Điều Răn lần lượt nói lên các phương thức Israel đáp trả hồng ơn của Thiên Chúa: Israel, được Thiên Chúa giải phóng, giờ đây, phải bước vào con đường tự do này, bằng cách từ bỏ các ngẫu tượng và sự ác (về điểm này, xin xem Ủy ban Kinh thánh Giáo hoàng, Kinh thánh và Luân lý: Các Gốc rễ Kinh thánh của hành động Kitô hữu, 2008, số 20).

Phần đầu tiên của bản văn trình bày các điều cấm liên quan đến việc thờ ngẫu tượng, tạo hình ảnh, và mời gọi tuân giữ một chủ nghĩa độc thần nghiêm ngặt (xem Xh 20:3-7 = Đnl 5:7-11). Từ bỏ các ngẫu tượng dẫn đến việc chấp nhận một sự thờ phượng độc quyền dành riêng cho Chúa và chấp nhận một giao ước dứt khoát với Người: Chúa là vị cứu tinh duy nhất của dân, là Thiên Chúa duy nhất đích thực.

Hai Điều Răn tích cực của Mười Điều Răn liên quan đến ngày Sabát và việc kính trọng cha mẹ (xem Xh 20:8-12 và Đnl 5:12-16). Ngày Sabát có thể được định nghĩa là “cung thánh của Thiên Chúa” trong thời gian và lịch sử. Qua việc tôn trọng ngày Sabát, Israel chứng tỏ rằng chỉ có Chúa mới có thể mang lại ý nghĩa cho lịch sử của con người.

Phần cuối của bản văn bản Mười Điều Răn liên quan đến việc thiết lập mối tương quan đúng đắn với người lân cận (xem Xh 20:13-17 và Đnl 5:17-21). Sự kiện từ bỏ bất cứ dự án cướp bóc hay thèm muốn nào đối với người lân cận là điều kiện không thể miễn chước để xây dựng một cộng đồng thực sự, và làm chứng cho khả thể chiến thắng của tình yêu huynh đệ đối với bạo lực.

b. Bình luận và các hệ luận thần học

69. Các bản Mười Điều Răn đề xuất cho Israel một con đường để tuân phục Luật được Thiên Chúa mặc khải tại Sinai (Hôrép). Dự án của Thiên Chúa kêu gọi đáp ứng của con người, trong bối cảnh một giao ước (xem Xh 24:7-8, Đnl 5:2-3).

Trong Tôra, các lề luật tiếp theo sau Mười Điều Răn, triển khai nội dung của nó. Việc cấm thờ ngẫu tượng là chủ đề quán xuyến (leitmotiv) của Đệ Nhị luật, trong khi lời kêu gọi sống cuộc sống huynh đệ được khai triển trong Luật thánh thiêng (Lv 17-26) và lên tuyệt đỉnh ở lời mời gọi yêu người lân cận, nghĩa là, không những các thành viên của cộng đồng Israel, mà cả người xa lạ thường trú nữa (xem Lv 19:18.34).

Các bản Mười Điều Răn cho thấy cách Thiên Chúa Tạo Hóa cũng tỏ mình ra như một vị cứu tinh trong lịch sử và mời tất cả các thành viên của cộng đồng, đến lươt họ, tham gia luận lý học cứu rỗi này bằng cách thực thi một nền đạo đức cộng đồng đòi hỏi khắt khe. Giao ước với Thiên Chúa Tạo Hóa và Cứu Tinh dẫn các tín hữu đến chỗ “sống phù hợp với sự thật”.

Các bản Mười Điều Răn cung cấp một chìa khóa giải thích toàn bộ Tôra, và có thể nói, tạo nên một “giáo lý” cho cộng đồng Israel. Giáo lý này cho phép người Do Thái khẳng định đức tin của họ vào một Thiên Chúa đích thực duy nhất, bằng cách giáp mặt với những thách thức của lịch sử và tham gia vào đời sống cộng đồng huynh đệ, bằng cách từ bỏ các chiến lược quyền lực và bạo lực. Nói cách khác, các bản Mười Điều Răn kết hợp sự khẳng định một sự thật liên quan đến chính Thiên Chúa (Người là Đấng Tạo Dựng và Cứu Tinh), và một sự thật liên quan đến các phương thức của một cuộc sống công chính và ngay thẳng. Mối tương quan của Israel với Thiên Chúa xem ra không thể tách rời khỏi mối tương quan với người lân cận, đó là nơi tuyệt hảo để biểu lộ việc các tín hữu tuân theo sự thật đã được mặc khải.

2.3 Các sách lịch sử

70. Việc trình bày lịch sử Israel, như được các sách Kinh Thánh đề cập, đặc biệt là những cuốn sách “lịch sử” (Giôsuê, Thủ Lãnh, 1-2 Samuen, 1-2 Vua, 1-2 Sử Biên, Étra, Nơkhemi; 1-2 Macabê), không tạo thành một phép chép sử theo nghĩa hiện đại, hiểu như một ghi chép các sự kiện trong quá khứ theo thứ tự thời gian (chronique), càng khách quan càng tốt. Bất cứ nỗ lực giải thích nào đối với các câu chuyện lịch sử trong Kinh thánh theo quan điểm như vậy sẽ gặp nguy cơ đọc các bản văn một cách xa lạ đối với ý hướng của chúng, và không thu thập được đầy đủ ý nghĩa của chúng.

Việc trình bày của Kinh Thánh về lịch sử phát triển hài hòa trên nền tảng của thần học về sáng thế, nghĩa là, như đã được trình bầy trong các trang đầu tiên của Kinh thánh (xem số 67 ở trên), bao lâu lịch sử cho phép ta làm chứng cho kinh nghiệm về Thiên Chúa, và trong điều này cho thấy rằng chính Người hành động bằng cách cứu con người bên trong chính lịch sử (xem Gs 24). Do đó, phép chép sử của Kinh Thánh tìm cách cho thấy rằng ý chí cứu độ của Thiên Chúa có ý nghĩa hoàn toàn được sắp đặt vì lợi ích của nhân loại.

Các trình thuật lịch sử của Kinh Thánh không chỉ cho thấy các biến cố tích cực của lịch sử. Trái lại, chúng còn cho thấy, giữa các biến cố mâu thuẫn của con người, Thiên Chúa biểu lộ ý định không ngừng của Người ra sao để thể hiện việc cứu rỗi nhân loại. Theo cách này, lịch sử Kinh thánh (xem Tl 6:36; 2 Sm 22:28) mặc khải Người như “Vị cứu tinh”.

Mặt khác, sự thân mật của Thiên Chúa với con người, do các câu chuyện Kinh Thánh chứng thực, được trình bày như một lịch sử giao ước, bắt đầu là giao ước với Nôê, vì toàn nhân loại, tiếp theo là các giao ước có liên quan đến lịch sử Israel. Giao ước, mà Thiên Chúa cung ứng cho dân của Người, trong con người của Ápraham, và sau đó là giao ước được long trọng ký với Israel tại Núi Sinai, liên tục bị người dân vi phạm xuyên suốt lịch sử của họ, đến nỗi đặc điểm dứt khoát của nó duy nhất nối kết với việc trung thành với chính Thiên Chúa.

Do đó, chương trình thần học của phép chép sử Kinh thánh có thể được định nghĩa trước hết như là thần – học theo nghĩa đen của từ ngữ – diễn ngôn về Thiên Chúa, tìm cách biểu lộ sự trung tín của Thiên Chúa trong tương quan của Người với con người. Điều này được xác nhận trong việc loan báo một giao ước mới trong Grm 31: 31. Đó là giao ước của Thiên Chúa, Đấng, suốt trong lịch sử, đã dẫn dắt dân Người đến sự cứu rỗi bên cạnh Người và với Người.

2.4 Các sách tiên tri

71. Lời tiên tri trong Kinh Thánh chứng thực một cách đáng chú ý đặc biệt đối với việc Thiên Chúa tự mặc khải Người ra, vì lời nhân bản của các Tiên tri hoàn toàn trùng khớp với Lời của Thiên Chúa: “Chúa phán như thế” là một công thức điển hình của lối văn chương này. Đặc điểm chủ yếu của việc mặc khải này là nó can thiệp vào giữa lịch sử con người, các biến cố mà niên đại có thể kiểm chứng được, trong những lời lẽ được ngỏ cùng các nhân vật cụ thể, được nói ra bởi các tác nhân nhân bản mà tên, nguồn gốc và thời đại thường được biết đến. Kế sách vĩnh cửu của Thiên Chúa trong việc thiết lập với nhân loại một giao ước tình yêu (xem Dei Verbum 2) được các Tiên tri hiểu biết (xem Am 3: 7), và được các ngài công bố cho Israel và mọi quốc gia, để sự thật chân chính của Thiên Chúa và của lịch sử được biểu lộ cho mọi người.

Một số đặc điểm đặc trưng có thể được ấn định bên trong các lời lẽ tiên tri, rất phong phú và là các dấu chỉ sự khôn ngoan vô hạn của Thiên Chúa. Các đặc điểm này làm ta có thể vẽ ra khuôn mặt của Thiên Chúa chân thật và đóng góp vào sự gắn bó nhất trí của đức tin.

a. Thiên Chúa trung thành

Các tiên tri tiếp nối nhau trong lịch sử, theo lời hứa của Chúa: “Ta sẽ khiến một tiên tri trỗi dậy giữa anh em của chúng, một tiên tri như ngươi; Ta sẽ đặt lời nói của Ta vào miệng nó và nó sẽ nói với họ tất cả những điều Ta sẽ truyền cho nó”(Đnl 18:18). Trong một sự kế tục tiên tri, đặc sủng của Môsê (xem Đnl 18:15) được truyền đến những người, đến lượt họ, trở thành chứng nhân cho lòng trung tín của Thiên Chúa đối với giao ước của Người (xem Is 38:18-19; 49:7), chứng nhân cho lòng nhân từ trải dài qua hàng ngàn thế hệ (xem Xh 34:7, Đnl 5:10; 7:9; Grm 32:18). Thiên Chúa là nguồn gốc của phận người, người Cha mà từ đó sự sống phát sinh, không từ bỏ (xem Is 41:17, Hs 11:8) không quên các tạo vật của Người (xem Is 44:21; 54:10; Grm 31:20): “Một người phụ nữ có thể nào quên đứa con của mình không, không còn sự dịu dàng âu yếm đứa con trai của lòng dạ mình nữa không? Ngay cả khi người mẹ ấy quên nó đi nữa, Ta cũng sẽ không quên con” (Is 49:15).

Các Tiên tri, được Chúa không mệt mỏi gửi đến (xem, Grm 7:13.25; 11:7; 25:3-4, v.v.), là tiếng nói, có thẩm quyền, nhắc nhớ sự hiện diện vĩnh viễn của Thiên Chúa đích thực trong lịch sử nhân loại đầy những điều bất ngờ (xem Is 41:10; 43:5; Grm 30:11). Các ngài tuyên bố: “Ngài sẽ bày tỏ lòng thành tín cho Giacóp, và tình thương cho Ápraham, như đã thề với tổ phụ chúng con từ thuở trước” (Mk 7:20).

Do đó, sự thật của Chúa có thể so sánh với sự thật của Núi Đá (xem Is 26:4), hoàn toàn đáng tin cậy (xem Đnl 32,4); Đấng kiên định với các lời nói của mình, sẽ giữ vững (xem Is 7:9), mà không sợ bị mất (xem Hs 14:10).

b. Thiên Chúa công chính

72. Khi tự mặc khải, Thiên Chúa trung thành đòi sự trung thành, Thiên Chúa thánh thiện đòi người tham dự vào giao ước của Người phải nên thánh, như chính Người là Đấng thánh (xem Lv 19:2), Thiên Chúa công chính yêu cầu mỗi người bước đi trên con đường được lề luật vẽ lối (xem Đnl 6:25). Trong quá trình lịch sử, các Tiên tri là những người người loan báo công lý hoàn hảo, nền công lý được Thiên Chúa thực hiện (xem Is 30:18; 45:21, Grm 9:3; 12:1, Xp 3:5) và Người yêu cầu con người đem ra thực hành (xem Is 1:17p; 5:7; 26:2; Edkz 18:5-18, Am 5:24). Không những các ngài trình bầy các chỉ thị của Chúa, bằng cách mang lại ý nghĩa cho chúng, mà các ngài còn can đảm tố cáo mọi thứ đi chệch ra ngoài con đường sự thiện, bất luận là cá nhân hay quốc gia. Bằng cách này, các ngài kêu gọi phải hoán cải, đe dọa một hình phạt chính đáng cho những tội ác đã phạm và công bố thảm họa không thể tránh cho những người, trong sự đồi trụy của họ, không muốn lắng nghe những lời cảnh báo của Thiên Chúa (xem Is 30:12). 14: Grm 6:19; 7:13-15).

Chính ở đây, sự thật của lời tiên tri được biểu lộ, đối lập với sự an ủi dễ dàng của các tiên tri giả – những người không quan tâm đến các đòi hỏi đạo đức chính đáng của Lề Luật – công bố hòa bình, ngay lúc mối đe dọa của thanh gươm công lý đang bay lượn (xem Grm 6:14; 23:17; Edk 13:10), lừa dối dân bằng những lời hứa hão huyền (xem Is 9:14-15; Grm 27:14; 29:8-9; Am 9:10, Dcr 10:2), và do đó làm lợi cho sự bền bỉ của gian ác. “Các ngôn sứ có trước tôi và ông từ ngàn xưa đã tuyên sấm về nhiều xứ sở và vương quốc hùng mạnh, là sẽ có chiến tranh, tai ương và ôn dịch” (Grm 28: 8): Do đó, Lời chân chính của Chúa khẳng định rằng sự gian ác của thế gian được tiết lộ trong lịch sử bởi Thiên Chúa công chính, đặc biệt bởi sự đau khổ liên hệ với các biện pháp chế tài mà Người áp đặt. Do đó, việc vượt qua sự sỉ nhục và cái chết được các tiên tri giải thích như một thứ kỷ luật cần thiết để tạo điều kiện cho việc nhìn nhận tội lỗi (x. Grm 2:19) và sự chuẩn bị khiêm tốn của hối nhân để chờ đợi ơn tha thứ (x. Ge 2:12-14).

c. Thiên Chúa thương xót

73. Phần lớn các văn chương tiên tri chấp nhận một giọng điệu đe dọa, chẳng hạn như lời của Giôna nói với Ninivê (xem Gn 3: 4), hoặc công bố bất hạnh “chống lại mọi xác thịt” (Edk 21:9), tuyên bố không những sự sụp đổ của vương quốc Israel (x. Grm 5,31, Hs 10:15; Am 8:2), nhưng đàng khác, cũng gợi lên ngày tận cùng của thế giới (xem Grm 4:23-26; 45:4, Edk: 7:2-6, Đn 8:17). Viễn cảnh thảm khốc này có thể dẫn ta nghĩ đến việc cho rằng Chúa không trung thành với lời hứa của Người: “Lúc đó, tôi nói, ‘À! Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa tôi, quả thực, Ngài đã đánh lừa dân này và cả Giêrusalem nữa khi nói rằng: ‘các ngươi sẽ có hòa bình trong khi lưỡi kiếm đã kề tận cổ họng’ (Grm 4:10); ” Nào đâu tình thương nồng nhiệt và hùng khí dũng mãnh! nào đâu những rạo rực của lòng Ngài? Chẳng lẽ Ngài không còn động lòng thương con nữa?” (Is 63:15).

Với lời than thở đã trở thành lời cầu nguyện của một dân tộc lưu vong này, tiếng nói của các vị tiên tri, những vị công bố sự an ủi cho Israel (xem Is 40:1) đáp lại rằng: Điều có thể hiểu như một biến cố cuối cùng được quyền năng của Đấng Tạo Dựng biến đổi thành một khởi đầu mới (xem Grm 31:22; Edk 37:1tt., Hs 2:16-17). Điều rõ ràng là một thất bại đã trở thành nền tảng của một thực tại kỳ diệu, vì tội lỗi, kẻ đã tạo ra thảm họa, dứt khoát được tha thứ bởi lòng thương xót của Chúa Cha (xem Grm 31:34; Edk 16:63, Hs 14:5; Mk 7:19).

Một số tiên tri công bố một bước ngoặt triệt để trong lịch sử Israel (xem Grm 30:3.18; 31:23; Edk 16:53, Ge 4:1; Am 9:14, Xp 3:20) và trong lịch sử thế giới, vì các ngài tiên đoán trời mới và đất mới (xem Is 65:17; 66:22, Grm 31: 22). Biến cố Thiên Chúa tha thứ, đi kèm với vô số những ơn thiêng liêng chưa từng nghe thấy (xem Grm 31:33-34; Edk 36:27, Hs 2:21-22; Ge 3:1-2), và làm cho hiển thị bởi sự phục hồi toàn dân cách phi thường, được tái lập dưới các hình thức định chế hoàn hảo (xem Is 54:1-3; 62:1-3, Grm 30:18-21, Hs 14:5-9), vì công bố khác đi, sự xuất hiện của chiều kích dứt khoát trong lịch sử không thể dự đoán hoặc tưởng tượng bởi tâm trí con người: “Bây giờ – Chúa nói qua Isaia – Ta làm cho ngươi nghe thấy những điều mới lạ, bí mật, chưa được ngươi biết. Chính bây giờ chúng được tạo ra chứ không cách đây lâu; trước ngày đó, ngươi đã không nghe thấy chúng; vì vậy ngươi không thể nói, ‘có, tôi đã biết chúng!” (Is 48:6-7). Chúa mặc khải, qua trung gian các Tiên tri, các dự án của Người, vô cùng vượt trội so với những gì các tạo vật có thể quan niệm (xem Is 55:8-9); và chính nhờ việc biểu lộ hữu hiệu của ân sủng, mà Thiên Chúa đã làm cho chúng ta biết đến sự hoàn hảo của chân lý Người, làm cho ý nghĩa của lịch sử nên hoàn hảo.

Lời hứa hẹn này đúng sự thật vì nó đã tự thực hiện (xem Đnl 18:22; Is 14:24; 45:23; 48:3; Grm 1:12; 28:9): “Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó “(Is 55:10-11). Từ biến cố độc đáo và định vị trong lịch sử phát sinh ra một giao ước vĩnh cửu (xem Is 55:3; Grm 32:40; Edk 16:60). Từ đó tuôn ra lời ca ngợi, hiệu quả cuối cùng của ơn cứu rỗi “Lạy Chúa, Chúa là Thiên Chúa của con, con hiển dương Chúa, con tạ ơn Danh Chúa, vì Chúa đã thực hiện các dự án và kỳ công, chắc chắn và bền vững từ lâu đời” (Is 25:1).

Những người tin vào Chúa Kitô sẽ nhận ra rằng họ là “con cái” của các tiên tri và của lời hứa (xem Cv 3:25), những người nhận được lời an ủi cứu rỗi (Cv 13:26): trong Lễ Vượt qua của Chúa Giêsu, khi thờ lạy Người, họ sẽ thấy sự biểu lộ trọn vẹn lòng trung tín của Thiên Chúa, Đấng công chính và hay thương xót.

2.5 Các Thánh vịnh

74. Những lời cầu nguyện của các Thánh vịnh giả thiết và phát biểu một sự thật thiết yếu về Thiên Chúa và ơn cứu rỗi: Thiên Chúa không phải là một nguyên lý tuyệt đối vô ngã, nhưng là một người biết lắng nghe và đáp lại. Mọi người Israel đều biết rằng họ có thể hướng về Người trong mọi tình huống của cuộc hiện sinh: trong niềm vui và trong nỗi đau. Thiên Chúa tự mặc khải Người ra như một Thiên Chúa hiện diện (xem Xh 3:14), Đấng biết người đang cầu nguyện và dành cho họ một sự quan tâm thực sự và nhưng không.

Trong số các đặc điểm khác nhau được các Thánh vịnh gán cho Thiên Chúa, chúng ta giữ lại hai: Thiên Chúa tự mặc khải Người như (a) Đấng toàn năng và bảo vệ, và (b) Thiên Chúa của công chính sẽ biến kẻ tội lỗi thành người công chính. Do đó, Thiên Chúa luôn xuất hiện như một Đấng cứu rỗi con người.

a. Thiên Chúa toàn năng: Thánh vịnh 46

Sự hiện diện và hành động của Thiên Chúa được mô tả như một mô hình trong Thánh vịnh 46, và trong một câu: “Người ở cùng chúng ta, Chúa tể vũ trụ” (Tv 46:8.12). Thọat đầu, ở giữa và ở cuối Thánh vịnh, sự hiện diện của Thiên Chúa đã được nhấn mạnh – Thiên Chúa là “cho chúng ta” (Tv 46:2) và “với chúng ta” (Tv 46: 8.12). Người thống trị thiên nhiên bằng sức mạnh của Người (Tv 46:2.7), Người bảo vệ Israel và tạo ra hòa bình (x. Tv 46:8-12).

Quyền năng của Thiên Chúa thống trị thiên nhiên: Thiên Chúa là Đấng tạo dựng

Đối đầu với những xáo trộn của vũ trụ, dân của giao ước vẫn thanh thản: “Thiên Chúa là nơi ta ẩn náu, là sức mạnh của ta. Người luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ khi ta phải ngặt nghèo. Nên dầu cho địa cầu chuyển động, núi đồi có sập xuống biển sâu, dầu cho sóng biển ầm ầm sôi sục, núi đồi có lảo đảo khi thuỷ triều dâng, ta cũng chẳng sợ gì” (Tv 46,2-4). Thiên Chúa thống trị các sức mạnh của hỗn mang. Và ngay cả khi những sức mạnh này làm suy yếu sự ổn định của Zion, thành thánh cũng “không thể lay chuyển” (Tv 46:6a), vì “Chúa đứng đó” (Ps 46:6a), và “khi buổi mai tái sinh, Chúa giúp nó”(Tv 46:6b).

Quyền năng của Thiên Chúa bảo vệ dân Người và tạo ra hòa bình: Thiên Chúa là vị cứu tinh

Lời khẳng định “Ngài ở cùng chúng ta, Chúa tể vũ trụ” xuất hiện như một lời đáp lại tiếng kêu đau khổ của những người bị bao vây bởi kẻ thù: “Dám xin Ngài đứng lên phù giúp, lấy tình thương cứu chuộc dân Ngài” (Tv 44:27). Thiên Chúa được tuyên xưng là “nơi ẩn náu, là sức mạnh” (Tv 46,2) và “thành lũy” (Tv 46:8.12) để minh họa quyền năng Người dùng bảo vệ các tín hữu tập trung tại Zion. Tất cả được mời gọi nhìn nhận Người: “Hãy đến và xem các hành vi của Chúa” (Tv 46:9). Sau đó, Thánh vịnh cho biết rõ những hành vi này là gì: “Người chấm dứt chiến tranh trên toàn cõi thế, cung tên bẻ gẫy, gươm giáo đập tan, còn khiên thuẫn thì quăng vào lửa” (Tv 46:10). Chính Chúa nói với các tín hữu: “Dừng tay lại : Hãy biết Ta đây là Thiên Chúa! Ta thống trị muôn dân, thống trị địa cầu”(Tv 46:11). Những kẻ thù phải ngừng chiến đấu, nhìn nhận Chúa và sự uy nghi phổ quát của Người, Đấng đang thống trị mọi quốc gia và cả trái đất. Sự can thiệp mạnh mẽ của Thiên Chúa ủng hộ Zion mang một ý nghĩa phổ quát: Người mang lại hòa bình không những cho kinh thành Thiên Chúa (câu 5), mà còn cho mọi quốc gia, cho tất cả trái đất (xem câu 11).

b. Thiên Chúa của công lý: Thánh vịnh 51

75. Trong Thánh vịnh 51, việc xưng tội được kết hợp với lời khẩn cầu. Điểm nhấn căn bản của Thánh vịnh – được nhấn mạnh ở giữa phần thứ nhất và phần thứ hai của bản văn – liên quan đến công lý của Thiên Chúa: ” Như vậy, Ngài thật công bằng khi tuyên án, liêm chính khi xét xử” (Tv 51 , 6); “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa Cứu độ của con, hãy giải thoát con khỏi dòng máu đổ, và miệng lưỡi con sẽ tung hô công lý của Ngài” (Tv 51,16, xem câu 21). Công lý cứu độ của Thiên Chúa hoạt động trong con người tội lỗi, không những bằng cách vô hiệu hóa các lỗi lầm của họ và thanh tẩy họ, mà còn bằng cách công chính hóa và biến đổi họ. Tất cả hành động này của Thiên Chúa công chính xuất phát từ tình yêu của Người, Đấng là trung tín và hay thương xót.

Thiên Chúa của công lý yêu người tội lỗi

Thiên Chúa, được thúc đẩy bởi tình yêu của Người, công chính hóa các tội nhân. Thánh vịnh bắt đầu bằng lời khẩn cầu: ” Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm” (Tv 51:3). Người cầu nguyện cầu khẩn tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa.

Hạn từ đầu tiên, “tình yêu” (hesed), là một trong những thuật ngữ căn bản – rất thường gặp trong Cựu Ước, đặc biệt trong các Thánh vịnh – của nền thần học Thánh vịnh và giao ước: nó chỉ thái độ của Thiên Chúa, một thái độ ngụ ý lòng tốt, sự hào phóng, lòng trung thành của Người với người cầu nguyện.

Trong các Thánh vịnh, tình yêu này thường được trình bầy như thể đó là một nhân vị: “Lòng thành tín và yêu thương của Ngài sẽ giữ gìn con mãi” (Tv 40:12). Thiên Chúa gửi nó xuống từ thiên đàng (xem Tv 57:4; xem 61:8; 85:11; 89:15) để nó đồng hành với tín hữu, đi theo họ như một người bạn (Tv 23:6), bảo bọc (xem Tv 32:10) và làm họ thỏa thuê (Tv 90:14). Tình yêu của Thiên Chúa quan trọng hơn chính sự sống: “tình yêu của Ngài giá trị hơn sự sống” (Tv 63:4; Tv 42:9; 62:13). Tình yêu của Thiên Chúa sẽ không bị lấy khỏi người tội lỗi, bất chấp tội lỗi của họ (xem Tv 77:9), vì Thiên Chúa yêu họ như một người cha. Tình yêu này sẽ khêu gợi công lý của Thiên Chúa – biện minh cho tội nhân.

Hạn từ thứ hai – lòng thương xót (rehem – xem Tv 40:12; 69:17, v.v.) thường được tìm thấy trong bối cảnh sám hối (xem Tv 25:6; 79:8), và thường được sử dụng ở số nhiều (rahamim). Nó gợi lên “lòng dạ” người mẹ, biểu tượng nguyên mẫu của tình yêu bản năng và triệt để. Thiên Chúa được trình bày như gắn bó với con người nhân bản, thậm chí hơn cả một người mẹ gắn bó với chính con trai của mình (Is 49:15). Đây là lý do tại sao Thánh vịnh gia tuyên bố: ” Phần Ngài, muôn lạy Chúa, Ngài là Thiên Chúa nhân hậu từ bi, Ngài chậm giận, lại giàu tình thương và sự thật” (Tv 86:15).

Trong thực tế, hai thuật ngữ, theo một cách nào đó, vì mô tả hai phương thức của tình yêu Thiên Chúa (cha và mẹ), nên rất gần gũi nhau: “Lạy Chúa, xin nhớ lại nghĩa nặng với ân sâu Ngài đã từng biểu lộ từ muôn thuở muôn đời” (Tv. 25:6, xem 103:13). Thiên Chúa yêu con người – ngay cả khi họ là một tội nhân – giống như một người mẹ yêu con trai mình, bằng một tình yêu không phải là thành quả của công đức, nhưng hoàn toàn nhưng không, một tình yêu tạo thành một yêu cầu nội thẳm của trái tim. Đồng thời; Thiên Chúa yêu con người như một người cha, bằng một tình yêu rộng lượng và trung tín. Hai chiều kích trong tình yêu của Thiên Chúa, được phần đầu của Thánh vịnh 51 nhắc nhớ, đại diện cho hai hệ luận của công lý Người, mang lại lợi ích cho tội nhân. Thiên Chúa, Đấng yêu thương và hay thương xót (Tv 51:3.20) đồng thời là một Thiên Chúa phán xét (Tv 51:6.16).

Công lý của Thiên Chúa “công chính hóa”, nghĩa là biến đổi tội nhân thành người công chính (Tv 51:6.16)

76. Tự hướng về tội nhân, Thiên Chúa thiết lập với họ một mối quan hệ năng động và sâu sắc, thuộc trật tự công lý. Diễn trình này tự triển khai trong một số giai đoạn:

lòng cảm thương hay yêu thương thương xót: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con” (Tv 51:3). Chính động từ “trở nên nhân từ – hanan” (Tv 4:2; 6:3, v.v.) đã được sử dụng ở đây, chỉ sự lắng lo đầy nhân từ của đấng tối cao đối với bề tôi của mình. Người nổi loạn chống lại Thiên Chúa và người trở nên gớm ghiếc dưới mắt Người xin được tìm thấy lòng cảm thương của Người. Nó sẽ cứu họ khỏi sự khốn cùng sâu xa nhất của nó, đó là tội lỗi.

Giáo huấn nội tâm: ” Nhưng Ngài yêu thích tâm hồn chân thật, dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan”(Tv 51: 8). Thiên Chúa hành động trong lương tâm của tội nhân, vốn bị tối tăm bởi tội lỗi, và đặt trong đó ánh sáng của sự thật, khiến phải thừa nhận tội lỗi và sự rạng sáng của đức khôn ngoan Người, mở mắt để thấy tác phong ngay chính.

Phán quyết của ân sủng, điều đem lại tha thứ. Tội nhân, bị giam hãm dưới sự thống trị của tội lỗi, nhìn nhận: “Ngài thật công bằng khi tuyên án, liêm chính khi xét xử” (Tv 51: 6). Tiếp theo các lời kêu cầu của họ: “xóa”, “rửa”, “thanh tẩy” (câu 3-4, được lặp lại trong các câu 9 và 11), là một niềm hy vọng mạnh mẽ: ” Xin ngoảnh mặt đừng nhìn bao tội lỗi và xoá bỏ hết mọi lỗi lầm” (Tv 51:11). Được giải thoát khỏi sự hiện diện đầy ám ảnh của tội lỗi, họ khẩn cầu: “Xin cho con được nghe tiếng reo mừng hoan hỷ” (Tv 51:10, xem Is 66:14).

Tạo vật mới: tội nhân kêu cầu Thiên Chúa ban một sáng tạo mới – “Lạy Thiên Chúa của con, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng” (Tv 51:12). Sau lời kêu cầu thiết yếu này, người cầu nguyện ba lần khẩn cầu để nhận được một tinh thần: một tinh thần “được đổi mới”; sự hiện diện của ” thần khí thánh của Ngài”; một “tinh thần quảng đại” (cc.12.13.14). Họ kêu cầu một sự đổi mới nội tâm và vĩnh viễn, mà vì nó sự hiện diện của Thần Trí Thiên Chúa, từ đó “niềm vui được cứu rỗi” phát sinh (Tv 51:14) có tính quyết định.

Khuyến khích làm chứng: được đổi mới bởi Thiên Chúa, con người muốn thông đạt niềm hy vọng của chính mình cho những người cần đến nó: “đường lối Ngài, con sẽ dạy cho những người tội lỗi” (Tv 51:15). Trên hết, họ muốn mang đến cho những người này sự khôn ngoan đã được Thiên Chúa dạy dỗ họ ở bên trong.

Mở cửa bước vào niềm vui và ca ngợi: hối nhân đã được đổi mới trong nội tâm cảm thấy tràn ngập niềm vui, và muốn bày tỏ điều đó trong lời ca ngợi của mình: “Con sẽ tung hô Ngài công chính. Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài” (Tv 51:16-17, xem Tv 35:28; 71:24).

Trong những câu cuối cùng, song đối giữa “công lý của Ngài” và “ngợi khen Ngài” giúp ta kết luận rằng Thiên Chúa, trong đức công lý của Người, không làm ta sợ hãi; trái lại, chính Thiên Chúa – Đấng vốn có cả tình yêu của người cha và tình yêu của người mẹ – là “nguyên nhân” duy nhất thực hiện việc công chính hóa người có tội, nghĩa là sáng tạo hạnh phúc mới cho họ, giải thoát họ khỏi sự áp bức của tội lỗi.

2.6 Diễm Ca

77. Điều đáng ngạc nhiên là sách Diễm Ca đã được hoan nghênh trong Kinh Thánh tiếng Do Thái (trong số năm cuốn sách); bởi vì nội dung của nó hoàn toàn chuyên biệt. Được công nhận là một bản văn linh hứng và được lồng vào Qui điển Kitô Giáo, nó đã dẫn đến một sự giải thích Kitô học độc đáo. Diễm Ca là một bài thơ ca ngợi tình yêu hôn nhân, một tình yêu đầy những kinh nghiệm nhân bản, nghĩa là một tình yêu hệ ở việc tìm kiếm lẫn nhau và hiệp thông bản thân giữa người đàn ông và người đàn bà. Việc tìm kiếm và hiệp thông này mang lại một sự năng động gây ấn tượng, gần như vô giới hạn, có sức hiển dung hai tạo vật nhân bản – một chàng chăn cừu và một nàng con gái trẻ – thành một vị vua và hoàng hậu, thành một cặp vợ chồng hoàng gia. Diễm Ca tôn vinh tình yêu nhân bản một cách đầy thi ca, một tình yêu thực sự trong chiều kích cơ thể của nó, và đồng thời trong chiều kích tinh thần. Nó làm như vậy một cách cởi mở đối với chiều kích huyền nhiệm hơn, và thần học hơn. Bản văn này có một đặc điểm “đa nghĩa” (polysémie) nào đó: thêm vào ý nghĩa thứ nhất của tình yêu nhân bản, ta thấy nhiều ý nghĩa khác, bắt nguồn từ ý nghĩa vợ chồng này, có thể nói, vốn là biểu tượng của tất cả các hình thức khác của tình yêu.

Trong số những ý nghĩa bổ sung này, ý nghĩa đầu tiên liên quan đến tình yêu của Thiên Chúa đối với mọi con người nhân bản. Bài thơ này, dựa trên lời khẳng định rằng Thiên Chúa tạo nên con người “giống hình ảnh Người” (St 1:27), ca ngợi tình yêu nồng nàn của một người đàn ông và một người đàn bà như hình ảnh của tình yêu say mê và bản vị của Thiên Chúa. Tình yêu của Thiên Chúa đối với mọi tạo vật nhân bản (xem Kn 11:26) mang mọi đặc điểm của tình yêu nam giới (người phối ngẫu, người chồng và người cha), đồng thời, của tình yêu nữ giới (người phối ngẫu, người vợ và người mẹ).

Tình yêu đích thực của con người là một biểu tượng mà qua trung gian của nó, Đấng tạo dựng tự mặc khải Người cho con người như là Thiên Chúa Tình yêu (xem 1 Ga 4:7.8.16). Với sự giúp đỡ của nhiều biểu tượng, sách này giúp chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa là nguồn của tình yêu nhân bản: Người tạo ra nó, nuôi dưỡng nó, làm cho nó phát triển và ban cho nó sức mạnh để tìm kiếm người khác, để sống với anh ta (cô ta), và cuối cùng với gia đình hoặc cộng đồng, trong một hiệp thông hoàn hảo. Đó là lý do tại sao mọi tình yêu của con người (được xem xét cho chính nó, chứ không chỉ là một ẩn dụ) chứa hạt giống và sự năng động thần thánh. Từ sự kiện này, người nào biết và sống tình yêu có thể khám phá và biết được Thiên Chúa. Hơn nữa, qua trung gian tình yêu nhân bản, người đàn ông và người đàn bà nhận được ảnh hưởng của chính tình yêu của Thiên Chúa (xem 1 Ga 4:17). Khi ở lại trong tình yêu, chúng ta bước vào hiệp thông với Thiên Chúa (xem 1 Ga 4,12).

Ý nghĩa thứ hai cần xem xét liên quan đến tình yêu của Thiên Chúa đối với dân giao ước (xem Hs 1-3, Edk 16, 23, Is 5:1-7, 62:5, Grm 2-3). Tình yêu này của Thiên Chúa tìm thấy một sự hiện thực hóa mới và đạt đến sự thành toàn của nó trong tình yêu của Chúa Kitô dành cho Giáo hội. Chúa Kitô tự ví Người hoặc được trình bày trong những hoàn cảnh khác nhau như người chồng (xin xem Mc 2:19; Ga 3:29; 2 Cr 11:2; Eph 5:25.29; Kh 19:7.9; 21:2.9). và Giáo hội được trình bầy như vị hôn thê (xem Kh 19:7.9), trở thành nàng dâu trong bối cảnh hoàn tất cánh chung (xem Kh 21:9). Tình yêu của Chúa Kitô đối với Giáo hội quan trọng và căn bản đối với sự cứu rỗi của con người đến nỗi Tin Mừng Gioan trình bày sự can thiệp của Chúa Giêsu trong đám cưới Cana như khởi đầu của các dấu lạ của Người (xem Ga 2: 11), của mọi hoạt động của Người. Chúa Giêsu tự mặc khải như người phối ngẫu đích thực (xem Ga 3:29), người ban cho mọi người rượu ngon dư thừa, và do đó mặc khải tình yêu mà Người sẽ ban cho “đến cùng” (x. Ga 13:1 xem Ga 10:11.15; 15:13; 17:23.26).

2.7 Các sách khôn ngoan

78. Các sách khôn ngoan cũng đưa ra ánh sáng nhiều đặc điểm của Thiên Chúa Tạo Hóa, diễn tả Người như một Thiên Chúa thương xót và khôn dò. Tạo hóa Xuất hiện như một Thiên Chúa thương xót, Đấng quên hết tội lỗi của con người trong viễn cảnh hoán cải của họ. Mặt khác, Người mầu nhiệm và không tài nào hiểu thấu, khiến con người nhìn nhận các giới hạn tạo vật của mình, bằng lòng bước đi một cách trung thành, vì biết mình không thể khám phá hết những gì Người hoàn thành trong lịch sử. Trong chương này, chúng ta nhấn mạnh các đặc điểm nhờ đó nền văn học khôn ngoan tìm cách minh họa rằng Thiên Chúa là sự thật chân thực: nền văn học này tìm cách dẫn con người đến một việc gắn bó với đức tin vào Chúa và tìm cách khơi dậy trong họ sự kính sợ Chúa, nghĩa là, một sự kính trọng sâu sắc, ý thức được khoảng cách mênh mông hiện hữu giữa Đấng Tạo Hóa và các tạo vật của Người (xem Gv 3:10-14).

2.7.1 Sách Khôn ngoan và Huấn Ca: Lòng từ tâm của Thiên Chúa

a. Sách Khôn ngoan

79. Lòng từ tâm của Thiên Chúa, tự phát biểu cách riêng trong câu Kn 11:15-12.27, qua trung gian nghịch lý của “tai ương” giáng xuống người Ai Cập, và biểu lộ chiều kích sư phạm trong các hình phạt của Thiên Chúa. Thiên Chúa giao ước, chúa tể của sáng thế (xem Kn 16:24-29; 19:6-21), can thiệp liên tiếp vào lịch sử cứu độ, Người chăm sóc dân Người như tất cả đều là “công chính “(xem Kn 3:1-4.19); Chính Người là Đấng ban thưởng và trừng phạt (xem Kn 4:20-5:23; 11:1-5), đối xử với mỗi con người một cách khoan dung để dẫn họ đến sự hoán cải (x. Kn 12:9-18; Rm 2:3-4; 2 Pr 3:9) và để dạy người công chính biết phán xét một cách khoan hồng (xem Kn 12:19-22).

Sau khi nhắc nhớ rằng vào thời Xuất hành, Thiên Chúa đã trừng phạt một cách vừa phải các kẻ thù của dân Người, tác giả giải thích các lý do của cách hành xử đó: “Quả vậy, Chúa toàn năng, từ chất thể không hình không dạng, đã ra tay tạo dựng vũ hoàn” (Kn 11:17); “Nhưng Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải” (Kn11:23; Tv 103:8-12; 130:3-4; Is 34:6-7).

Sự chừng mực đối với Ai Cập (x. Kn 11:15-12.2) không phải là dấu hiệu của sự yếu đuối; trái lại, Thiên Chúa đã hành động như vậy vì lòng thương xót của Người đối với mọi người, và vì Người muốn dẫn dắt con người đến sự hoán cải, ngõ hầu, khi từ bỏ sự gian ác, họ vươn tới niềm tin vào Người: “Vì thế, những ai sa ngã, Chúa sửa dạy từ từ. Chúa cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ họ đã phạm tội gì, để họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa” (Kn. 12:2). Sự toàn năng của Thiên Chúa không được biểu lộ trong sức mạnh của Người, nhưng trái lại, trong lòng thương xót của Người. Quyền năng của Thiên Chúa không phải là nguồn phán xét, mà là nguồn tha thứ (xem Hc 18:7-12, Rm 2:4). Chính sự toàn năng của Thiên Chúa đã thúc đẩy lòng thương xót của Người. Lòng thương xót của Thiên Chúa cũng được biểu lộ trong cách Người trừng phạt cư dân của xứ sở (xem Kn 12: 8): Người đối xử với họ bằng lòng nhân từ và khoan hồng (xem Kn 11:26), bởi vì họ là những con người mỏng dòn (xem Tv 78:39). Nếu Thiên Chúa đã sử dụng sự khoan dung trong hình phạt của Người và tha thứ cho họ, thì đó không phải là sự bất lực, cũng không phải vì Người không biết tội ác của họ (xem Kn 12:11). Tác giả không dừng lại ở đó, và phơi bày ở đây một trong những suy tư đẹp đẽ nhất của Cựu Ước: “Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên… Chúa xử khoan dung với mọi loài, vì mọi loài đều là của Chúa, Đấng dung tha mọi sinh vật” (Kn 11:24.26). Thiên Chúa không thể không yêu những gì chính Người đã tạo nên, vì thần trí bất diệt của Người ngự trong tất cả mọi sự (xem Kn 1:7; 12:1). Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sự để được cứu rỗi, Người thương xót mọi người vì muốn họ hoán cải và Người không muốn phá hủy bất cứ thứ gì Người đã tạo ra (xem Kn 11:26).

Tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ ngay trong cái chết sớm của người công chính. Người yêu người công chính vì nhân đức của họ, vì cuộc sống không tì vết của họ (Kn 4: 9), và Người rút họ ra khỏi thế giới độc ác này, để họ khỏi bị thối nát: ” Người công chính đẹp lòng Thiên Chúa, nên được Thiên Chúa yêu thương. Và họ sống giữa những kẻ tội lỗi, nên được Thiên Chúa dời đi nơi khác” (Kn 4:10; xem St 5:24; Huấn ca 44:16; Dt 11:5).

Tình yêu của Chúa dành cho các tạo vật của Người không phải là một tình yêu tĩnh tụ mà là một tình yêu năng động được bộc lộ bằng hành động. Sự kiện các tạo vật hiện diện và tiếp tục hiện diện trong hiện hữu, và được duy trì như hữu thể đa dạng, hoạt động, là bằng chứng hữu hình nhất về tình yêu của Thiên Chúa trong hành động.

b. Sách Huấn Ca

80. Ben Sira, cũng vậy, có ý thức cao nhất về ý nghĩa sự vĩ đại của Thiên Chúa, toàn năng và hay thương xót. Ông nói về Thiên Chúa một cách đầy cảm xúc, phấn khởi và kính sợ. Thiên Chúa là toàn năng và, trong sự quan phòng của Người, Người ban cho người chép sự khôn ngoan (xem Hc 37:21; 39:6), và thành công mà nó mang lại (xem Hc 10:5). Nó cũng mang lại sự giàu có cho người nghèo (xem Hc 11:12-13.21). Cũng chính từ Người mà có bản án tử hình dành cho mọi người (xem Hc 41:4). Ngoài sự vĩ đại của Thiên Chúa, lòng thương xót của Người đã được nhấn mạnh: “Ai đo lường được Người mạnh mẽ quyền năng đến đâu? Ai dám kể ra lòng thương xót của Người?” (Hc 18:5). Vì sự mỏng dòn của tạo vật, được tạo thành từ thịt từ máu, từ đất từ tro, nên Thiên Chúa đã khoan dung với con người, đổ tràn trên “mọi tạo vật” (Hc 18:13; xem Kn 11:21-12:18; Tv 145:9) lòng thương xót của Người (xem Hc 18:10). Sự khoan dung này của Thiên Chúa không nên dẫn đến việc giải trách nhiệm cho con người, nhưng đúng hơn, là một lời mời gọi hoán cải: “Hãy trở về với Đức Chúa và từ bỏ tội lỗi, hãy cầu khẩn trước nhan Người và giảm bớt dịp tội. Hãy đoạn tuyệt với gian ác, trở về cùng Đấng Tối Cao, và cực lực gớm ghét mọi điều ghê tởm” (Hc 17:25-26).

2.7.2 Sách Gióp và Sách Giảng viên: Đặc tính khôn dò của Thiên Chúa

a. Sách Gióp

81. Sách Gióp – được đóng khung bằng một lời mở đầu kép (G 1:1-2:13) và một đoạn kết kép (G 42:7-17) – là một cuộc đối thoại dài, qua đó, bắt đầu từ một Thiên Chúa rõ ràng “được biết”, người ta vươn tới sự mặc khải về một Thiên Chúa không lường trước được và rất huyền bí.

Gióp đã rất mong mỏi sự hiện diện của Chúa (x. G 9:32-35; 13:22-24; 16:19-22; 23:3-5; 30:20), ông cũng đã yêu cầu một câu trả lời (x. G. 31:35), vì ông muốn thảo luận nguyên nhân của nó một cách trực tiếp với Người. Nhưng quả là một sai lầm khi tự đối đầu với Thiên Chúa, bằng cách đối xử với Người ngang hàng. Thử thách cách hành động của Thiên Chúa, bằng cách yêu cầu Người giải thích các phán đoán của Người, Gióp, theo một cách nào đó, đã tự biến mình thành người ngang hàng với Đấng Tạo Hóa của ông. Nhưng ông ta không thể đạt đến chiều cao vô tận của Đấng toàn năng, mà sự hoàn hảo mà tâm trí con người không thể với tới được (xem G 11:7). Để diễn tả hùng hồn và thi vị sự siêu việt thần thiêng vượt qua mọi hiểu biết của con người, thiên đàng, Shéol (tử giới), trái đất và biển khơi được trình bày như những biểu tượng chiều cao, chiều sâu, chiều dài và chiều rộng vũ trụ, bị sự bao la của Thiên Chúa vượt qua (xem G 11:8-9). Độ sâu của mầu nhiệm Thiên Chúa khiến con người ra ngu muội và bất lực (xem Am 9: 1-4; Grm 23:24; Đnl 30:11-14; Eph 3:18-21). Thực thế, các hữu thể nhân bản được ban cho sự hiểu biết trực giác về các giới hạn của sự vĩ đại nhân bản. Các tiên tri đã chỉ trích dữ dội “những người tự cho mình khôn ngoan, những người tự cho mình thông minh” (Is 5:21; xem Is 10:13; 19:12; 29:14; Grm 8:89: 9:22-23, Edk 28).

Mặc dù Thiên Chúa không đáp ứng bất cứ kêu cầu nào của Gióp, tuy nhiên, Người vẫn có một diễn từ tuyệt vời trong các chương 38-41 của sách. Trong một cuộc thần hiện vĩ đại được đánh dấu bởi một cơn bão, cuối cùng, Người lên tiếng, không phải để trả lời những người đã góp tiếng, mà là đưa Gióp vào một loại thẩm vấn, để dẫn ông vào mầu nhiệm về bản vị của Người. Trong diễn từ của Người, rất nhiều câu hỏi nhanh chóng nối tiếp nhau, đôi khi đi kèm với những mô tả lớn lao. Thiên Chúa làm cho Gióp hiểu được sự thiếu hiểu biết của ông, các giới hạn của tạo vật, trong khi sự khôn ngoan của Đấng Tạo hóa không hề biết bất cứ giới hạn nào (xem G 28). Cùng một lời khẳng định ấy đã làm cơ sở cho mọi câu hỏi của Chúa: Thiên Chúa hiện diện trong sáng thế của Người, trong sự đa dạng vô tận của nó, vẫn là một mầu nhiệm đối với con người. Các tiêu chuẩn phán đoán phàm nhân không thỏa đáng khi nói đến việc tự đo lường mình với các mầu nhiệm của sáng thế.

Gióp đã biết Chúa bằng các việc “nghe nói” (G 42,5), theo mô hình truyền thống của một nền thần học dựa trên nguyên tắc cứng ngắc của thưởng phạt. Sau diễn từ dài của Thiên Chúa, ông thấu hiểu Thiên Chúa một cách thỏa đáng hơn. Ở cuối cuộc đụng đầu với Người, ông thú nhận: “Con biết rằng việc gì Ngài cũng làm được, không có gì Ngài đã định trước mà lại không thành tựu. Ai là kẻ dám dùng những lời thiếu khôn ngoan hiểu biết để làm cho kế hoạch của Ngài không còn được rõ ràng minh bạch?” (G 42:2-3). Gióp đã tìm thấy vị trí của mình, và có thể khám phá ra sự vĩ đại của Thiên Chúa và việc không thể vươn tới sự toàn năng của Người. Cuộc gặp gỡ của ông với Thiên Chúa đã cho ông thấy sự phù phiếm trong cao ngạo dự kiến một vụ kiện chống lại Thiên Chúa của ông, ông vẫn là một người đau khổ, nhưng không con cao ngạo nữa. Vào cuối cuốn sách, ông tự rút lui và coi bản thân như tro bụi, và do đó, trở nên chân thực và nhân bản hơn (xem G 42:6).

Gióp hiểu rằng con người không thể biết được các kế sách của Thiên Chúa, nhưng ông cũng hiểu rằng mắt ông đã nhìn thấy chính Thiên Chúa, qua công trình Người thực hiện trên thế giới (xem G 42:5). Nhìn vũ trụ và loài người bằng con mắt của Thiên Chúa, ông có thể nhìn nhận lỗi lầm liên quan đến tầm nhìn của chính mình về sự vật, và sự kiện mình đã đi quá xa; đó là lý do tại sao ông tuyên bố: “con xin rút lại” (G 42:6a). Đối với Gióp, sự khôn ngoan bây giờ hệ ở việc thú nhận rằng Thiên Chúa có thể được nhìn nhận là công chính mà không được hiểu đầy đủ. Con người có thể cam kết mãi trung thành với Người mà không biết “từ đầu đến cuối” (Gv 3:11) ý nghĩa của những gì Thiên Chúa đã làm. Thiên Chúa mãi là một mầu nhiệm khôn dò đối với các hữu thể nhân bản.

b. Sách Giảng viên

82. Một cách chậm hơn, tác giả sách này khai triển suy tư về chủ đề đặc tính khôn dò trong việc làm của Thiên Chúa. Hành động theo quan điểm của bậc hiền nhân (xem Gv 8:16-17), Ông bắt đầu tìm kiếm ý nghĩa của cuộc sống, thông qua những điều ông được thấy trong thực tại của thế giới, trên trái đất và “dưới ánh mặt trời”. Bậc hiền nhân muốn hiểu ý nghĩa của sự bận bịu đến chóng mặt của con người trên trái đất (Gv 8:16), nên ông nhận xét: “Đứng trước mọi công trình của Thiên Chúa, con người không thể hiểu được những công trình được thực hiện dưới ánh mặt trời […]. Ngay cả khi bậc hiền nhân quả quyết đã biết, ông cũng không thể khám phá ra (Gv 8:17, xem G 42:3). Không ai có thể thay đổi những gì Thiên Chúa đã làm trong thời gian của Người (xem Gv 1:15; 3:1-8.14; 6:10; 7:13). Thiên Chúa đã ngăn cản con người biết công việc của Người (xem Gv 7:13-14, xem G 9:2-4). Giảng Viên 11:5 tiếp tục chủ đề này: công trình của Thiên Chúa được mô tả ở đây như không thể nào hiểu thấu và được so sánh với mầu nhiệm thai nghén trong bụng mẹ. Con người ngu dốt ý nghĩa của cuộc sống, nhưng, trong thánh ý Thiên Chúa, mọi sự được tạo dựng đều có không gian và thời gian riêng của nó (xem Gv 3:11). Bí nhiệm trong việc làm của Thiên Chúa là điều không thể với tới, không thể dò thấu và không thể hiểu thấu được đối với người đi tìm ý nghĩa dựa trên kinh nghiệm của chính mình. Giống như chính Thiên Chúa, công trình của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, vẫn là một mầu nhiệm khôn dò đối với các hữu thể nhân bản.

Kết luận

83. Chứng từ của Khôn ngoan Kinh thánh làm sáng tỏ sự thật của Thiên Chúa, được mô tả như một Thiên Chúa giầu lòng thương xót; đồng thời, Người được trình bầy như một mầu nhiệm khôn dò đối với các hữu thể nhân bản. Lòng từ tâm của Thiên Chúa dẫn con người đến việc hoán cải và đức tin, trong khi tính cách khôn dò của Thiên Chúa khiến họ nhìn nhận sự vĩ đại của Đấng Tạo Hóa và các giới hạn của chính họ, và dẫn họ đến chỗ “kính sợ Chúa” và tuân giữ các lệnh truyền của Người.

Chúng ta hãy lưu ý rằng cách đề cập đến chủ đề “sự thật về Thiên Chúa”, một mặt, trong sách Khôn ngoan và sách Huấn ca, và mặt khác trong sách Gióp và sách Giảng viên, hoàn toàn khác nhau. Theo hai sách đầu tiên, sự thật có thể đạt tới bằng lý trí và / hoặc bằng hiểu biết Tôra, trong khi sách Gióp và sách của Giảng viên nhấn mạnh đến việc con người không có khả năng hiểu được mầu nhiệm Thiên Chúa và công việc Người làm: Chỉ còn lại niềm tin vào Thiên Chúa của các tín hữu, mặc dù họ không hiểu luận lý của các biến cố trên thế giới.

Tân Ước thay đổi chân trời suy tư và cho thấy rằng sự thật vượt ra ngoài sự thấu hiểu mà sự Khôn ngoan của Israel vốn có ở đấy: nó được tỏ hiện đầy đủ trong con người của Chúa Kitô.

3. Chứng từ của các bản văn Tân Ước

84. Trong Tân Ước, có thể phân biệt theo thể loại văn học chuyên biệt của chúng, các Tin Mừng, các thư của các Tông đồ, và cuối cùng là Sách Khải Huyền. Sự phân loại này xác định việc chúng ta trình bày vấn đề “sự thật” như các sách này đề cập đến nó.

3.1 Các sách Tin mừng

Trong số các sách của Kinh thánh Kitô giáo, địa vị trổi vượt dành cho các sách Tin Mừng, được coi như những chứng từ bằng văn bản về sự mặc khải thần thiêng ở đỉnh cao của nó. Thực thế, chúng ta tìm thấy ở đó sự chứng thực cho việc tự tỏ mình ra của Thiên Chúa qua Con của Người, Đấng, nhờ trở thành phàm nhân, đã sống, chịu đau khổ và chết, và nhờ sự phục sinh của Người đã nâng nhân tính của chúng ta lên vinh quang thần thiêng. Hiến chế Dei Verbum quả quyết: “Sự thật sâu xa […] về Thiên Chúa và sự cứu rỗi con người rạng sáng cho chúng ta trong Chúa Kitô” (DV, số 2). Hiến chế rút tỉa hậu quả của lời quả quyết này: “Giữa tất cả các sách Kinh thánh, ngay cả những sách trong Tân Ước, các sách Tin mừng, đều có một ưu thế xứng đáng, bao lâu chúng tạo nên chứng từ trổi vượt về cuộc sống và về học lý của Lời Nhập thể, vị Cứu tinh của chúng ta” (DV:18). Cùng bản văn của công đồng này hỗ trợ nguồn gốc Tông đồ của bốn sách Tin Mừng: các Tông đồ, với tư cách là “nhân chứng tận mắt và những người phục vụ Lời Chúa” (Lc 1:2), cũng như các môn đệ của các ngài, nối kết Giáo hội với chính Chúa Kitô, bằng lời chứng viết của các sách Tin mừng.

Hơn nữa, Dei Verbum xác nhận tính cách lịch sử của các sách Tin Mừng: chúng “trung thành truyền đạt những gì Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, trong cuộc đời của Người giữa những con người, thực sự đã làm và dạy vì sự cứu rỗi vĩnh cửu của họ” (DV, 19). Sau đó, Hiến chế mô tả diễn trình dẫn đến việc soạn thảo bốn sách Tin Mừng: những sách này không tạo thành một tác phẩm tượng trưng, thần thoại hay thi ca phát xuất từ các tác giả ẩn danh, nhưng chúng đại diện cho một trình thuật đáng tin cậy các biến cố trong cuộc đời và thừa tác vụ của Chúa Giêsu. Sẽ là một sai lầm khi tìm kiếm một sự tương ứng chính xác giữa từng chi tiết của bản văn và một biến cố đặc thù này nọ, vì viễn cảnh như vậy không tương ứng với bản chất cũng như dự án của các Tin mừng. Tuy nhiên, các nhân tố khác nhau có thể sửa đổi các tường thuật và thiết lập sự khác biệt giữa chúng không ngăn cản việc trình bày các biến cố cách xứng đáng. Đôi khi người ta sai lầm duy trì giả thuyết cho rằng có sự gián đoạn giữa Chúa Giêsu, và các truyền thống có nhắc đến Người, hoặc sự thiếu quan tâm đối với bản văn để trình bày nó một cách thỏa đáng, hoặc việc nó không có khả năng làm điều đó. Trái lại, các sách Tin mừng cho phép nối kết chúng ta một cách trung thực với Chúa Giêsu đích thật.

3.2 Các Tin Mừng nhất lãm

85. Bây giờ, đầu tiên, trong các Tin mừng nhất lãm và sau đó trong Tin mừng Gioan, chúng ta hãy xem xét Chúa Kitô đã tiết lộ sự thật nào về Thiên Chúa và về sự cứu rỗi con người. Hiển nhiên, ta không thể trình bày đầy đủ vấn đề ở đây, mà chỉ có thể đề cập một loạt các nhận xét quan trọng để thấu hiểu nó.

a. Sự thật về Chúa

Theo Mt 11:27 (x. Lc 10:22), Chúa Giêsu khẳng định: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho”. Chúa Giêsu chứng thực một mối liên hệ tuyệt đối và một hiểu biết hỗ tương giữa chính Người và Thiên Chúa. Thiên Chúa biết Chúa Giêsu như Con của chính Người (xem Mt 3:17; 17:5; Lc 3:22; 9:35) và Chúa Giêsu biết Thiên Chúa như Cha của chính Người, Đấng mà Người có mối liên hệ hoàn toàn độc đáo. Sự hiểu biết này về Chúa Cha là nền tảng của việc Chúa Giêsu có khả năng mặc khải Thiên Chúa và làm ta biết được khuôn mặt thật của Người. Và sự mặc khải của Người về Thiên Chúa như Cha luôn ngụ ý muốn nói đến sự mặc khải về chính Người như Chúa Con. Các yếu tố này đặt nền tảng cho nhiệm vụ chính của sứ mệnh Người: là mặc khải Thiên Chúa. Lời nói của Chúa Giêsu, và cả công trình của Người, và toàn bộ hành trình của Người đều mặc khải Thiên Chúa, và đòi phải liên tục chú ý đến sự mặc khải này.

Trong Tin Mừng Mátthêu, Chúa Giêsu mặc khải cho các thính giả của Người Thiên Chúa như Cha một cách đặc biệt rõ ràng. Sự mặc khải này xuất hiện đặc biệt trong Bài giảng trên núi (xem Mt 5-7). Chúa Giêsu cho các thính giả của Người biết rằng Cha của họ biết họ cần những gì trước khi họ kêu cầu (xem Mt 6:8) và dạy họ quay về với Thiên Chúa bằng cách gọi Người là “Cha của chúng con ở trên trời”(Mt 6:9). Người dạy họ về sự quan tâm lo lắng của Chúa Cha, một quan tâm khiến cho mối quan tâm của con người trở nên thừa thãi (xem Mt 6:25-34). Chúa Cha, Đấng mà các ơn phúc được ban cho cả người tốt lẫn người xấu, là mô hình của mọi hành động: “Do đó, các con cũng hãy hoàn hảo như Cha trên trời của các con là Đấng hoàn hảo” (Mt 5:48). Chúa Giêsu khẳng định rằng chỉ có ai thực hiện “ý muốn của Cha Ta ở trên trời” (Mt 7:21) mới ở trên đường công chính, và sẽ tránh khỏi thảm họa cuối cùng (xem Mt 7:24-27). Các thính giả của Chúa Giêsu là “ánh sáng thế gian” (Mt 5:14), và có bổn phận làm cho người ta biết Chúa Cha bằng những việc tốt lành của họ, để người ta “tôn vinh” Cha “ở trên trời” (Mt 5:16). Khi mặc khải Chúa Cha, Chúa Giêsu cũng giao phó sứ mệnh làm người ta biết Chúa Cha.

Trong Tin mừng Luca, Chúa Giêsu, khi mặc khải Chúa Cha, trước nhất, đã nhấn mạnh đến lòng thương xót của Người đối với các tội nhân. Ngài minh họa một cách tuyệt vời lòng thương xót của Thiên Chúa trong câu chuyện dụ ngôn về người cha có hai con trai và chào đón một cách hân hoan và đầy thương xót đứa con đã hư mất, bằng cách, mặt khác, cố gắng thuyết phục người con vẫn ở nhà (x. Lc 15:11-32). Chúa Giêsu giải thích và biện minh, với sự giúp đỡ của dụ ngôn này, thái độ của Người đối với tội nhân (x. Lc 15:1-10). Trong phần kết của câu chuyện liên quan đến người thu thuế Giakêu, Người khẳng định: “Thực thế, Con Người đến tìm và cứu lấy những gì đã hư mất” (Lc 19:10). Do đó, Người trình bày chính tâm điểm sứ mệnh của Người và biểu lộ ý muốn và hành động của Chúa Cha.

Cách Thánh Máccô mô tả buổi đầu thừa tác vụ công khai của Chúa Giêsu đầy đủ ý nghĩa và chương trình: “Sau khi ông Gioan bị nộp, Chúa Giêsu đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói: ‘Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy hối cải và tin vào Tin Mừng’”(Mc 1: 14-15). Nội dung lời loan báo của Chúa Giêsu là “Tin Mừng của Thiên Chúa”, Tin mừng nói về Thiên Chúa và đến từ Thiên Chúa. Chúa Giêsu đến như Đấng mặc khải Thiên Chúa, và việc mặc khải của Người là Tin mừng. Người tuyên bố rằng Nước Thiên Chúa đã gần kề. Thực tại của “Vương quốc Thiên Chúa” là tâm điểm lời rao giảng của Chúa Giêsu trong Tin mừng nhất lãm. Lời rao giảng này cho thấy chủ quyền vương đế của Thiên Chúa, mối quan tâm mục tử của Người đối với con người, sự can thiệp tích cực và mạnh mẽ của Người vào lịch sử loài người. Trong suốt thừa tác vụ và bằng tất cả hành động của Người, Chúa Giêsu giải thích và phân tích sự thật này về Thiên Chúa.

b. Sự thật về ơn cứu rỗi con người

86. Con người là một tạo vật của Thiên Chúa mà với họ, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đại diện cho một mô hình mẫu mực về lòng biết ơn, vâng phục và cởi mở, đối diện với Chúa Cha, vốn là nền tảng của mọi ơn cứu rỗi.

Việc chữa lành bệnh tật và việc giải thoát những người bị quỷ ám là một phần chủ yếu trong thừa tác vụ của Chúa Giêsu. Thánh Mátthêu đặt cùng một bản tóm tắt này ở phần đầu (Mt 4:23) và phần cuối (Mt 9:35) trình thuật về buổi khởi đầu thừa tác vụ của Chúa Giêsu (xem Mt 5:1-9.34). Trong bản tóm tắt này, hai hành động của Chúa Giêsu được đề cập: việc loan báo Tin Mừng Nước Trời và việc chữa lành “mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân” (Mt 4:23). Trong hành động này của Chúa Giêsu, cùng một lúc cho thấy cả sự tật nguyền lẫn các nhu cầu của con người, và sự đại lượng và quyền năng của Chúa Giêsu trong việc vượt qua nỗi khốn khổ này. Đấng loan báo Nước Thiên Chúa mang lại sự cứu rỗi đầy hiệu lực cho cơ thể, và biểu lộ lòng từ bi của Thiên Chúa đối với tạo vật đau khổ của Người, cũng như ý chí muốn cứu vớt họ của Người. Hành động này của Chúa Giêsu được chào đón một cách nhiệt tình. Do đó, Thánh Mátthêu phát biểu như sau: ” Thiên hạ đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền: những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt ; và Người đã chữa họ” (Mt 4:24). Trong nhiều câu chuyện, rõ ràng Chúa Giêsu không áp đặt sự chữa lành; Người giả định phải có đức tin nơi những người đến với Người (xem Mt 8:10; 9:22.28; 15:28). Tường thuật về chuyến viếng thăm Nadarét của Người kết thúc bằng lời nhận xét: “Và Người không làm được nhiều phép lạ ở đó, vì họ thiếu đức tin” (Mt 13:58).

Các vụ chữa lành là có thật và có ý nghĩa, nhưng chúng không phải là mục tiêu của thừa tác vụ Chúa Giêsu. Ngay cả trước khi sinh ra, thiên thần đã giải thích cho Thánh Giuse ý nghĩa tên của Chúa Giêsu:

“Ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1:21). Nỗi khốn khổ lớn nhất của con người không phải là bệnh tật, mà là tội lỗi, nghĩa là mối liên hệ với Thiên Chúa và với người lân cận đã sụp đổ và tan vỡ. Con người không còn khả năng thoát khỏi tình trạng khốn khổ này, họ cần một vị cứu tinh quyền năng, Đấng hòa giải họ với Thiên Chúa. Tên “Giêsu” có nghĩa là “Chúa cứu rỗi”. Trong ngôi vị Con của Người là Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã gửi đến Đấng Cứu Chúa của Israel và của toàn thể nhân loại. Chúa Giêsu đến gần những người tội lỗi, không phải với tư cách là một thẩm phán, nhưng là một thầy thuốc nhân từ, tìm cách chữa lành cho họ và kêu gọi họ hoán cải (xem Mt 9:12-13). Người hiến “mạng sống Người làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28; Mc 10:45). Máu của Người là “máu giao ước, đổ ra để chuộc tội lỗi” (Mt 26:28). Sự hy sinh đời sống Người đã đóng ấn cho một giao ước mới và dứt khoát giữa Thiên Chúa, Israel và toàn thể nhân loại; Người phê chuẩn sự hòa giải của Thiên Chúa với loài người. Đó là một hồng ân nhưng không của Thiên Chúa. Chấp nhận lời mời để được cứu rỗi, hoặc từ chối nó và đánh mất chính mình, chỉ phụ thuộc vào quyết định tự do của con người (x. Mt 22:1-13; 25:1-13.14-30).

Tin Mừng Luca đã mạnh dạn mô tả sự cứu rỗi qua trung gian Chúa Con hệ ở việc gì. Khi Chúa Giêsu sinh ra, một thiên thần của Chúa công bố: “Nầy, tôi loan báo cho anh em […] một niềm vui lớn: […] một Đấng Cứu Rỗi được sinh ra cho anh em là Chúa Kitô” (Lc 2:10-11). Sau đó, tác giả Tin Mừng mô tả toàn bộ công trình và hành trình của Chúa Giêsu cho đến khi Người chịu đóng đinh. Câu chuyện đóng đinh được tiếp theo bởi nhiều sự sỉ nhục mà vị cứu tinh và Chúa Kitô phải chịu, Đấng không tự cứu lấy mình (xem Lc 23:35-39). Nhưng ở phần cuối câu chuyện, một trong hai kẻ bất lương bị đóng đinh cùng với Người (Lc 23:33) đã ăn năn vì những hành động xấu xa của mình và bày tỏ niềm tin vào Chúa Giêsu và vào Nước Thiên Chúa mà Người công bố (xem Lc 23:40-42). Và Chúa Giêsu trả lời anh ta: “Quả thực, Ta nói với con, hôm nay, con sẽ ở Thiên đàng với Ta” (Lc 23:43). Chúa Giêsu hứa cho người bất lương ăn năn hối cải sự viên mãn của ơn cứu rỗi, hiệp thông tức khắc với Thiên Chúa, Đấng bao gồm sự tha thứ tội lỗi và việc vượt qua cái chết. Các lần hiện ra của Chúa Giêsu Phục sinh (Lc 24: 1-53) nhấn mạnh và xác nhận sự kiện này: Chúa Kitô đã đi vào vinh quang của Người (x.Lc 24:26), và Người là Đấng Cứu Rỗi, có khả năng ban ơn cứu rỗi mà Người đã hứa với người bất lương cùng bị đóng đinh.

Chúng ta hãy nhấn mạnh một lần nữa đặc tính phổ quát của ơn cứu rỗi được Đức Giêsu mặc khải và thực hiện. Sứ mệnh của Người được ngỏ trước hết với dân tộc Israel (xem Mt 15:24; xem Mt 10:6), nhưng nó có ý định dành cho mọi dân tộc. Tin Mừng của Người được loan báo khắp thế giới (xem Mt 2:14; 26:13; xem Mc 14: 9), và các môn đệ của Người được sai đến mọi dân tộc (x. Mt 28:19; x. Lc 24:47). Thiên Chúa đã sai Chúa Giêsu đến như Cứu Chúa của nhân loại.

3.3. Tin Mừng Gioan

87. Trong Tin Mừng Gioan, chúng ta tìm thấy một mối liên hệ chặt chẽ giữa sự thật về Thiên Chúa và sự thật liên quan đến sự cứu rỗi của con người. Do đó, trong Ga 3:16: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Thiên Chúa sai Con của Người xuống thế gian để cứu vớt loài người, nhưng khi sai Con đi, Người làm cho chính Người được biết đến, qua việc mặc khải mối liên hệ của Người với Con của Người và tình yêu của Người dành cho thế giới. Từ đó, đối với con người, phát sinh một mối tương quan sâu sắc giữa việc họ hiểu biết về Thiên Chúa và sự cứu rỗi của họ. Do đó, Chúa Giêsu mô tả cuộc sống vĩnh cửu, trong đó có sự cứu rỗi trọn vẹn: “Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô ” (Ga 17:3). Đấng trung gian là Chúa Giêsu, Lời Thiên Chúa và Con Thiên Chúa thành xác thịt (x. Ga 1:14). Người mặc khải Chúa Cha (x. Ga 1,18) và đem sự cứu rỗi đến cho loài người; còn hơn thế nữa, khi mặc khải Chúa Cha, Người mặc khải ơn cứu rỗi. Chúng ta sẽ xem xét vai trò của Chúa Giêsu trong ba khía cạnh: mối liên hệ của Chúa Cha và Chúa Con, mối liên hệ của Chúa Con Cứu thế với con người, việc con người vươn tới sự cứu rỗi.

a. Mối liên hệ của Chúa Cha và Chúa Con

88. Đặc điểm căn bản nhất của mối liên hệ giữa Chúa Cha và Chúa Con là sự hợp nhất hoàn hảo của các ngài: “Cha Ta và Ta, chúng Ta là MỘT” (Ga 10: 30); “Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha” (Ga 10:38, xem Ga 17:21.23). Đặc điểm của sự kết hợp này là việc hiểu biết nhau một cách mật thiết và là một tình yêu hoàn hảo: “Cha biết Ta và Ta biết Cha” (Ga 10:15). Chúa Cha yêu Chúa Con (cf Ga 3:35; 5:20; 10:17; 15:9; 17:23.24.26) và Chúa Con yêu Chúa Cha (x. Ga 14:31).

Chúng ta hãy lưu ý ngay rằng sự kết hợp, tình yêu và hiểu biết nhau vốn đặc trưng cho mối liên hệ giữa Chúa Cha và Chúa Con này tạo nền tảng và mô hình cho mối liên hệ giữa Chúa Con và con người. Chúa Giêsu cầu nguyện và xin Chúa Cha: “để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17:21; xem Ga 22-23). Tự trình bày Người như mục tử nhân lành, Chúa Giêsu tuyên bố: “Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha” (Ga 10:14-15). Cùng một cách này, liên quan đến tình yêu, cùng một sự so sánh đã thành hình: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy […] Đây là điều răn của Thầy : anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em “(Ga 15:9.12, xem Ga 13:34). Tình yêu của Chúa Con xuất phát từ tình yêu của Chúa Cha và tình yêu của các môn đệ phải bắt nguồn từ tình yêu mà họ đã nhận được từ Chúa Con, và phải phản ánh phẩm chất và cường độ của nó. Nguồn gốc của mọi sự luôn là Chúa Cha. Những gì Chúa Con truyền đạt đều phát xuất từ Chúa Cha và làm ta biết Chúa Cha: đó không chỉ là một ơn phúc của Chúa Cha, mà là sự thật về Chúa Cha, một sự thật trở thành mô hình cho hành động của con người.

Sự kết hợp hoàn hảo giữa Chúa Cha và Chúa Con không có nghĩa một bản sắc các vai trò. Chúa Con là người nhận được mọi sự từ Chúa Cha: đặc biệt, Chúa Giêsu quả quyết nhận được từ Chúa Cha sự sống, việc làm và lời nói: “Quả thật, Chúa Cha có sự sống nơi mình thế nào, thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy”(Ga 5:26, xem Ga 6:57). Chúa Con cũng phụ thuộc vào Chúa Cha về các việc làm: Chúa Con tự mình không thể làm được gì, Người chỉ làm những gì Người thấy Chúa Cha làm “(Ga 5:19). Nhiều lần, Chúa Giêsu quả quyết rằng giáo lý và lời nói của Người đến từ Chúa Cha: “Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật ; còn tôi, tôi nói lại cho thế gian những điều tôi đã nghe Người nói […] Chúa Cha đã dạy tôi thế nào, thì tôi nói như vậy” (Ga 8:26.28; cf 7:16). Chúa Giêsu kết thúc mọi hoạt động công khai của Người bằng câu tuyên bố này: “Không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì. Và tôi biết: mệnh lệnh của Người là sự sống đời đời. Vậy, những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi”(Ga 12:49-50).

Xu hướng cứu độ của sự phụ thuộc của Chúa Con vào Chúa Cha là điều hiển nhiên. Trong sức mạnh của sự sống mà Người có trong chính mình, Chúa Con, theo ý muốn của Chúa Cha, đã làm cho kẻ chết sống lại vào ngày cuối cùng (x. Ga 6: 39-40). Những lời Người nghe được từ Chúa Cha tạo thành học lý mà Chúa Giêsu truyền đạt cho con người (x. Ga 7:16; 17:8.14). Các việc làm mà Người học được từ Chúa Cha là trung tâm hoạt động của Người, và, được Tin Mừng viết ra và truyền đạt, chúng tạo thành nền tảng của đức tin nơi các thế hệ tương lai (xem Ga 20: 30-31). Như vậy, rõ ràng là chúng ta không thể bàn đến mối liên hệ vốn hợp nhất Chúa Cha và Chúa Con mà không xem xét ý nghĩa của nó đối với sự cứu rỗi của con người: mối liên hệ của Chúa Cha và Chúa Con có một giá trị cứu rỗi của riêng nó.

Cho đến nay, chúng ta đã thấy không thể tách Chúa Cha ra khỏi Chúa Con, cũng không thể tách mối liên hệ qua lại của các Ngài khỏi công việc cứu độ của Chúa Con. Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu không nói về Chúa Cha mà lại không nói đến Chúa Con, và mặt khác, Người không nói đến sự cứu rỗi của con người mà lại không nói đến mối liên hệ chặt chẽ kết hợp Chúa Cha và Chúa Con. Người tuyên bố: “Ai thấy Tôi là thấy Chúa Cha” (Ga 14:9; xem Ga 12:45), mặt khác: “ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết”(Ga 6:40). Do đó, sự thật về Thiên Chúa và sự thật về sự cứu rỗi của con người có liên quan mật thiết với nhau.

b. Mối liên hệ của Chúa Con Cứu thế với con người

89. Bằng cách ghi nhớ những gì chúng ta đã lưu ý, bây giờ chúng ta hãy tìm kiếm trong Tin Mừng Gioan những điều có liên quan đến công việc cứu độ của Chúa Con, và do đó, sự cứu rỗi của con người. Thánh Gioan Tẩy Giả trình bày Chúa Giêsu bằng những lời sau đây, trong lần xuất hiện công khai đầu tiên: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian” (Ga 1:29; cf Ga 1:36; Mt 1:21). Người Samaria hiểu rằng “Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (Ga 4:42). Mặt khác, việc nâng Chúa Giêsu lên thập giá có tính nền tảng đối với công việc cứu độ của Người. Cuối cùng, trong lời khẳng định long trọng của Người “TÔI HẰNG HỮU”, Chúa Giêsu tiết lộ một cách trổi vượt toàn bộ các khía cạnh của viễn ảnh cứu độ.

Trong cuộc đối thoại với Nicôđêmô, Chúa Giêsu từng tuyên bố: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”(Ga 3:14-15). Người cũng tuyên bố: ” Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga 8:28)[1]; nghĩa là, con người sẽ hiểu căn tính thực sự của Người, như sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúa Giêsu cũng nói về việc giương cao Người lên thập giá: “tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12:32). Người sẽ là “hạt lúa mì rơi xuống đất”, khi chết đi sẽ “sinh nhiều hoa trái” (Ga 12:24). Sự giương cao Người lên thập giá đồng thời là sự tôn vinh của Người (x. Ga 12:23.28; 17:1.5), nghĩa là sự mặc khải trọn vẹn về tình yêu của Người dành cho Chúa Cha, được bày tỏ trong việc vâng phục của Người đối với thánh ý Chúa Cha, Đấng đã sai Người (x. Ga 14:31; x. Ga 4:34), và cả tình yêu vô tận được Chúa Cha làm chứng, khi sai Con của Người và giao phó cho Người việc cứu rỗi thế giới (x. Ga. 3:16). Chấp nhận giờ đã định của Chúa Cha, Chúa Giêsu đẩy tình yêu của Người dành cho những kẻ thuộc về Người cho đến cực điểm, “đến cùng” (Ga 13:1). Lời cuối cùng của Người, trước cái chết của Người trên thập giá là: “Thế là đã hoàn tất!” (Ga 19:30). Khi chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã hoàn thành công việc mà Chúa Cha giao phó cho Người để cứu rỗi con người. Người mặc khải, không những bằng lời nói, mà cả bằng hành động, tình yêu của Người và tình yêu của Chúa Cha dành cho loài người.

Được Chúa Cha sai đến và nhận mọi sự từ Chúa Cha, Chúa Giêsu cho thấy một cách đặc biệt ý nghĩa cứu độ của chính con người mình trong những biểu thức khởi đầu bằng công thức “Tôi hằng hữu”. Với công thức này – nên được hiểu theo ánh sáng mặc khải Thiên Chúa từng ngỏ với Môsê “Ta là Đấng Hằng Hữu” (Xh 3:14), Chúa Giêsu phát biểu sự kiện này: Thiên Chúa Cha hiện diện trong con người của Người, và Người làm cho hiệu quả cứu rỗi của sự hiện diện này trở nên hiển thị. Chúa Giêsu sử dụng thành ngữ “Tôi hằng hữu” ba lần, không có bất cứ bổ ngữ nào: khi Người đi trên mặt nước (xem Ga 6:20) (*); nói đến lúc Người được giương cao trên thập giá (x. Ga 8:28) và trong lời khẳng định long trọng: “Thật, tôi bảo thật các ông : trước khi có ông Ápraham, thì tôi, Tôi Hằng Hữu” (Ga 8:58). Trong mọi trường hợp, Người khẳng định sự hiện diện cứu rỗi của mình, đặt cơ sở trên sự kết hợp hoàn hảo của Người với Chúa Cha. Trong bảy lần khác, biểu thức “Tôi hằng hữu” được xác định bởi bổ ngữ nhằm giới thiệu các thực tại căn bản của đời người. Ở đây chúng ta chỉ có thể chỉ ra một cách ngắn gọn ý nghĩa của những lời lẽ này.

Biểu thức đầu tiên, Chúa Giêsu nói: “Ta là (*) bánh ban sự sống” (Ga 6:35.48.51). Chúng ta hãy thêm ngay rằng chữ “sự sống” được sử dụng trong hai diễn từ khác (x. Ga 11:25; 14:6), và hoàn toàn hiện diện trong mọi người. Cuộc sống trần gian là sự thiện căn bản, nền tảng của mọi sự thiện khác. Chúa Giêsu mặc khải rằng sự sống vĩnh cửu, một sự sống hệ ở việc kết hợp mạnh mẽ và trọn vẹn hơn với Thiên Chúa (Ga 17:3), và là sự thiện cao cả nhất, và là sự hoàn hảo của ơn cứu rỗi. Lời của Chúa Giêsu nói trên bánh mì mang theo ba quả quyết kép:

1.Cơm bánh giữ cho anh em sống trên trái đất. Từ Thầy, anh em nhận được sự sống đời đời.

2.Anh em phụ thuộc cơm bánh như của nuôi để có thể sống; không cơm bánh, sự sống không thể có. Anh em phụ thuộc vào Thầy để có cuộc sống vĩnh cửu; anh em tự mình không thể có được cuộc sống này.

3.Để có thể sống, anh em phải ăn cơm bánh. Ai không ăn sẽ chết. Để có cuộc sống vĩnh cửu, anh em phải tin vào Thầy. Ai không tin sẽ hư mất.

Các lời lẽ khác Chúa Giêsu dùng để định nghĩa chính bản chất của con người của Người được sắp xếp giống hệt với cách vừa được mô tả, và mang một nội dung cứu rỗi. Chúng thường được liên kết với một trong những dấu lạ Người thực hiện, và nằm bên trong các giáo huấn bao quát hơn. Bối cảnh làm rõ ý nghĩa của nó.

Biểu thức thứ hai: “Tôi là (*) ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8:12; x. 9:5; 12:35). Việc lần mò trong bóng tối, không có ánh sáng, là một điều cực kỳ nguy hiểm. Chúa Giêsu biết hạn từ đích thực (x. Ga 8:14): Chúa Cha. Người đi đúng đường, và chỉ đường này cho các môn đệ. Khi tuyên bố: “Ta là (*) cửa” (Ga 10:7.9), Chúa Giêsu khẳng định Người cho phép ta tiếp cận đoàn chiên (Ga 10: 7): các mục tử đích thực của dân Chúa độc đáo là những người mà Chúa Giêsu ở đã ủy nhiệm chăm sóc đoàn chiên và là những người hành động nhân danh Người (x. Ga 21:15-17). Chúa Giêsu cũng là cửa cho đoàn chiên: chỉ nhờ trung gian của Người mà tín hữu tìm được của ăn ngon lành và dồi dào, vì Người mang lại sự sống dồi dào (Ga 10:10). Lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Tôi, tôi là mục tử nhân lành” (Ga 10:11.14) thuộc cùng một thể văn dụ ngôn. Nó nhấn mạnh tới mối quan tâm sâu sắc của Chúa Giêsu đối với những kẻ thuộc về Người, đó là mối quan tâm đến có thể hy sinh mạng sống của chính mình, và có đặc điểm ở sự thân quen hỗ tương (xem Ga 10:14-18).

Biểu thức thứ ba: lời quả quyết “Ta là (*) sự sống lại và  (*) sự sống” (Ga 11:25) nói lên vai trò của Chúa Giêsu trong việc vượt qua cái chết. Người ta có thể so sánh nó với kiểu nói: “Tôi là Đường, là Sự thật và là Sự sống; không ai đến với Chúa Cha mà không qua tôi “(Ga 14:6). Biểu thức này xác định một cách tổng hợp vai trò của Chúa Giêsu trong việc đến với Thiên Chúa Cha, Đấng là nguồn duy nhất của cứu rỗi và sự sống. Nó nói lên vai trò của nó trong việc làm ta bước vào mối liên hệ với Chúa Cha, biết Chúa Cha, tham dự vào sự sống của Chúa Cha.

Biểu thức cuối cùng: “Thầy, Thầy là (*) cây nho và các con là cành” (Ga 15:5; xem Ga 15:1). Nó tóm tắt cách nào đó mối liên hệ giữa Chúa Giêsu và loài người: các cành chỉ có thể sống và sinh hoa trái nếu chúng vẫn còn trên cây nho. Câu quả quyết này dẫn đến câu hỏi sau đây: con người phải làm gì để duy trì sự hiệp nhất với Chúa Giêsu?

c. Con người tiếp cận ơn cứu rỗi 

90. Với hình ảnh cây nho, Chúa Giêsu đề cập đến hai phương thức kết hiệp với Người (các lời nói và tình yêu của Người): “Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em…” (Ga 15:7); ” Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy ” (Ga 15:9). Các lời lẽ của Chúa Giêsu là toàn bộ sự mặc khải được Người mang tới. Chúng có nguồn gốc từ Chúa Cha (xem Ga 14:10; 17:8) và ở trong người chào đón chúng, khi tin vào Chúa Giêsu (x. Ga 12:44-50). Đó chính là tâm điểm của đức tin: ” Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga 14:11). Ở lại trong tình yêu của Chúa Giêsu sau đó sẽ dẫn đến việc tiếp nhận Người một cách biết ơn và hoàn toàn tin tưởng vào Người, nhưng cũng phải tuân theo các giới răn của Người: “Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương các con” (Ga 15:12; xem 13:34). Tin vào Chúa Giêsu, vào các lời nói và tình yêu của Người, và yêu thương người khác tạo đường giúp ta ở trong Người, duy trì sự kết hiệp với Người, Đấng vốn là sự sống, nghĩa là nguồn gốc của mọi sự sống và ơn cứu rỗi (xem 1 Ga 3:23).

Chính trong bối cảnh xuất hiện công thức “Tôi hằng hữu” lần cuối cùng, Chúa Giêsu tuyên bố: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15:15). Có thể liên kết mối liên hệ của Người với các môn đệ và mối liên hệ của Người với Chúa Cha; mối liên hệ này có bản chất hoàn toàn bản thân, quen thuộc và thân ái. Ở lại trong mối liên hệ này với Chúa Giêsu tạo nên sự sống đời đời, tức ơn cứu rỗi được Chúa Giêsu mặc khải. Khi kết thúc lời cầu nguyện tuyệt vời của Người với Chúa Cha, Chúa Giêsu cho thấy với cường độ nào Người vốn mong muốn sự kết hợp này: từ “Con cầu xin” (Ga 17:9.15.20), Người bước sang một công thức chưa từng có trong số ít “Con muốn”, khi nói ” Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành”(Ga 17:24).

Như thế, sự kiện việc mặc khải của Thiên Chúa có mục tiêu chính là Thiên Chúa và sự cứu rỗi của con người (xem Dei Verbum, số 2), xem ra hoàn toàn rõ ràng trong Tin Mừng Gioan.

(*) “Ta Hằng Hữu” là dịch cụm từ “Je suis” (tiếng Pháp), “Ego Sum” (tiếng La Tinh) rất chỉnh trong lời Thiên Chúa nói với Môsê về danh tính của Người (Xh 3:14). Nhưng trong những kiểu nói khác, tiếng Việt phải dịch động từ “être” (Je suis, il est là “là”) như trong các kiểu trích trong đoạn này.

3.4. Các thư của Thánh Tông đồ Phaolô

91. Các trước tác của Thánh Phaolô là trước tác cổ nhất của Tân Ước. Chúng đề cập đến sự thật mà Thiên Chúa đã mặc khải cho Israel, và là sự thật, qua việc sai Con Thiên Chúa đến, đã được đem đến hoàn tất của nó, và được công bố vượt ra ngoài ranh giới của dân được chọn, đến nỗi không còn “Do Thái hay Hy Lạp “(Ga 3,28) nữa. Không giống như các Tin mừng, là các sách thẩy đều có sau các thư của ngài, Thánh Phaolô không xem xét quá khứ cho bằng củng cố cuộc sống hiện tại và tương lai trong Chúa Kitô của các cộng đồng Kitô giáo, do ngài hoặc người khác sáng lập, nhưng tất cả đều hợp nhất trong cùng một đáp ứng đức tin và tình yêu.

Các yếu tố lịch sử có thể được các thư của Thánh Phaolô khởi xuất rất hạn chế. Người ta cũng có thể thấy các tước hiệu được các tin mừng gia gán cho Chúa Giêsu trần thế (thầy, giáo sĩ [rabbi], tiên tri, con vua Đavít, Con người) không có mặt trong các trước tác của ngài; trong khi các tước hiệu trực tiếp chỉ đặc điểm của Đấng Phục sinh được sử dụng, như tước hiệu “Chúa” (Pl 2:11), và nhiều tước hiệu khác; Chúa Kitô (với khuynh hướng sử dụng thuật ngữ này như tên riêng của Chúa Giêsu, (xem Rm 5:6.8, v.v.); Con Thiên Chúa (Rm 1:4; Ga 4:4, v.v …); hình ảnh Thiên Chúa (xem 2 Cr 4:4). Cái chết và sự phục sinh của Chúa, và các hiệu quả cứu độ của chúng, tập chú hầu như chuyên nhất vào quan tâm bản thân và mục vụ của Thánh Phaolô. Ngài sống “trong đức tin vào Con Thiên Chúa”, Đấng yêu ngài “và hiến mạng” vì ngài (Gl 2:20). Đó là lý do tại sao ngài đã chiến đấu mãnh liệt chống lại tất cả những ai xuyên tạc “sự thật của Tin Mừng” này (Ga 2:5) và thậm chí chống đối cả Thánh Phêrô (xem Gl 2:11). Một cách nào đó, Thánh Phaolô bắt đầu công trình của ngài ở chỗ các Tin mừng kết thúc.

Chúng ta sẽ trình bầy chứng từ của Thánh Phaolô về Thiên Chúa và sự cứu rỗi trong bốn phần sau đây: a. Thánh Phaolô được hưởng sự mặc khải về chính ơn gọi của ngài và Truyền thống của Giáo hội; b. Thiên Chúa tự mặc khải mình trong Chúa Kitô bị đóng đinh và phục sinh; c. Ơn cứu rỗi được tiếp nhận và sống trong Giáo hội, Nhiệm thể Chúa Kitô; d. Sự viên mãn của ơn cứu rỗi hệ ở sự phục sinh của Chúa Kitô.

a. Thánh Phaolô được hưởng sự mặc khải về chính ơn gọi của ngài và Truyền thống của Giáo hội

92. Liên kết ơn gọi đặc thù của mình với những gì đã được rao giảng và sống trong Giáo hội – một Giáo hội mà trước đây ngài đã khủng bố dữ dội (1 Cr 15:9; Gl 1:13; Pl 3:6) – Thánh Phaolô đặt mình vào thế tiếp nối với truyền thống như với đức tin chung của các Giáo Hội. Ý thức mình được thừa hưởng một cuộc thông đạt độc đáo và đích thân về sự thật của Tin Mừng (x. Gl 1:11-17; 1 Cr 15:8), Thánh Phaolô vẫn cảm thấy sự cần thiết phải liên kết nó với tất cả các cộng đồng Kitô giáo khác. Mối liên hệ của Thánh Phaolô với những người tin vào Chúa Kitô không chỉ là mối liên hệ của một người cha cho đi (1 Cr 4:15; Gl 4:19), mà còn là và trên hết là mối liên hệ của một người mắc nợ những người đi trước đã chìa bàn tay nắm lấy tay ngài (xem Gl 2:9). Giữa thời Chúa Giêsu và hoạt động tông đồ của Thánh Phaolô là khoảng hai mươi năm sinh hoạt của một Giáo hội đang phát triển ở Giêrusalem, Samaria, Đamát và Antiôkia của Syria. Chính trong thời kỳ này, đức tin vào Chúa Giêsu đã được củng cố một cách luôn sâu sắc hơn trong tinh thần và trong tâm hồn các Kitô hữu tiên khởi, với đặc điểm một bản sắc tin tưởng độc đáo được cấu trúc nhanh chóng và nhận được sự soi sáng liên tiếp. Thánh Phaolô chịu ơn đối với các phát triển tín lý do các Giáo hội đầu tiên mang đến. Do đó, sau khi mạnh mẽ nhấn mạnh rằng Ơn gọi đã được Chúa Kitô trực tiếp mặc khải cho ngài đã đủ để chứng thực Tin Mừng của ngài, không cần phải chờ đợi sự chấp thuận của các Tông đồ trước ngài (xem Gl 1:11-17). Ngài cảm thấy không kém cấp bách phải liên kết sự mặc khải mà ngài đã nhận được với di sản chung bằng cách gặp Thánh Phêrô (xem Gl 1:18) và trình bày lời rao giảng của mình, để không “vì sợ rằng tôi ngược xuôi, và đã ngược xuôi vô ích”(Gl 2:2). Cùng một cách như vậy, để nhấn mạnh ưu thế công việc Tông đồ của mình (“tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác” 1Cr 15:10), Thánh Phaolô vội vã tuyên bố: “Dù tôi hay các vị khác rao giảng, thì chúng tôi đều rao giảng như thế, và anh em đã tin như vậy”(1 Cr 15:11).

Đó là lý do tại sao ngài bác bỏ bất cứ hình thức ly khai địa phương nào, một điều sẽ dẫn đến việc tự tách rời khỏi các giáo hội khác và ngài hỏi người Côrintô: ” Lời Thiên Chúa có phát xuất từ anh em không? Hay lời ấy chỉ đến với một mình anh em mà thôi? “(1 Cr 14:36). Có rất nhiều sự chia rẽ trong Giáo hội này!: các nhóm nhỏ xíu cũng tự xưng có những cá tính giáo hội khác nhau một cách đầy bút chiến (xem 1 Cr 1-4); các cử hành “kiểu duy ưu tuyển” (elitiste) Bữa tiệc của Chúa (1 Cr 11:11-34); ghen đua vì các đặc sủng nổi bật nhất (xem 1 Cr 12-14). Một tình huống như vậy giải thích tầm rộng rãi của lời chào đầu tiên của Thánh Phaolô: “Kính gửi Hội Thánh của Thiên Chúa ở Cô-rin-tô, những người đã được hiến thánh trong Đức Kitô Giêsu, được kêu gọi làm dân thánh, cùng với tất cả những ai ở bất cứ nơi nào kêu cầu danh Chúa của chúng ta, Đức Giê-su Ki-tô, là Chúa của họ và của chúng ta”. (1 Cr 1:2). Nói cho chính xác, cộng đồng này, vốn bị đe dọa gặp rất nhiều nguy cơ tan rã, được Thánh Phaolô khuyên nhủ phải luôn ghi nhớ nhiều yếu tố hợp nhất: Chúa Kitô không thể chia cắt được (x. 1Cr 1:13); phép rửa trong một Chúa Thánh Thần duy nhất (x. 1Cr 12:13); Bí tích Thánh Thể (x. 1 Cr 10:14-17; 11:23-24); tình yêu (xem 1 Cr 8:1; 13:16,24).

b. Thiên Chúa tự mặc khải trong Chúa Kitô bị đóng đinh và sống lại

93. Cái chết trên thập giá của Con Thiên Chúa là tâm điểm của sự thật mặc khải, được Thánh Phaolô công bố (1Cr 2:1-2). Nó là “ngôn ngữ của thập giá” (1 Cr 1:18), chống lại sự cao ngạo của người Do Thái và người Hy Lạp (1 Cr 1:22-23). Đối với sự kiêu căng của người Hy Lạp, tự hào về “sự khôn ngoan” của họ, Thánh Phaolô phản chứng bằng “sự điên rồ” của thập giá (1 Cr 1:23). Thánh Phaolô cũng phản ứng đối với chủ nghĩa pháp lý của người Galát: không thể thêm gì cho Chúa Kitô, ngay cả Lề Luật mà Thiên Chúa đã ban hành như một yếu tố chuẩn bị và được Chúa Kitô đem đến hoàn thành và được vượt qua.

Thật vậy, thật đáng ngạc nhiên khi Thánh Phaolô, để đáp lại sự bảo đảm mà người Côrintô đã làm chứng, không dùng đến lý lẽ phục sinh, một điều tương ứng hoàn toàn với tai tiếng liên quan đến thập giá. Mặc dù phục sinh có một tầm quan trọng độc đáo trong Tin Mừng của ngài (việc rao giảng và đức tin sẽ vô ích nếu không có sự phục sinh: 1 Cr 15:14), trái với đầu óc hiếu thắng của người Côrintô, Thánh Phaolô muốn nhắc nhở rằng không ai đến được Phục sinh, mà không đi qua đồi Gôngôtha. Ở đây, cần lưu ý rằng, khi đề cập đến Đấng chịu đóng đinh, ngài sử dụng phân từ hoàn hảo (participle parfait: estauromenos: 1 Cr 1:23; 2:2; Gl 3:1), như thế có ý nói, cho đến ngày hôm nay, Chúa Kitô, mặc dù được tôn vinh, vẫn tiếp tục là người chịu đóng đinh. Do đó, hiển nhiên Thiên Chúa tự biểu lộ chính Người bằng tai tiếng thập giá của Chúa Kitô, tự mặc khải như vị Thiên Chúa của ơn thánh, cho thấy sự ưa thích của Người đối với kẻ yếu, kẻ tội lỗi, những người bị cách xa. Người hiện diện và hành động ở nơi người ta không thể tưởng tượng được: trong Chúa Giêsu thành Nadarét, bị kết án tử hình trên thập giá.

Nhưng “sự chết không có quyền lực đối với Người” (Rm 6: 9). Ở đây chúng ta phải lưu ý một lần nữa rằng Thánh Phaolô không bao giờ trình bày phục sinh mà không nói tới thập giá. Có một sự đồng nhất tuyệt đối giữa Đấng chịu đóng đinh và Đấng sống lại, điều đó có nghĩa là không có sự gián đoạn liên tục nào giữa Đấng “tự hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” và là Đấng Người “đã siêu tôn và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2:8-9.11) đó là “Chúa”. Nếu người ta chỉ nhìn vào Đấng chịu đóng đinh, thì không có sự khác biệt nào giữa Chúa Giêsu và hai kẻ bất lương cùng bị kết án với Người, cũng không có bất cứ khác biệt nào giữa Người và anh hùng Spartacus cũng bị đóng đinh. Mặt khác, nếu người ta chỉ xem xét sự phục sinh, họ sẽ gặp một tôn giáo trừu tượng, tha hóa (aliénante), quên đi con đường (thánh giá) mà trước tiên họ phải bước đi trước khi đạt đến vinh quang. Dù sao, chính một mình cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô, Đấng đã chiến thắng sự chết, đã làm cho Thánh Phaolô hiểu cách thức nhờ đó Đấng chịu đóng đinh đã trở thành Đấng đem lại sự sống. Điều này sở dĩ đã trở thành khả hữu, một mặt vì kinh nghiệm bản thân của Thánh Tông đồ (x. Gl 1:15-16; 1 Cr 9:1; 15:8) và mặt khác vì sự trung gian của Giáo hội (x. 1Cr: 11:23; 15:3: “Tôi đã truyền điều này cho anh em, điều mà chính tôi đã nhận được”).

c. Ơn cứu rỗi được tiếp nhận và sống trong Giáo hội, Nhiệm thể Chúa Kitô

94. Sự hòa hợp đặc biệt của các cộng đồng Kitô giáo và sự hiệp nhất của họ vượt ra ngoài sự đa dạng đã khiến Thánh Phaolô sử dụng siêu ẩn dụ “thân thể” để đào sâu các mầu nhiệm của Giáo hội Chúa Kitô. Ngài đề cập đến một chủ đề mà, trong Tân Ước, chỉ có Thánh Phaolô mới bàn đến (xem 1 Cr 12:12-27; Rm 12:4-5). Chủ đề này đã được khai triển đáng kể trong thư gửi tín hữu Côlôxê (xem Cl 1:18.22.24; 2:9-19) và trong thư gửi tín hữu Êphêsô (xem Eph 2:15-16: 4:4.12-16; 5: 28-33), một thư mà đối với nhiều người phát xuất từ “trường phái Phaolô” sau này.

Nói về các Kitô hữu như “Nhiệm thể Chúa Kitô”, Thánh Phaolô vượt xa sự so sánh đơn giản: các chi thể của Chúa Kitô, cùng với Người, tạo thành một thực tại duy nhất; Giáo hội là một thân thể “trong Người”. Giáo Hội không phải là kết quả của việc các cá nhân cộng lại, cũng không phải là việc các hợp tác của họ cộng lại, vì Giáo Hội có trước sự tích hợp từng mỗi chi thể lập thành Giáo Hội. Đó là lý do tại sao, Giáo hội không phải là một điều gì đó trung lập (hen – số “một” trung tính) – mà là một thực tại có bản vị (heis – số “một” nam tính): “Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà ; nhưng tất cả anh em chỉ là một (heis) trong Chúa Giêsu Kitô” ( Gl 3:28).

Do đó, đoạn này dạy rằng “Tất cả chúng ta […] đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể” (1 Cr 12:13). Tất cả diễn ra như thể Thánh Phaolô, khi công bố sử dụng ẩn dụ này, đã nhấn mạnh nguồn gốc ban đầu của sự hợp nhất này: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người”(1 Cr 12:4-6). Ở đây, Thánh Phaolô nhấn mạnh rằng các khác biệt, được hài hòa trong bối cảnh hợp nhất của Giáo hội, cũng phản ảnh sự hợp nhất nguyên ủy của Thiên Chúa mà từ đó chúng bắt nguồn. Lời chúc lành cuối cùng ở 2 Cr 13:13 cũng làm ngài hiểu: ” Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, đầy tình thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần”. Những lời chúc lành này của Thánh Phaolô không bắt đầu với Thiên Chúa Cha, nhưng với Chúa Giêsu Kitô, vì một mình Người dẫn chúng ta vào mầu nhiệm Ba Ngôi (Rm 8: 39). Cuối cùng, chúng ta hãy lưu ý tới sứ mệnh của Chúa Thánh Thần: tạo ra sự hiệp thông, theo nghĩa Người có vai trò thực hiện công trình cứu rỗi qua các thế kỷ: “để nhờ Đức Giê-su Ki-tô, các dân ngoại cũng được hưởng phúc lành dành cho ông Ápraham, và để nhờ đức tin, chúng ta nhận được ơn Thiên Chúa đã hứa tức là Thần Khí” (Gl 3:14). Do đó, tất cả đã chịu “phép rửa” bởi cùng một Thần Khí (1 Cr 12:13) và tạo thành một cộng đồng huynh đệ, đa dạng, nhưng nhất trí. Hồng phúc hợp nhất vô giá này, một hồng phúc, cuối cùng, đã chiếm ưu thế so với sự chia rẽ cũ giữa “Người Do Thái và người Hy Lạp” (Rm 10:12; 1 Cr 1:24; 12:13; Gl 3:28), buộc ta phải “sống một cuộc sống mới “(Rm 6:4),”cuộc sống của Thần Khí” (Rm 7:6), để nếu “ai ở trong Chúa Kitô đều là thụ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi”(2 Cr 5:17).

d. Sự viên mãn của ơn cứu rỗi hệ ở sự phục sinh của Chúa Kitô

95. Sự kết hợp với Chúa Kitô, mang ra sống với các Kitô hữu khác trong Nhiệm thể Chúa Kitô, là Giáo hội, không giới hạn vào cuộc sống trần gian. Trái lại, Thánh Phaolô nói: ” Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1 Cr 15:19). Trong chương dài nhất trong tất cả các thư của ngài (1 Cr 15: 1-5), ngài tìm cách đặt cơ sở và giải thích sự phục sinh của các Kitô hữu, một sự phục sinh vốn phát xuất từ sự phục sinh của Chúa Kitô. Ngài mạnh mẽ quả quyết rằng: “Chúa Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu… mọi người nhờ liên đới với Chúa Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống” (1 Cr 15:20.22). Đức tin vào sự phục sinh với Chúa Kitô, trong sự hiệp thông vĩnh cửu với Người và với Chúa Cha, tạo nên nền tảng và chân trời của lời rao giảng của Thánh Phaolô. Đức tin này ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống trần gian hiện tại, khiến nó có thể chịu đựng những khó khăn và nỗi đau buồn, vì biết rằng nỗi đau “trong Chúa” nỗi đau mà người ta chấp nhận “không vô ích” (1Cr 15:58). Trong lá thư cổ xưa nhất của mình, Thánh Tông đồ giải thích cho người Texalônica: “Những người đã an giấc trong Chúa Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Chúa Giêsu” (1 Tx 4:14); “hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng” (1 Tx 4:13).

Thánh Phaolô không đưa ra mô tả nào về cuộc sống này, nhưng chỉ đơn giản quả quyết: “Chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi” (1 Tx 4:17, xem 2 Cr 5:8). Ngài nhận ra trong đức tin và hy vọng này một sức mạnh to lớn có sức khuyến khích và an ủi, và, ở cuối đoạn văn, ngài nói với các Kitô hữu của Texalônica: “Vậy anh em hãy dùng những lời ấy mà an ủi nhau” (1 Th 4:18). Trở lại với viễn cảnh cái chết của chính mình, Thánh Phaolô nói: “Ao ước của tôi là ra đi để được ở với Chúa Kitô, điều này tốt hơn bội phần” (Pl 1:23). Do đó, sự viên mãn của ơn cứu rỗi có thể được hiểu như sự kiện được ở với Chúa Kitô, Đấng vốn ở với Chúa Cha, nghĩa là, sống hiệp thông trong cuộc sống hoàn hảo và dứt khoát với Người, và, trong Người với mọi chi thể của nhiệm thể Người (x. 1 Cr 15:28; xem Ga 17:3.24).

3.5. Sách Khải Huyền

a. Dẫn nhập: một sự thật được mặc khải, chuyên biệt và linh hứng

96. Sự thật được mặc khải, chứa đựng trong thông điệp của Sách Khải Huyền, được gọi là “sự mặc khải của Chúa Giêsu Kitô, mà Thiên Chúa đã giao phó cho Người” (Kh 1:1). Trong bản văn của sách Khải huyền, sự thật được mặc khải này, do Thiên Chúa Cha ban cho Chúa Giêsu Kitô, dần dần được xác định như một sáng kiến, một dự án sáng tạo và cứu rỗi, phát sinh trong nội thẳm Thiên Chúa, sau đó được thể hiện ở bên ngoài Người, ở bình diện con người. Chính Thiên Chúa, cũng như Chúa Giêsu Kitô, Lời linh hứng của Thiên Chúa, đã can dự vào việc thể hiện dự án này. Chúng ta có thể đặt tên chính xác cho chính đối tượng của dự án sáng tạo và cứu rỗi này: đó là Vương quốc của Thiên Chúa, một vuơng quốc, được Thiên Chúa thai nghén, bao trùm toàn bộ vũ trụ được tạo dựng và triển khai trong lịch sử của con người qua trung gian của Chúa Kitô và của các Kitô hữu, đến độ, nhờ được Lời Chúa Kitô thúc đẩy và mang vác, đã đạt tới đỉnh cao cánh chung của nó trong cảnh tuyệt diệu của Giêrusalem mới (xem Kh 2: 1-22.5).

Việc triển khai Vương quốc Thiên Chúa trong lịch sử được thực hiện một cách biện chứng: có một sự chống đối triệt để, trở thành một cuộc đấu tranh khốc liệt, giữa một mặt, “hệ thống của Chúa Kitô”, hợp nhất Chúa Giêsu Kitô và những người theo Người, và, mặt khác, “hệ thống tà ác trần gian, được Quỷ dữ truyền cảm hứng và thúc đẩy, nhằm mục đích thực hiện một “phản vương quốc”thực sự, chống lại Vương quốc của Thiên Chúa. Cuối cùng, cuộc đấu tranh kết thúc với sự biến mất dứt khoát của tất cả các phe phái xấu xa, và với sự thể hiện đầy đủ Nước Thiên Chúa trong bối cảnh dứt khoát của một “trời mới” và một “đất mới” (Ap 21:1), khi một tiếng nói từ ngai vàng long trọng tuyên bố: “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,3-4) . Đó là phần trình bày đẹp nhất về Nước Thiên Chúa đã được thể hiện.

Tuy nhiên, ý nghĩa sâu sắc mà tác giả sách Khải Huyền nói về con người cụ thể nói chung, và một cách đặc biệt hơn, về những khó khăn khủng khiếp mà các Kitô hữu gặp phải khi đối diện với sự thù địch của “hệ thống trần gian”, thúc đẩy ngài nhấn mạnh đến sự chắc chắn của mình đối với việc thể hiện trọn vẹn Vương quốc Thiên Chúa. Vương quốc này sẽ được hiện thực hóa trên trái đất, trong không gian của con người, với tất cả sự viên mãn đã được nghĩ tới ở bình diện thần thiêng, là bình diện cao nhất.

Do đó, sách đề cập đến Vương quyền của Thiên Chúa, được xem xét, một mặt, theo quan điểm hoàn toàn hoàn cầu, và mặt khác, được thấu hiểu trong việc thể hiện cụ thể của nó. Hai khía cạnh, kết hợp với nhau, cộng thành một bức tranh hấp dẫn và thống nhất về Vương quốc Thiên Chúa và sự ngự đến của nó. Sự thật được mặc khải cách riêng cho sách Khải huyền hệ ở chính điều đó, điều mà bây giờ chúng ta đề cập một cách chi tiết.

b. Sự thật nói chung: Vương quốc của Thiên Chúa được thể hiện bởi một dự án sáng tạo và cứu rỗi

97. Sự xuất hiện đầu tiên của hạn từ “vương quốc” mà chúng ta tìm thấy ở phần đầu của cuốn sách nằm trong bối cảnh được soi sáng: hướng về Chúa Giêsu Kitô bị đóng đinh và Phục sinh, Đấng mà họ tri nhận sự hiện diện, cộng đoàn phụng vụ, trong một động tác biết ơn và đầy cảm xúc, bày tỏ lời cảm tạ về những hồng ân nhận được từ Người: “Với Đấng đã yêu mến chúng ta, Đấng đã lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người : kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời. Amen” (Kh 1:5-6).

Được kết hợp bởi tình yêu của Chúa Giêsu Kitô, các Kitô hữu nhận ra Người đã lập mình thành thành viên của Vương quốc Thiên Chúa trong Chúa Kitô. Đó là một vương quốc đang phát triển và đang trở thành, chưa hoàn thành, nhưng đã được thiết lập: giữa Kitô hữu và Chúa Giêsu Kitô có một mối liên kết tương hỗ của tình yêu, hệ quả của một trách nhiệm tư tế của các Kitô hữu, một trách nhiệm làm họ trở thành các người trung gian giữa Thiên Chúa, Chúa Kitô và thực tại con người.

Nhưng trước tuyên bố này của cộng đoàn phụng vụ, chúng ta thấy một việc nhắc đến Vương quốc với ý nghĩa ngược lại: ban phúc lành Chúa Ba Ngôi cho cộng đoàn, Thánh Gioan nói thêm “Từ Chúa Giêsu Kitô, Chứng Nhân trung thành, là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết trỗi dậy, là Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian” (Kh 1:5). Bên cạnh Thiên Chúa và Chúa Kitô, xuất hiện một thực tại đối nghịch: “các vua chúa trần gian”, những người sách Khải huyền (xem Kh 6:15; 17:2; 18:3.9; 19:19) coi là các trung tâm quyền lực đặc trưng của “hệ thống trần thế”, đối nghịch với Vương quốc Thiên Chúa. Giữa các Kitô hữu, những người vốn đã thuộc về Vương quốc Thiên Chúa và chống lại sự ác, có một sự đối nghịch sẽ dẫn họ đến việc chia sẻ và đồng hành, trong tư cách các linh mục, cuộc chiến vinh thắng của Chúa Kitô-Chiên Con (x. Kh 5:6-10).

Sự phát triển của Vương quốc Thiên Chúa trong lịch sử thực sự là trách nhiệm của Chúa Kitô Chiên Con. Được trình bày trang trọng như ” Chiên Con ” – một thuật ngữ xuất phát từ Tin Mừng thứ tư (xem Ga 1:29.36) -, Người liên kết vào khả năng “xóa bỏ tội trần gian” (xem Ga 1:29), sức mạnh cho phép đánh bại và tiêu diệt sự ác do Ma Quỷ thực hiện, và một cách tích cực hơn, ý muốn chia sẻ với mọi người muốn thuộc về Người Chúa Thánh Thần, Đấng mà Người vốn mang theo (xem Kh 5:6). Chúa Cha đã long trọng trao phó cho Người toàn bộ dự án sáng tạo và cứu độ của Vương quốc (x. Kh 5: 7). Người sẽ là người hướng dẫn cho tất cả những ai mà Người đã lập thành các thành viên của Vương quốc, và là những người đã trở thành các linh mục trung gian. Cường độ của tình yêu kết hợp Chúa Giêsu Kitô và các Kitô hữu gắn bó với Người trong việc xuất hiện triều đại của Người, đang phát triển và gia tăng bao lâu sự hợp tác của họ được thực hiện.

Tác giả sách Khải huyền tìm cách làm nổi bật cường độ và phẩm chất của tình yêu này, bằng cách so sánh nó với trải nghiệm nhân bản về tình yêu của hai người đã đính hôn. Do đó, qua Chúa Giêsu Kitô, giữa những người tham gia Vương quốc của Người, một mối quan hệ hỗ tương được thiết lập đầy tính tươi mát, triệt để, mạnh mẽ và dịu dàng của một “mối tình đầu” Kh 2:4-5), một tình yêu “Nhiệt thành” (Kh 3:19). Chúa Giêsu Kitô đòi hỏi tình yêu này một cách tuyệt đối (xem Kh 2,4-5). Do đó, người ta hiểu rằng Vương quốc của Thiên Chúa mà Người được mời gọi xây dựng sẽ phải là một vương quốc của tình yêu.

Sức mạnh của tình yêu kết hợp Chúa Giêsu và các người thuộc về Người phát triển như một hệ quả của việc họ can dự vào việc chiến thắng sự ác, và trong việc thiết lập điều tốt, một can dự tìm kiếm hiệu năng lớn nhất, cho phép các Kitô hữu, trong tình yêu họ chia sẻ với Chúa Giêsu Kitô, từ hứa hôn bước qua hôn nhân. Chuyển cuộc xung đột giữa “hệ thống của Chúa Kitô” và “hệ thống của trần gian” từ bình diện hiện tại sang bình diện hoàn thành sau cùng của nó, tác giả thoáng thấy, một cách hết sức vui mừng, việc thể hiện đầy đủ của Vương quốc Thiên Chúa và nhận ra tiếng nói từ trời nói với ngài rằng: “Bây giờ đây là ơn cứu rỗi, quyền năng và triều đại của Thiên Chúa chúng ta, đây là quyền năng của Đấng Kitô của Người! “( Kh 12:10). Mặc dù mạnh mẽ cảnh báo về áp lực tàn bạo của sự ác – và nói minh nhiên về nó – sách Khải huyền nhấn mạnh vào vấn đề tích cực này của lịch sử. Ý nghĩ về việc Vương quyền của Thiên Chúa đã được thể hiện làm mê lòng tác giả, nên ở một trong những bài tụng ca đẹp đẽ nhất của mình (Kh 19:1-9), tác giả thốt lên một cách phấn khởi: “Halêluia! Đức Chúa là Thiên Chúa Toàn Năng đã lên ngôi hiển trị. Nào ta hãy vui mừng hoan hỷ dâng Chúa lời tôn vinh, vì nay đã tới ngày cử hành hôn lễ Con Chiên, và Hiền Thê của Người đã trang điểm sẵn sàng, nàng đã được mặc áo vải gai sáng chói và tinh tuyền” (Kh 19: 6-8). Nhờ “những hành động chính đáng” thực hiện trong khung cảnh hợp tác của họ với Chúa Kitô, các Kitô hữu được mô tả như vị hôn thê tự chế tác trang phục cưới của mình. “Đám cưới của Chiên Con” sẽ được thể hiện khi, trong sức mạnh của sự cam kết chung giữa Chúa Kitô và những ai thuộc về Người, mọi sự ác trên thế giới sẽ bị tiêu diệt, và tất cả những ai làm điều ác sẽ bị tiêu diệt. Lúc đó, sự cam kết của Chúa Giêsu Kitô và của những kẻ thuộc về Người đã được truyền đạt đến mọi người sự mới mẻ của Chúa Kitô. Và các Kitô hữu, nhờ được Thiên Chúa chuẩn bị, sẽ yêu mến Chúa Giêsu Kitô như Chúa Giêsu Kitô đã yêu và đang yêu mến họ. “Vị hôn thê” sẽ trở thành “cô dâu”.

Đó là điều kỳ diệu của Giêrusalem mới, của triều đại Thiên Chúa từ nay đã được thể hiện. Không còn tham gia vào việc chuẩn bị để Nước Thiên Chúa xuất hiện nữa, các Kitô hữu sẽ tham gia đầy đủ vào việc xuất hiện này và sẽ vui hưởng nó trong tính toàn bộ của nó. Điều này được phát biểu trong phần kết luận tuyệt vời của sách (xem Kh 22:1-5). Trên quảng trường trung tâm của Giêrusalem mới là ngai vàng độc nhất, đó là “ngai vàng của Thiên Chúa và của Chiên Con” (Kh 22:1c). Từ ngai vàng tuôn ra “một dòng sông sáng chói như pha lê” (Kh 22:1ab), biểu tượng của Chúa Thánh Thần. Dòng sông chảy, tạo ra và phát triển “cây sự sống” (Kh 22:2c), không còn như một cây đơn độc (xem Kh 2:7 và St 2:9; 3:22.24), nhưng “giữa hai nhánh của dòng sông “( Kh 22:2b) như một khu rừng sự sống. Vì có sự can dự chung của Thiên Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, người ta có thể dám sử dụng kiểu nói “sự tràn ngập ba ngôi” – “sự tràn ngập ba ngôi” của sự sống và tình yêu đến vô cùng, tràn đến con người. Và con người, hạnh phúc vì được thuộc về Vương quốc cách trọn vẹn, và do đó, có thể yêu thương không giới hạn, sẽ không còn “cần đèn đuốc hay ánh sáng mặt trời, vì Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ chiếu sáng trên họ, và họ sẽ hiển trị đến muôn thuở muôn đời”( Kh 22:5). Do đó dự án lớn về Vương quốc Thiên Chúa đã được trình bày như thế.

c. Đào sâu sự thật như một toàn bộ, qua trung gian những gì “đúng sự thật” (véridique)

98. Sự thật được sách Khải huyền mặc khải – liên quan đến Triều đại Thiên Chúa – được tái duyệt và đào sâu mỗi lần xuất hiện hạn từ “đúng sự thật – alèthinos của Hy ngữ”. Những lần xuất hiện này liên hệ đến sự thật được mặc khải về Triều đại Thiên Chúa, minh họa và nhấn mạnh sự gắn bó vốn hiện hữu giữa dự án được coi là “từ bên trong” của chính Thiên Chúa, trong nội thẳm thần thiêng, và việc thể hiện nó “ở bên ngoài” Thiên Chúa, trong lịch sử cụ thể của con người. Chính ở đây, niềm hy vọng của con người được phát sinh. Bất chấp áp lực của sự ác, “Triều đại của Thiên Chúa chúng ta” và “quyền năng của Đấng Kitô của Người” (Kh 12:10), thay vì tạo ra một giấc mơ dần tan, sẽ xuất hiện trong thực tại theo nghĩa hẹp của nó.

Đặc tính “đúng sự thực” của Thiên Chúa Cha

Lần đầu tiên trong bốn lần xuất hiện nối kết tĩnh từ ” đúng sự thực” vào Thiên Chúa Cha liên quan đến Người một cách đích danh. Các vị tử đạo, từ nay được tiếp xúc trực tiếp với Thiên Chúa, nhận thấy sự hiện diện dai dẳng của sự ác trên thế giới, nên đã ngỏ với Thiên Chúa một lời cầu trọng yếu, đầy cảm xúc, lớn tiếng kêu lên rằng: “Lạy Chúa chí thánh và chân thật, cho đến bao giờ Ngài còn trì hoãn, không xét xử và không bắt những người sống trên mặt đất phải đền nợ máu chúng con” (Kh 6:10-11). Các vị tử đạo, nhìn thẳng vào mặt Thiên Chúa, nhận thấy nơi Người sự toàn năng tuyệt đối khiến Người trở thành “tối cao” của mọi loài; họ thấy Thiên Chúa “thánh thiện”, và như vậy, hoàn toàn chống lại sự ác, dẫn một cách không thể cưỡng lại đến việc loại bỏ nó; họ thấy Thiên Chúa “chân thật”, với sự gắn bó tuyệt đối giữa tất cả những gì Người là trong chính Người và hành động của Người trong lịch sử, và, vì bối rối, họ hỏi cho đến bao giờ hành động của Người sẽ diễn ra. Thiên Chúa đáp lại bằng cách trấn an họ: chiến thắng của Người trước sự ác nhất định sẽ xảy ra, nhưng sẽ được thể hiện dần dần, theo kế hoạch của Người. Trong khi chờ đợi, các vị tử đạo được hưởng lợi ngay lập tức nhờ việc tham gia trực tiếp vào sự phục sinh của Chúa Kitô, được tượng trưng bởi chiếc “áo trắng” (Kh 6:11), được trao cho họ.

Điều chúng ta vừa thấy được xác nhận và làm cho minh nhiên bởi sự kiện này: tĩnh từ “đúng sự thật” được nối kết với các hành động cụ thể qua đó Thiên Chúa theo đuổi dự án của Người trong lịch sử. Đây có ý nói đến những “con đường” (Kh 15:3) và cả “những phán quyết” (xem Kh 16:7; 19:2), là những điều, khi đặt trong mối tương quan với Thiên Chúa và số phận con người, với điều kiện chúng “đúng sự thật”, bảo đảm sự gắn bó nhất quán giữa Thiên Chúa trong chính Người và toàn bộ hành động của Người.

Đặc tính “đúng sự thật” của Chúa Giêsu

99. Liên quan đến hồng ân của Chúa Giêsu Kitô dành cho loài người, vốn là đặc tính của dự án Vương quốc Thiên Chúa, thuật ngữ ” đúng sự thật / chân thật” được sử dụng ba lần (Kh 3:14; 19:9), cho phép một sự thấu hiểu rõ hơn về những gì là chính Vương quốc, và việc nó sẽ đến.

Lần đầu tiên trong số những lần xẩy ra này định nghĩa Chúa Giêsu như “Đấng Thánh, Đấng chân thật – alèthinos” (Kh 3:7), như thế đặt Người ngang hàng với Chúa Cha, Đấng mà các vị tử đạo đã kêu cầu: ” Chúa chí thánh và chân thật” (Kh 6:10). Là một “Đấng thánh”, Chúa Giêsu, giống như Chúa Cha, có sự viên mãn của thiên tính. Khi Chúa Cha và Chúa Giêsu đi vào lịch sử của con người, cả hai đều đáng được gọi bằng tước hiệu “chân thật”, theo nghĩa, như đã được đề cập ở trên, một sự tương ứng hoàn hảo giữa thiên tính của các vị và sự can dự của các vị vào lịch sử. Theo dự án thần thiêng vĩ đại, các mối liên hệ của các vị với con người không thể bị coi như thuộc về trình độ “thấp hơn”.

Hướng mắt nhìn lên Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã dấn thân cho con người, một khía cạnh khác trong sự hiện diện cụ thể của Người trong lịch sử có thể được đưa ra ánh sáng: đó là chứng từ của Chúa Cha mà Người là người mang theo. Trong tư cách “Lời hằng sống”, Người thấy Chúa Cha trực tiếp trong chiều kích vô tận của Người, như “Lời nhập thể”, Người liên hệ hữu hiệu với con người, Người thấu hiểu con người đến ngọn ngành. Chứng từ của Người có thể mang sự giàu có vô hạn của Chúa Cha, Đấng mà Người nhìn thấy, tới gần con người, bất kể họ là ai và bất cứ họ ở nơi nào. Tự xác định Người như “nhân chứng trung thành và chân thật” (Kh 3:14), Người nhấn mạnh việc chứng từ “trung thành” của Người hoàn toàn tương ứng với sự giàu có vô hạn của Chúa Cha, đồng thời duy trì sự tiếp xúc sống động với con người. Ngoài ra, tĩnh từ ” đúng sự thật / chân thật” tìm cách chứng tỏ, qua chứng từ của Người, Chúa Giêsu đã cam kết ra sao sự viên mãn của thiên tính và nhân tính của Người. Sự phong phú vô hạn của Chúa Cha, do đó, đã được mặc khải cho chúng ta nơi Chúa Giêsu Kitô, mang lại xương thịt và độ dày cho sự thật mặc khải liên quan đến dự án của Nước Trời. Mặc khải là một hồng ân.

Trong bối cảnh sóng gió đang đối đầu với Chúa Giêsu và những người dấn thân bước theo Người, đối đầu với hệ thống trần gian, họ tìm cách tận diệt sự ác và vun trồng sự thiện, Chúa Kitô được tuyên xưng là Đấng “Trung thành và chân thật” (Kh 19:11), có ý nói đến lòng trung thành của Người đối với dự án của Chúa Cha và với việc cam kết toàn bộ thiên tính và nhân tính của Người, để dẫn nó tới điều thiện. Một số khía cạnh của “sự thật” vốn là đặc trưng của Chúa Kitô này được chỉ ra và nhấn mạnh: nó được liên kết với một tình yêu nồng cháy dành cho Chúa Cha và cho con người (“Mắt Người như ngọn lửa hồng- Kh 19:12). Chúa Kitô hiến mạng sống của Người để hoàn thành sứ mệnh của Người (Người mặc một áo choàng “đẫm máu” – Kh 19:13a); Tên Người sẽ mãi không ai biết và từ đầu sẽ mãi là một bí mật của Người (xem Kh 19:12c). Nhưng khi, bằng lời Người nói ra (“thanh gươm sắc bén” – Kh 19:15), Người sẽ khắc sâu vào tất cả những ai tiếp nhận Người một dấu ấn của chính Người, tên của Người sẽ được nhận biết và Người sẽ được gọi công khai là “Lời Thiên Chúa” (Kh 19:13b). “Lời Thiên Chúa” tuyệt hảo này, mà Chúa Giêsu vốn mang trong mình Người, đang sống và trùng hợp với Người trong tư cách Ngôi Lời Nhập Thể (x. Ga 1:1.14), được truyền tải bằng lời của Người ngỏ cùng con người; Lời này sẽ được “in” vào tất cả những ai chào đón Người, ban cho họ sự mới lạ Kitô học của Người. Cuối cùng, mọi sự sẽ được đồng hình đồng dạng với Người, Lời được ban cho.

Những lời đúng sự thật được linh hứng và gây linh hứng

Lần đầu trong ba lần xuất hiện chữ alèthinos, chỉ các lời nói (Kh 19:9), Thiên thần giải thích, tước vị đi theo Thánh Gioan, đã thốt lên những lời sau đây: “Đó là những lời nói chân thật của Thiên Chúa”. Những lời được linh hứng mà chúng ta gặp trong Khải Huyền, từ đầu, đồng thời cũng là những lời của chính Thiên Chúa. Chúng được truyền qua Chúa Giêsu Kitô, Lời hằng sống của Thiên Chúa. Từ Chúa Giêsu Kitô và qua trung gian Thánh Thần của Người, chúng được truyền lan tới con người và tiếp nối với họ. Chúng được cho là “đúng sự thật” bởi vì chúng có thể mang đến cho con người biết chào đón chúng tất cả sự giàu có của Chúa Kitô và của Thiên Chúa, một sự giầu có chúng vốn mang theo.

Lần xuất hiện thứ hai có một công thức văn chương phức tạp hơn. Ở đấy, lần lượt có sự can thiệp trực tiếp của Thiên Chúa, sự lặp lại diễn từ của Thiên thần giải thích, và, một lần nữa, sự can thiệp của Thiên Chúa để kết luận: “Đấng ngự trên ngai phán : ‘Này đây Ta đổi mới mọi sự’. Rồi (thiên thần giải thích) nói : ‘Ngươi hãy viết: vì đây là những lời đáng tin cậy và chân thật’. Rồi (Thiên Chúa ngự trên ngai) phán với tôi : ‘Xong cả rồi ! Ta là Anpha và Ômêga, là Khởi Nguyên và Tận Cùng…” (Kh 21:5-6). Lời tuyên bố long trọng của Thiên Chúa, Đấng được trình bày đang ngự trên ngai vàng có thể được hiểu như nguyên lý quyết định mọi cuộc triển khai sự thật mặc khải, mọi diễn trình xuất hiện của Vương quốc. Lời tuyên bố này cho thấy ý định làm cho nó sinh động: nó muốn in trong mọi vật, bắt đầu từ con người, sự mới mẻ của Chúa Kitô. Sự lặp lại diễn từ mà thiên thần giải thích ngỏ cùng Thánh Gioan đã nhấn mạnh giá trị của nó, nó sẽ trở thành cố định bằng cách được viết ra: tất cả “những lời này” của Thiên Chúa (xem Kh 19:9), bắt đầu từ những lời cuối cùng được phát âm “đáng tin cậy”. Chúng tương ứng cách thỏa đáng với ý định của Thiên Chúa, Đấng có ý định dành chúng cho con người, qua trung gian của Chúa Giêsu Kitô. Nhờ có một nội dung hoàn toàn phù hợp với các yêu cầu của Thiên Chúa và các khát vọng của con người, chúng được công bố là “đúng sự thật”, mang theo chúng tất cả “sự mới mẻ” của Chúa Kitô và có thể truyền đạt sự mới mẻ này.

Nhờ đạt được mục đích cánh chung của chúng, các Lời của Thiên Chúa được trình bày trong sách Khải Huyền có thể được coi đã “hoàn tất”. Sự kiện này được khẳng định một cách long trọng bởi Thiên Chúa, Đấng rất gần gũi với lịch sử loài người đến nỗi trên thực tế “trùng hợp” với sự khởi đầu, cũng như kết thúc của nó. Vào lúc khởi đầu thời gian trôi qua giữa “alpha” và “omega”, tức “khởi đầu” và “hoàn tất”, là những lời của Thiên Chúa được triển khai: nội dung Kitô học của chúng dần dần tỏa sáng một cách năng động. Và qua trung gian những lời “đang trong diễn trình trở thành” này, Thiên Chúa làm mới mọi sự.

Lần xuất hiện thứ ba của alèthinos, lên đặc điểm cho các lời linh hứng, nằm ở trang cuối của cuốn sách. Một lần nữa, Thiên thần giải thích tuyên bố với cộng đoàn phụng vụ đang lắng nghe ngài rằng: “Những lời này đáng được tin cậy và chân thật” (Kh 22:6). Ở đây, thêm vào ý nghĩa hàng đầu của sự tương ứng hoàn toàn của chúng với ý định của Thiên Chúa và cam kết tuyệt đối về phần Thiên Chúa, đặt thiên tính của chính Người để phục vụ con người, qua trung gian Chúa Kitô, là việc nhắc đến cuốn sách vừa được đọc cho cộng đoàn. Những lời được linh hứng, nếu được chào đón một cách phải lẽ, sẽ trở thành nguồn linh hứng cho người chào đón chúng, bằng cách “cấy trồng” Chúa Kitô – sự mới mẻ đổi mới – sự mới mẻ chúng hằng mang theo.

Như thế, vòng tròn đã đóng lại. Bắt đầu từ Thiên Chúa Cha, mọi thứ truyền đến Chúa Giêsu Kitô, Lời hằng sống của Chúa Cha. Chúa Giêsu Kitô, Lời sống, là một từ được gửi và cho: đó là nói một từ mà từ chính nó như là nội dung, kết hợp với con người để cấy ghép sự mới lạ của riêng họ. Khởi đi từ bình diện Kitô học được hình thành và phát triển nơi con người này, dẫn họ đến một sự hiệp nhất nhất định sẽ diễn ra với Chúa Giêsu Kitô, Lời sống, Chúa Cha trên trời, đến lượt Người, sẽ nối kết trở lại.

4. Kết luận

101. Người đọc Sách Thánh chỉ có thể được gấy ấn tượng bởi cách mà nhiều bản văn đa dạng cả trong hình thức văn học lẫn gốc rễ lịch sử của chúng đã được hợp nhất thành một qui điển duy nhất, và làm hiển thị một sự thật nhất trí, một sự thật tìm được phát biểu trọn vẹn trong con người của Chúa Kitô.

a. Những phát biểu văn chương và thần học của Cựu Ước

Việc nghiên cứu về các hợp thể (ensembles) văn chương khác nhau của Cựu Ước đã cho thấy sự phong phú cực độ trong các biểu hiện của Thiên Chúa trong lịch sử. Kinh thánh làm chứng rằng Thiên Chúa muốn bước vào mối liên hệ với nhân loại, qua các trung gian đa dạng.

– Chính công trình sáng thế cũng đã phản ảnh thánh ý Thiên Chúa muốn là một vị Thiên Chúa “cho con người”: Thiên Chúa chủ động sáng kiến tự tỏ mình ra trong một công trình sáng tạo mà trình thuật Kinh thánh xác định là “tốt” (St 1:31). Sau đó, trình thuật Kinh thánh nhận xét rằng công trình này ngay lập tức phải giáp mặt với vấn đề sự ác (x. St. 3:1-24).

– Thiên Chúa cũng tỏ mình ra trong lịch sử đặc thù của dân tộc Israel, qua nhiều can thiệp cứu rỗi – giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập (x. Xh 14); giải thoát khỏi việc thờ ngẫu thần (xem Xh 20; Đnl 5) -, và qua hồng ân Lề Luật, dạy cho Israel một cuộc sống cởi mở đối với tình yêu người lân cận (xem Lv 19).

– Văn chương tiên tri mang lại đặc tính linh hứng cho lời lẽ của các Tiên tri (trong phần dẫn nhập các sách, trong “công thức sứ giả”, trong các công thức sấm ngôn). Các sấm ngôn tiên tri có thể phát biểu các đòi hỏi của Thiên Chúa, Đấng tự mặc khải cho dân giữa những thăng trầm của lịch sử. Chúng cũng phát biểu lòng tín trung của Chúa, bất chấp lỗi lầm của Israel.

– Về phần nó, văn chương khôn nhoan phản ảnh các xung đột có thể nảy sinh giữa các nền văn hóa cổ đại vốn khao khát sự thật và mặc khải chuyên biệt mà Israel được hưởng nhờ. Các truyền thống khôn ngoan có điểm chung là trình bày sự khôn ngoan của Israel như biều thức ưu hạng của sự thật mặc khải. Một cách đặc biệt, trong thời kỳ văn hóa Hy Lạp, Đức Khôn Ngoan của Israel, khi bị đối đầu bởi các hệ thống triết học Hy Lạp, tìm cách đề ra một hệ thống tư tưởng mạch lạc, nhấn mạnh đến giá trị luân lý và thần học của Tôra, và tự đề cho mình việc khuyến khích trái tim và trí thông minh tuân thủ giá trị này.

– Văn chương thánh thi, đặc biệt là các Thánh vịnh, tích hợp tất cả các chiều kích đã nêu trên đây: Thánh vịnh gia ca ngợi Thiên Chúa tạo hóa và Cứu Chúa, vị Thiên Chúa hiện diện trong lịch sử, vị Thiên Chúa vốn là nguồn sự thật. Đồng thời, ông mời các tín hữu tiến tới một cuộc sống trung thành, chính trực và ngay thẳng.

b. Những tuyên bố thần học của Tân Ước

102. Dự án mà các sách Tân Ước có điểm chung là cho phép người đọc gặp gỡ Chúa Kitô, “Đấng mặc khải Chúa Cha”, nguồn cứu rỗi và là biểu hiện sau cùng của sự thật. Mục tiêu chung này đi qua các phương pháp sư phạm đa dạng.

– Các Tin Mừng nhất lãm, mà các soạn giả dựa trên các chứng tá lịch sử trực tiếp, cho thấy Chúa Giêsu thành Nadarét “hoàn tất” mọi trông chờ của Israel như thế nào: Người là Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa, Đấng trung gian cứu rỗi. Được Chúa Thánh Thần thánh hiến, bằng cái chết và phục sinh, Người khai mở thời đại mới: tức Nước Thiên Chúa.

– Tin Mừng Gioan cho thấy Chúa Kitô là sự viên mãn của Lời Thiên Chúa, Ngôi Lời được mặc khải cho các môn đệ, những người nhận được lời hứa hồng ân Chúa Thánh Thần.

– Các thư của Thánh Phaolô đòi thẩm quyền của một Tông đồ, người, do trải nghiệm đích thân được gặp Chúa Kitô, đã truyền bá Tin mừng cho dân ngoại, và làm chứng, bằng một từ vựng mới, cho công trình của Chúa Kitô trong bối cảnh văn hóa thời đại của ngài.

– Theo sách Khải huyền, Chúa Giêsu, Đấng nhận và ban Lời linh hứng (xem Kh 1:1) đại diện cho hồng ân tối cao của Chúa Cha. Có một sự tương ứng tuyệt đối giữa dự án Vương quốc được Thiên Chúa muốn, và sự thể hiện thực sự của nó trong lịch sử nhân loại qua trung gian Chúa Kitô. Khi mọi lời linh hứng đều được hiện thực hóa, tiêu diệt sự ác trong lịch sử và cấy trồng vào đó kỳ quan của Chúa Kitô, Thiên Chúa sẽ long trọng tuyên bố, khi nói đến những lời này: “Chúng đã được ứng nghiệm” (Kh 21:6).

c. Sự cần thiết và các phương thức tiếp cận qui điển của Kinh Thánh

103. Hiến chế tín lý Dei Verbum (số 12) và tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Verbum Domini (các số 40-41) cho thấy chỉ có cách tiếp cận duy nhất có tính đến toàn bộ qui điển của Kinh thánh mới cho phép ta khám phá đầy đủ ý nghĩa thần học và thiêng liêng của nó. Do đó, bất cứ truyền thống Kinh Thánh nào cũng cần được giải thích trong ngữ cảnh qui điển lúc phát biểu, điều này giúp đưa ra ánh sáng các nối kết dị đại và đồng đại với toàn bộ Qui Điển. Do đó, cách tiếp cận này làm chứng cho các liên hệ hiện có giữa các truyền thống Cựu Ước và các truyền thống Tân Ước. Bên kia sự đa dạng hết sức của các bản văn, được mô tả trong các đoạn trên đây, Qui Điên Kinh thánh đề cập đến một Chân lý duy nhất, – Chúa Kitô – Đấng mà chứng từ Tông đồ nhìn nhận là Con Thiên Chúa, Đấng mặc khải Chúa Cha và là vị cứu tinh của con người. Toàn bộ Qui điển đạt đến đỉnh cao trong lời khẳng định này, lời khẳng định, có thể nói, mà tất cả các yếu tố cấu thành ra nó đều “hướng” tới. Nói cách khác, Qui điển Kính thánh tạo nên ngữ cảnh giải thích thỏa đáng cho từng truyền thống đã soạn ra nó: sau khi đã được tích hợp vào Qui Điển, mỗi truyền thống đặc thù nhận được một ngữ cảnh phát biểu mới, làm mới ý nghĩa của nó.

“Luận lý qui điển” này giải thích các nối kết giữa Tân ước và Cựu ước: Các truyền thống Tân Ước sử dụng từ vựng “cần thiết” và từ vựng “hoàn tất” (hoặc “hoàn thành”) để diễn tả cuộc sống và việc làm của Chúa Kitô luôn tham chiếu các truyền thống của Cựu Ước (xem Mt 26:54; Lc 22:37; 24:44). Nội dung của Kinh thánh, muốn đúng sự thật, nhất thiết phải được hoàn tất, và sự hoàn tất này được thực hiện trọn vẹn trong sự sống, cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô (Ga 13:18; 19:24; Cv 1:16). Một mình con người của Chúa Kitô đủ đem ý nghĩa tối hậu lại cho các truyền thống hết sức đa dạng: chúng ta thấy điều này, thí dụ, trong trình thuật ở chương 24 của Tin Mừng Luca, trong đó Chúa Giêsu đích thân cho thấy lịch sử chuyên biệt của Người đã soi sáng các truyền thống Tôra, Tiên tri và Thánh vịnh ra sao. Do đó, con người của Chúa Kitô đáp ứng các mong đợi của Israel và mang sự mặc khải thần thiêng đến chỗ hoàn tất. Chúa Kitô “tóm lược” các nhân vật chính của giao ước thứ nhất và dệt nên mối liên kết giữa họ: Người là Người Tôi tớ, Đấng Mêsia, người trung gian của giao ước mới, Đấng Cứu Rỗi.

Mặt khác, Chúa Kitô phát biểu sự thật một cách hoàn hảo và không ai vượt qua được, một sự thật dần dần được mặc khải và truyền đạt trong các truyền thống thành văn, trong bối cảnh giao ước thứ nhất. Sự thật của Chúa Kitô được ghi lại trong các truyền thống Tân Ước, là truyền thống đã tập hợp chặt chẽ chứng tá tận mắt của các môn đệ đầu tiên, và việc tiếp nhận nó, trong Chúa Thánh Thần, bởi các cộng đồng Kitô giáo đầu tiên.

Sự thật về Thiên Chúa này và sự cứu rỗi loài người, vốn tạo nên tâm điểm của việc mặc khải thần thiêng, và, trong Chúa Giêsu Kitô, mang biểu thức hoàn tất và dứt khoát hệ ở điều gì? Chúng ta tìm được câu trả lời cho câu hỏi này trong công trình của Chúa Giêsu. Người mặc khải Thiên Chúa, Đấng là Cha, Con và Thánh Thần (xem Mt 28:19), Thiên Chúa, Đấng hiện hữu và sống trong chính Người một sự hiệp thông hoàn hảo. Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ hiệp thông sự sống với Người, bằng cách bước theo Người (Mt 4: 18-22), và Người trao cho họ trách nhiệm làm cho mọi người và mọi dân tộc thành các môn đệ của Người (Mt 28:19). Do đó, Người bày tỏ mong muốn cao nhất của Người, khi xin với Chúa Cha: ” “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con” (Ga 17:24). Do đó, sự thật được mặc khải trong Chúa Giêsu có thể được phát biểu: Thiên Chúa là sự hiệp thông trong chính Người, và Thiên Chúa ban sự hiệp thông với Người qua Con của Người (xem Dei Verbum, 2). Linh hứng, mà chúng ta đã nhận ra đặc tính Ba Ngôi trong các tác giả Tân Ước, xuất hiện như con đường thỏa đáng để truyền đạt sự thật này. Có một mối tương quan qua lại giữa linh hứng và sự thật của Kinh Thánh.

Như thế, Qui điển Kinh thánh cho phép chúng ta tiếp cận cùng một lúc cả sự năng động qua đó Thiên Chúa đích thân tự truyền đạt cho con người, qua trung gian các Tiên tri, các tác giả Kinh thánh và cuối cùng qua Chúa Giêsu thành Nadaret, lẫn diễn trình qua đó các cộng đồng tiếp nhận sự mặc khải này trong Chúa Thánh Thần và ghi lại nội dung của nó bằng văn bản.

[nextpage title=”PHẦN BA: VIỆC GIẢI THÍCH LỜI THIÊN CHÚA VÀ CÁC THÁCH THỨC CỦA NÓ”]

PHẦN BA: VIỆC GIẢI THÍCH LỜI THIÊN CHÚA VÀ CÁC THÁCH THỨC CỦA NÓ

1. Dẫn Nhập

104. Khi giới thiệu phần trước, liên quan đến lời chứng của các trước tác Kinh thánh về sự thật trong nội dung riêng của chúng, chúng ta đã giải thích Dei Verbum hiểu ra sao khái niệm về sự thật Kinh Thánh và chúng ta đã bình luận cụm từ: “sự thật mà Thiên Chúa muốn thấy được ghi lại trong các Chữ thánh thiêng vì ơn cứu rỗi của chúng ta”(số 11). Chúng ta đã khám phá ra rằng sự thật mà Kinh thánh muốn truyền đạt cho chúng ta liên quan đến chính Thiên Chúa và dự án cứu rỗi của Người cho loài người. Phần thứ ba của tài liệu này cũng đề cập đến vấn đề sự thật của Kinh Thánh, nhưng khởi đi từ một quan điểm khác. Trong Kinh thánh, chúng ta bắt gặp những điều xem ra mâu thuẫn, những điều không chính xác về lịch sử, những câu chuyện ít có thật và trong Cựu Ước, giới luật và giáo huấn luân lý mâu thuẫn với giáo huấn của Chúa Giêsu. Đâu là “sự thật” của những đoạn Kinh thánh này? Ở đây chúng ta phải giáp mặt với những thách thức thực sự trong việc giải thích Lời Chúa.

Các yếu tố trả lời cho những câu hỏi này được cung cấp bởi chính Hiến chế Dei Verbum. Bản văn công đồng này khẳng định rằng sự mặc khải của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ diễn ra qua trung gian các biến cố và lời nói có tính bổ sung (số 2), nhưng cũng nhận xét rằng Cựu Ước chứa đựng “điều không hoàn hảo và không còn hợp thời”(số 15). Hiến chế tiếp nhận cho mình học lý về “sự hạ mình … của Đức Khôn Ngoan vĩnh cửu” (số 13), một kiểu nói xuất phát từ Thánh Gioan Kim Khẩu (Chrysostom), nhưng trên hết, Hiến chế nại tới khái niệm “thể văn” như được sử dụng trong thời cổ đại, khi tham chiếu thông điệp Divino Afflante Spiritu của Đức Piô XII (EB 557-562).

Đây là khía cạnh cuối cùng mà bây giờ chúng ta phải đào sâu hơn. Ngày nay cũng vậy, sự thật chứa trong một cuốn tiểu thuyết khác với sự thật của sách giáo khoa vật lý. Có nhiều cách viết lịch sử khác nhau, không phải lúc nào cũng là một biên niên sử khách quan. Thơ trữ tình không phát biểu cùng những điều y như một bài thơ anh hùng ca, v.v. Những ghi nhận này có giá trị như nhau đối với nền văn chương của lân bang Cận Đông và thế giới theo văn hóa Hy Lạp. Chúng ta tìm thấy trong Kinh Thánh các thể văn khác nhau được sử dụng trong các lĩnh vực văn hóa này: thi ca, tiên tri, tường thuật, từ ngữ cánh chung, ngụ ngôn, thánh thi, tuyên xưng đức tin, v.v … Mỗi loại trong số này có một cách chuyên biệt để trình bày sự thật.

Trình thuật ở St 1:11, các truyền thống về các tổ phụ và cuộc chinh phục lãnh thổ Israel, lịch sử các vị vua cho đến khi cuộc nổi dậy của anh em nhà Máccabê chắc chắn chứa đựng sự thật, nhưng chúng không có ý định đề ra một biên niên về lịch sử của dân tộc Israel. Tác nhân chính trong lịch sử cứu độ không phải là Israel hay những con người khác, mà là chính Thiên Chúa. Những câu chuyện Kinh Thánh là những câu chuyện thần học. Sự thật của chúng – đối với những gì liên quan đến các bản văn được xem xét trong phần trước đây của tài liệu này – có liên quan đến các sự kiện được kể lại ở đó, nhưng chủ yếu phát xuất từ mục đích giáo huấn, khuyến thiện (parenetic) và thần học của tác giả, người đã thu thập những truyền thống cổ xưa này, hoặc đã khai triển các tài liệu văn chương được thu thập trong kho lưu trữ của các kinh sư, để truyền tải một trực giác tiên tri hoặc khôn ngoan, hoặc để truyền đạt một thông điệp chủ yếu đối với thế hệ của ông.

105. Mặt khác, một “lịch sử cứu rỗi” không tồn tại mà không có cốt lõi lịch sử, nếu đúng là Thiên Chúa tự mặc khải Người qua “các hành động và lời nói liên kết mật thiết với nhau” (Dei Verbum, số 2). Hơn nữa, nếu linh hứng liên quan đến toàn bộ Cựu Ước và Tân Ước, “trong tất cả các phần của chúng” (Số 11), thì chúng ta không thể loại bỏ bất cứ đoạn nào khỏi câu truyện. Do đó, nhà chú giải phải nỗ lực tìm ra ý nghĩa của từng chi tiết, trong bối cảnh của câu truyện trọn vẹn, nhờ các phương pháp khác nhau được liệt kê trong tài liệu năm 1993 của Ủy ban Giáo hoàng về Kinh thánh – Giải thích Kinh thánh trong Giáo hội (xem EB 1259-1560).

Mặc dù một cuộc nghiên cứu dị đại (diachronique) các bản văn là điều không thể thiếu để đưa ra ánh sáng các tái giải thích khác nhau về một sấm ngôn hoặc một câu chuyện, ý nghĩa “chân thật” của một đoạn Kinh thánh được liên kết với hình thức dứt khoát của nó, được chấp nhận như vậy trong Qui điển của Giáo Hội. Việc giải thích lại cũng có thể mang hình thức phúng dụ hóa các bản văn xưa. Do đó, chẳng hạn, một số câu chuyện hoặc một số Thánh vịnh nào đó nói về sự tận diệt và thù hận đối với kẻ thù, dù rất xa với tinh thần Tân Ước, và dù có lưu ý tới sự không hoàn hảo của mặc khải trong Cựu Ước, tuy nhiên vẫn có thể có một giá trị khuyến thiện nào đó đối với các thế hệ được chúng ngỏ lời.

Rõ ràng là một vài nhận xét như thế không giải quyết được tất cả các khó khăn, nhưng điều không thể phủ nhận là Hiến chế Dei Verbum, với kiểu nói “sự thật mà Thiên Chúa muốn thấy được ghi lại trong các Chữ thánh thiêng vì ơn cứu rỗi của chúng ta” (số 11) giới hạn sự thật Kinh Thánh đối vào sự mặc khải thần thiêng liên quan đến chính Thiên Chúa và ơn cứu rỗi loài người. Ngoài ra, việc xem xét các thể loại văn chương đã gia tăng chiều dài và chiều rộng của công việc chú giải, vốn rất phức tạp. Các thí dụ sau đây sẽ minh họa điểm này.

2. Thách thức đầu tiên: những vấn nạn lịch sử

106. Trong phạm vi đoạn này, chúng ta sẽ chỉ thảo luận về một số bản văn khó hiểu từ Cựu Ước và Tân Ước. Các đoạn văn này có bản chất đa dạng, nhưng tất cả, theo một cách khác nhau, đều nêu lên câu hỏi duy nhất: điều gì thực sự đã xảy ra, trong số các yếu tố được bản văn nói tới? Các bản văn có thể chứng thực đến mức nào các sự kiện thực sự đã xảy ra? Việc có vấn nạn đặc thù của mỗi đoạn sẽ được đưa ra ánh sáng trong đoạn có liên quan đến nó.

2.1 Chu kỳ Ápraham (sách Sáng thế)

Hầu hết các nhà chú giải thừa nhận rằng việc soạn thảo cuối cùng các câu chuyện về các tổ phụ, cũng như câu chuyện về Xuất Hành, về Chinh phục, và câu chuyện các Thủ lãnh đã xuất phát từ thời kỳ hậu lưu đày Babylon, thời kỳ Ba Tư. Về những gì liên quan đến chu kỳ Ápraham, các tình tiết liên kết câu chuyện của vị tổ phụ này với các truyền thống tổ phụ khác, đặc biệt qua việc thiên về các câu chuyện hứa hẹn, thì mới có gần đây hơn, và vượt ra ngoài chân trời lúc ban đầu của câu chuyện, tức lúc tự giới hạn vào các câu chuyện của một gia tộc. Một tình tiết như tình tiết ở St 15 – chủ yếu đối với luận điểm của Thánh Phaolô về sự công chính hóa chỉ nhờ đức tin, độc lập với các việc làm theo Luật Môsê (xem Rm 4) – không mô tả các biến cố một cách chính xác như chúng diễn ra, như lịch sử soạn thảo ra nó đã cho thấy. Nhưng nếu đó là tình huống, thì chúng ta có thể nói gì về hành vi đức tin của vị tổ phụ và lập luận của Thánh Phaolô, người xem ra không có điểm tựa Kinh thánh mà ngài rất cần?

Điều đầu tiên có thể quả quyết nhân các câu chuyện về các Tổ phụ (cũng như các câu chuyện Xuất hành và Chinh phục) là chúng không phát xuất từ nơi nào cả. Thực thế, mọi dân tộc đều cần biết và phát biểu, cho chính họ và cho những dân tộc khác, họ đến từ đâu, nơi phát xuất địa dư và thời gian phát xuất của họ, nói cách khác, nguồn gốc của chính họ. Cùng một cách y như các dân tộc xung quanh, người Israel ở thế kỷ thứ 5 và thứ thứ 4 trước Chúa Giêsu Kitô bắt đầu kể lại quá khứ của họ. Đây là những câu chuyện lặp lại các truyền thống xưa, không những để quả quyết rằng dân tộc này có một quá khứ ít nhiều phong phú, giống như các dân tộc khác, mà còn để giải thích và nâng cao giá trị quá khứ này, với sự trợ giúp của đức tin.

107. Vậy, người ta biết gì về Ápraham và các tổ tiên? Có lẽ các ngài là các mục tử, phát xuất từ Lưỡng Hà (Mesopotamia), những dân du mục đi từ đồng cỏ này sang đồng cỏ khác theo mùa, theo mưa và theo sự tiếp đón của các xứ họ đi qua. Các nhà văn sau thời lưu đày, mà sự suy tư được nuôi dưỡng bằng ký ức về việc bị trục xuất và tầm quan trọng của nó đối với đức tin của cộng đồng họ, đã hiểu rằng thế hệ lưu vong đã sống một điều tương tự như kinh nghiệm của các Tổ phụ: Thực thế, thế hệ này đã mất lãnh thổ, các định chế chính trị và tôn giáo (Đền thờ) và phải đến một vùng đất xa lạ và ở lại đó trong cảnh nô lệ. Đó là một tình huống bi đát, một tình huống buộc thế hệ này phải sống bằng đức tin và niềm hy vọng. Sau khi mất đi những gì tạo nên bản sắc của một dân tộc, nghĩa là lãnh thổ và các định chế của tổ quốc, những người lưu vong đáng lẽ đã mất dạng, trong khi ngược lại, họ vẫn sống sót như một dân tộc, nhờ đức tin của họ. Kinh nghiệm triệt để này nuôi dưỡng việc cầu nguyện và đọc lại quá khứ của họ. Không còn nghi ngờ gì nữa, khi những người kể chuyện Kinh thánh mô tả lời hứa thần thiêng và phản ứng đức tin của tổ phụ Ápraham (xem St 15: 1-6), họ không phản chiếu các sự kiện mà việc truyền tải của thế tục sẽ cho là hoàn toàn chắc chắn. Đúng hơn, chính kinh nghiệm đức tin của họ đã giúp họ viết theo cách này, để trình bày ý nghĩa phổ quát của các biến cố và mời đồng bào của họ tin vào quyền năng và sự trung tín của Thiên Chúa, Đấng cho phép họ, cũng như cho tổ tiên họ, trải qua các giai đoạn lịch sử đặc biệt cảm kích.

Hơn cả các sự kiện cụ thể, chính sự giải thích về chúng mới đáng kể, ý nghĩa xuất hiện từ việc đọc lại sự giải thích này mới thực sự hữu hiệu. Thật vậy, ý nghĩa của một giai đoạn lịch sử, sau khi đã trải qua nhiều thế kỷ, không thể được hiểu hoặc ghi lại dưới dạng các câu chuyện thần học và các bài thơ thánh ca, nếu không theo thời gian. Vững mạnh nhờ đức tin vào Thiên Chúa, các tác giả Kinh Thánh đã tìm kiếm ý nghĩa của sự sống còn của dân tộc họ qua nhiều thế kỷ, bất chấp nhiều hiểm nguy và thảm họa khủng khiếp mà họ phải đối mặt, và đã suy ngẫm về vai trò mà Thiên Chúa, và đức tin mà họ mang theo đối với Người, đã đóng trong việc cho phép sự sống sót này: từ sự suy nghĩ này, họ đã có thể diễn dịch rằng từ đầu lịch sử của họ, Người đã hành động như vậy. Do đó, không nên đọc St 15 như thể đây là một biên niên sử, mà như một sự mô tả một tác phong chuẩn mực được Thiên Chúa mong muốn, một chuẩn mực mà các tác giả Kinh Thánh đã sống một cách triệt để, và họ đã có thể truyền lại như thế cho thế hệ của họ và cho các thế hệ tương lai.

Tóm lại, để đánh giá sự thật của những câu chuyện Kinh thánh, cần phải đọc chúng bằng cách tôn trọng cách thức chúng đã được viết ra và theo cách chúng được chính Thánh Phaolô đọc: “Những sự việc này xảy ra cho họ [người Do Thái] để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời sau hết này”(1 Cr 10:11).

2.2 Vượt qua biển (Xh 14)

108. Câu chuyện về cuộc vượt qua biển cả của người Do Thái là một yếu tố chủ yếu trong các bài đọc phụng vụ của Kitô giáo khi cử hành lễ vọng Phục sinh. Câu chuyện này dựa trên một truyền thống rất cổ xưa, để kỷ niệm cuộc giải phóng dân khỏi cảnh nô lệ. Truyền thống truyền khẩu này, khi được viết ra, từng là đối tượng của nhiều “việc đọc lại”, và cuối cùng đã được đưa vào câu chuyện Xuất Hành trong Kinh Tôra. Trong bối cảnh này, cuộc giải phóng dân Israel được trình bày như một sáng thế mới. Cách Chúa tạo ra thế giới bằng cách tách biển khỏi vùng đất khô thế nào thì cách Người “tạo ra” dân tộc Israel cũng thế, bằng cách vạch cho họ một lối đi trên đất khô, vượt qua biển cả. Do đó, tường thuật nối lại một truyền thống kể chuyện cổ xưa, và một sự giải thích thần học, dựa trên nền thần học sáng thế. Sự thật của câu chuyện không chỉ nằm trong truyền thống mà nó nhớ đến – một câu chuyện giải phóng vẫn giữ được trọn tính thời sự của nó ở thời điểm lưu đầy tại Babylon, lúc Israel trong thân phận tù đầy khát mong tự do – mà còn nằm trong giải thích thần học đi kèm với nó. Do đó, bản văn Kinh thánh kết hợp, một cách không thể phân chia, một câu chuyện xưa, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, và việc hiện thực hóa được đề xuất trong đó sau đó. Việc hiện thực hóa này gợi lên tình huống của các tác giả chương Xuất Hành 14, ở thời điểm bản văn được soạn tác. Thật vậy, bên cạnh nền thần học sáng thế, bản văn còn khai triển một nền thần học cứu rỗi, khi trình bày Thiên Chúa của Israel như Đấng Cứu độ giải phóng dân khỏi áp bức, và Môsê như một nhân vật tiên tri mời gọi dân tin tưởng vào sức mạnh cứu rỗi của Thiên Chúa mình: ” Đừng sợ ! Cứ đứng vững, rồi anh em sẽ thấy việc Chúa làm hôm nay để cứu thoát anh em” (Xh 14,13). Cũng y như vậy, thời cổ xưa, Chúa biết bảo vệ dân của Người thế nào thì giờ đây Người cũng có thể giữ gìn họ và ban cho họ sự cứu rỗi, bất chấp mọi tình huống. Mục đích chính của trình thuật Xuất hành không phải là truyền lại việc tường thuật các biến cố xưa, theo cách một tài liệu văn khố, mà đúng hơn là để tưởng nhớ một truyền thống nhằm chứng thực rằng, hôm nay cũng như hôm qua, Thiên Chúa luôn hiện diện bên cạnh dân của Người để cứu vớt họ.

Kinh nghiệm và niềm hy vọng cứu rỗi này, được công bố trong trình thuật Xuất Hành 14, cũng có một thể hiện phụng vụ trong trình thuật Lễ Vượt Qua (Xh 12:1-13.16) trước đó. Phụng vụ Kitô giáo trong Đêm Vọng Phục Sinh cho thấy trình thuật Ex 14 đã “ứng nghiệm” ra sao trong Chúa Giêsu Kitô, trong sự phục sinh mà Đấng Tạo Hóa và Cứu Chúa đã tự tỏ mình ra với dân của Người một cách dứt khoát và không thể vượt qua.

2.3 Các sách Tôbia và Giôna

109. Sách Tôbia không thuộc Kinh thánh tiếng Do Thái, mà thuộc về Kinh thánh tiếng Hy Lạp; sắc lệnh về Qui điển của Công đồng Trente bao gồm nó trong các sách lịch sử của Cựu Ước (Denz 1502). Sách Giôna, trái lại, nằm trong sách Mười hai Tiên tri (còn gọi là “các tiên tri nhỏ”) của Kinh thánh tiếng Do Thái. Hai bản văn này kể cùng một loạt các biến cố, mà người ta có thể tự hỏi liệu chúng có thực sự xẩy ra hay không.

2.3.1 Sách Tôbia

Cái chết của bảy người chồng của cùng một người phụ nữ trước khi hôn nhân được hoàn hợp (Tb 3: 8-17) là một biến cố không có thật đến nỗi một mình yếu tố này đủ báo chúng ta biết rằng trình thuật này chủ yếu có chức năng văn chương. Điều này giải thích vô số những điều không hợp thời: cha của người anh hùng nhân vật chính tự nói về mình như một trong những người Do Thái bị đầy qua Ninivê, và, đồng thời như đối tượng của luật Đệ Nhị Luật (x. Tb 1,1-22); Tobia “nói tiên tri” về sự hủy diệt Ninivê, sự hoang tàn của Giuđêa và Samaria, việc đốt Đền thờ và xây dựng lại (Tb 14: 4-5).

Do đó, chúng ta đang đối diện với một câu chuyện ngụ ngôn tôn giáo bình dân, mà mục đích của nó là mô phạm và xây dựng, và do đó, có thể định vị trong truyền thống khôn ngoan. Đây là một soạn tác văn chương để triển khai một lược đồ quen thuộc – được gia tăng bởi sự sóng đôi giữa Tôbia và Sara: sự sóng đôi về tác phong của người công chính, người chịu khốn khổ vì gian truân, cầu nguyện với Chúa, xin Người gửi ơn cứu độ xuống cho mình.

Sự can thiệp của quỷ Asmodeus bắt nguồn từ truyền thống Kinh Thánh coi Satan và các thiên thần của hắn hành động trong thế giới của chúng ta và gây ra các thảm họa. Những đặc điểm này cho phép ta xếp loại cuốn sách này vào thể loại văn chương kể chuyện, nói về những người anh hùng phàm nhân và siêu phàm, và nhiều nhân vật khác. Khác với các trình thuật khác thuộc loại này, việc can thiệp của ma quỷ được kể lại một cách rất vừa phải trong sách Tôbia. Con quỷ Asmodeus là một nhân vật hư cấu, người không thực sự có khả năng ma quái để nhận chìm con người, đặc biệt những người cố gắng sống trung thành với Thiên Chúa. Và cũng vậy, thiên thần Raphael là một nhân vật có chức năng văn chương, và, theo truyền thống Kinh Thánh không thay đổi, và với việc tiếp nhận của Giáo hội, những hữu thể giống như ngài không có khả năng can thiệp thực sự bằng cách giúp đỡ những người cầu khẩn danh Chúa.

Sách Tôbia là một bản tuyên ngôn nhằm tìm cách ca ngợi các tập tục truyền thống về lòng đạo đức trong Do Thái giáo: cầu nguyện, ăn chay và bố thí (Tb 12:8-9); cũng như việc thực hiện các công việc thương xót, đặc biệt là chôn cất người chết (x. Tb 12:13), lời cầu nguyện chúc lành và hành động tạ ơn để tôn vinh các công trình vinh hiển của Thiên Chúa (xin xem Tb 12:6.22; 13:1-18). Chúng ta hãy lưu ý một khía cạnh đặc thù của sách này: việc nhấn mạnh đến lời cầu nguyện xin thánh hóa đời sống hôn nhân, và hỗ trợ giữa những nguy hiểm.

2.3.2 Sách Giôna

110. Sự kiện sách Giôna được lưu truyền trong các trước tác của Mười Hai Tiên Tri cho thấy nhân vật chính của nó đã nhanh chóng được coi là một nhà tiên tri chân chính (xem 2V:14:25), về lịch sử được định vị trong bối cảnh thống trị của Assyria được trình thuật giả định, trước khi người Babylon và Medes bắt đầu hủy diệt Ninivê, vào năm 612 trước Công nguyên. Sự đánh giá như vậy dường như được củng cố bởi sự kiện này: chính Chúa Giêsu đề cập đến tình tiết nổi tiếng nhất của câu chuyện liên quan nhà tiên tri – ba ngày sống trong bụng cá voi – như một dấu chỉ “có tính lịch sử” loan báo trước biến cố phục sinh của chính Người (xem Mt 12:39-41; Lc 11:29-30; Mt 16:4).

Tuy nhiên, trong trình thuật, không những có các chi tiết, mà cả các yếu tố thuộc về cốt truyện không thể được ghi nhận như các sự kiện lịch sử, và là các yếu tố dẫn đến việc giải thích văn bản như một soạn tác hư cấu, với nội dung thần học quan trọng.

Một số chi tiết ít đúng sự thật – ví dụ, Ninivê là một thành phố rộng lớn, phải mất ba ngày để đi qua (xem Ga 3: 3) – có thể được coi như cường điệu; trái lại, đối với các yếu tố thuộc về cốt truyện, sự kiện một con cá nuốt chửng Giôna và giữ ông ba ngày trong bụng trước khi mửa ra ông(x. Ga 2:1.11) xem ra không đúng sự thật, tương tự như việc hoán cải nhất trí của Ninivê (x. Ga 3:5-10), tất cả đều không có vết tích nào khác trong các tài liệu của người Assyria.

Chúng ta hãy nhấn mạnh hai yếu tố trong số các chủ đề thần học của câu chuyện:

Nội dung của một thông điệp tiên tri không phải là một sắc lệnh không thể hủy bỏ (xem Ga 3: 4), nhưng đúng hơn là một tuyên bố có thể được sửa đổi theo đáp ứng của những người nó ngỏ lời (xem Ga 4: 2.11).

Do Thái giáo sau lưu đầy có đặc điểm ở sự căng thẳng giữa các khuynh hướng duy phổ quát và cởi mở với đối thoại, và các khuynh hướng khép kín và độc hữu hơn. Do đó, người ta có thể nhận thấy một sự tương phản rất rõ ràng, một bên, các sách Rút, Giôna, Tôbia, và bên kia, các sách Haggai, Dacaria, Étra, Nơkhemia và Biên niên sử. Étra, Nơkhemia đã làm cho việc duy trì bản sắc Do Thái thành khả hữu, bằng cách chống lại bất cứ sự pha trộn nào với chủ nghĩa ngoại giáo, đặc biệt trong khung cảnh các cuộc hôn nhân hỗn hợp (xem Er 9-10, Nkm 10:29-31). Tuy nhiên, xu hướng cởi mở và duy phổ quát không biến mất. Nó có thể bắt rễ sâu vào các truyền thống tổ phụ và tiên tri. Sách Rút phản ứng chống lại sự cấm đoán các cuộc hôn nhân hỗn hợp bằng cách trình bầy một người ngoại quốc – Bà Rút người Môáp (xem R 1:4-19) – như tổ tiên của Đavít (xem R 4:17). Giôna đi xa hơn trong quan điểm duy phổ quát, làm cho người Assyria xấu xa và đáng ghét – những kẻ từng phá hủy vương quốc Israel, trục xuất cư dân của nó, và tự hào về những phong tục hiếu chiến hung hãn – thành những người tiếp nhận thông điệp tiên tri khiến họ có khả năng hoán cải.

2.4 Các Tin mừng về thời thơ ấu

111. Chỉ có Tin mừng Mátthêu (Mt 1-2) và Luca (Luca 1:5-2.52) mở đầu công trình của họ bằng điều đáng gọi là “Tin mừng thời thơ ấu”, trong đó trình bầy về nguồn gốc và sự khởi đầu cuộc đời Chúa Giêsu. Trước nhất, chúng ta có thể nhận thấy việc có những khác biệt lớn giữa hai câu truyện, và cả sự hiện diện của những biến cố phi thường khiến người ta ngạc nhiên, chẳng hạn như việc thụ thai đồng trinh của Đức Maria. Từ đó phát xuất việc tra vấn tính lịch sử của những câu truyện này. Chúng ta sẽ trình bầy các khác biệt và tương đồng hiện diện giữa hai câu truyện và tìm cách đưa ra ánh sáng thông điệp của cả hai bản văn.

a. Các khác biệt

Mátthêu đặt ở đầu Tin Mừng của mình (xem Mt 1:1-17), một gia phả khá khác với gia phả tìm thấy trong Lc 3:23-28 sau chuyện kể về việc Chúa Giêsu chịu phép rửa. Việc loan báo Chúa Giêsu được tượng thai bởi hành động của Chúa Thánh Thần đã được ngỏ cùng Thánh Giuse (xem Mt 1:18-25). Chúa Giêsu, sinh ra tại Bêlem ở Giuđêa (xem Mt 2:1), quê hương của Thánh Giuse và Đức Maria, được các Nhà Chiêm Tinh đến viếng thăm; họ được hướng dẫn bởi một ngôi sao, và không biết gì tới mối đe dọa sinh tử của Vua Hêrốt (xem Mt 2:11). Được báo mộng, họ trở về đất nước của mình bằng một con đường khác (xem Mt 2:12). Được một thiên thần của Chúa báo mộng, Thánh Giuse đã trốn sang Ai Cập cùng với Hài Nhi và Mẹ của Người (xem Mt 2:13-15), trước vụ thảm sát các trẻ thơ ở Bêlem (xem Mt 2:16-18). Sau cái chết của Hêrốt, Thánh Giuse, Đức Maria và Hài Nhi trở về xứ sở của họ và sống ở Nadarét, nơi Chúa Giêsu lớn lên (xem Mt 2:19-23).

Sự hiện diện của Thánh Gioan Tẩy Giả và sự song hành của các câu truyện liên quan đến Thánh Gioan và Chúa Giêsu, và những người liên quan đến việc loan báo sự ra đời của các ngài (xem 1: 5-25. 26-38) là những việc chỉ có trong câu truyện ở Lc 1:5-2,52. Câu truyện về sự ra đời, về việc cắt bì và về việc đặt tên cũng thế (x. 1:57-59; 2:1-21). Đức Maria và Thánh Giuse sống ở Nadarét (xem Lc 1:,26), và vì điều tra dân số của Quirinô, các ngài phải về Bêlem (xem Lc 2:1-5), nơi Chúa Giêsu sinh ra (x. Lc 2:6-7 ), và được các mục đồng đến thăm, những người mà một thiên thần của Chúa đã loan báo sự ra đời của Người (x. Lc 2:8-20). Phù hợp với các yêu cầu của Lề Luật, Hài Nhi được dâng vào Đền thờ Giêrusalem và được Ông Simêong và bà Anna chào đón (xem Lc 2:22-40). Chúa Giêsu, lúc mười hai tuổi, trở lại Đền thờ (xem Lc 2: 41-52).

Không yếu tố nào trong câu truyện ở tin mừng Mátthêu mà lại không có trong Tin mừng Luca và ngược lại. Cũng có những khác biệt đáng chú ý giữa hai câu truyện. Theo Tin mừng Mátthêu, Đức Maria và Thánh Giuse sống ở Bêlem trước khi Chúa Giêsu ra đời, và chỉ sau chuyến trốn sang Ai Cập, và theo một chỉ dẫn đặc biệt, các ngài mới đến Nadarét. Theo Tin mừng Luca, Đức Maria và Thánh Giuse sống ở Nadarét, cuộc điều tra dân số mới dẫn họ đến Bêlem, và, không đề cập đến chuyến trốn sang Ai Cập, các ngài trở về Nadarét. Khó có thể đề ra một giải pháp để giải thích các khác biệt như vậy. Mặt khác, các khác biệt này cho thấy sự độc lập trong câu truyện của mỗi vị trong hai tin mừng này. Do đó, sự gặp nhau giữa các câu truyện này chỉ có thể càng có ý nghĩa hơn.

b. Các điểm gặp nhau

112. Cả Thánh Matthêu và Thánh Luca đều ghi lại hai dữ kiện sau đây: Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu, được hứa làm cô dâu cho Thánh Giuse (xem Mt 1:18; Luca 1:27), người thuộc nhà Đavít (xem Mt. 1:20; Lc 1:27). Các ngài không sống với nhau trước khi thụ thai Chúa Giêsu, do Chúa Thánh Thần (xem Mt 1:18.20; Lc 1:35).

Thánh Giuse không phải là cha đẻ tự nhiên của Chúa Giêsu (xem Mt 1:16.18.25; Lc 1:34). Tên Giêsu được truyền đạt bởi một thiên thần (xem Mt 1:21; Lc 1:31), cũng như ý nghĩa cứu độ của nó (xem Mt 1:21; Lc 2:11). Chúa Giêsu sinh ra tại Bêlem vào thời vua Hêrốt (xem Mt 2:1; Lc 1:5; 2:4-7), Người lớn lên ở Nadarét (xem Mt 2:22-23; Lc 2:39.51). Do đó, các dữ kiện căn bản liên quan đến các nhân vật, địa điểm và thời gian đều chung cho cả hai tin mừng gia. Sự hội tụ của họ về việc thụ thai đồng trinh Chúa Giêsu bởi Chúa Thánh Thần, một việc loại trừ Thánh Giuse khỏi làm cha đẻ tự nhiên của Chúa Giêsu, dường như là chủ yếu.

c. Sứ điệp

113. Các Tin mừng Thời Thơ ấu của Mátthêu và Luca giới thiệu phần còn lại trong công trình của họ, và cho thấy những gì được tỏ hiện trong cuộc sống và hành động của Chúa Giêsu đã được dựa trên nguồn gốc của Người ra sao. Qua các danh hiệu khác nhau được trao cho Chúa Giêsu, các Tin Mừng này giải thích mối liên hệ hiện hữu giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa, sứ mệnh cứu độ, vai trò phổ quát của Người, số phận bi thảm của Người, việc bám rễ của Người vào lịch sử Thiên Chúa với dân tộc Israel.

Mátthêu trình bày Chúa Giêsu như Con Thiên Chúa (Mt 2:15), nơi Người, Thiên Chúa hiện diện và thuộc về Người là tên “Emmanuel” – “Thiên Chúa ở cùng chúng tôi” (Mt 1:23). Thiên Chúa quyết định tên của Chúa Giêsu, trong tên này, chương trình sứ mệnh cứu độ của Người được phát biểu: “Người sẽ cứu dân của mình khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1: 21). Chúa Giêsu là người được xức dầu của nhà Đa-vít – Chúa Kitô – (xem Mt 1,1,16,17; 2,4), “Đấng sẽ là mục tử của dân Ta Israel” (Mt 2:6, xem Mk 5:1), vị vua cuối cùng và dứt khoát mà Chúa ban cho dân Người. Sự xuất hiện của Ba Vua cho thấy sứ mệnh của Chúa Giêsu vượt ra ngoài Israel và liên quan đến tất cả mọi dân tộc (xem Mt 2:1-12). Mối đe dọa sinh tử, xuất phát từ vị vua thời đó (xem Mt 2:1-18), và tiếp tục với người kế vị ông ta (x. Mt 2:22), khiến người ta cảm nhận trước sự thống khổ và cái chết của Chúa Giêsu. Việc bắt nguồn của Chúa Giêsu từ dân tộc Israel xuất hiện xuyên suốt câu truyện, và nhất là trong gia phả (Mt 1: 1-17), và trong bốn trích dẫn về sự ứng nghiệm (xem Mt 1: 22-23). 2:15,17-18,23; xem Mt 2:6).

Trong Luca, chúng ta thấy các chỉ dẫn tương tự, mặc dù các kiểu nói và nhấn mạnh của câu truyện có khác nhau. Chúa Giêsu được gọi là “Con Thiên Chúa” (Lc 1,32,35) và, trong Đền thờ, lời đầu tiên của Người, lời duy nhất được thuật lại trong câu truyện tin mừng thời thơ ấu, là: “Con phải ở nơi Cha con” (Lc 2:49). Thông báo cho các mục đồng về sự ra đời của Người, thiên thần tuyên bố: “được sinh ra cho các ông một Đấng Cứu Rỗi là Đấng Kitô, Chúa tể” (Mt 2:11). Thành ngữ “Đấng Sức Dầu của Chúa” (Mt 2:26) có liên quan đến “sự cứu rỗi” (Lc 2:30), “sự giải thoát của Giêrusalem” (Lc 2:38). Mối liên kết của Chúa Giêsu với Đavít được nhấn mạnh (Lc 1:26,69, 2:4,11), và đặc biệt hơn trong loan báo của thiên thần: “Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng của Đavít, cha Người; Người sẽ trị vì mãi mãi trong nhà Gia-cóp và nước Người sẽ không bao giờ cùng (Lc 1:32-33). Ý nghĩa phổ quát của sự xuất hiện của Chúa Giêsu được Simêong nhấn mạnh: sự cứu rỗi xảy ra trong Chúa Giêsu “trước mặt các dân tộc” (Lc 2:31), và Chúa Giêsu là “ánh sáng tự mặc khải cho các quốc gia” (Lc 2:32). Simêong cũng ám chỉ đến những khó khăn trong sứ mệnh của Chúa Giêsu, khi nói đến “dấu chỉ mâu thuẫn” (Lc 2:34). Nhiều nét trong câu truyện được định vị trong bối cảnh đời sống tôn giáo của dân Israel: bản văn bắt đầu bằng một lễ hy sinh trong Đền thờ (Lc 1: 5-22) và kết thúc bằng một cuộc hành hương đến Đền thờ (Lk 2:41-50), trung thành tuân theo các quy định của Luật Chúa (Lc 2: 21-28).

114. Hai tin mừng gia kể lại việc chịu thai đồng trinh Chúa Giêsu bởi Chúa Thánh Thần, và hoàn toàn gán cho hành động của Thiên Chúa sự bắt đầu cuộc đời của Chúa Giêsu, mà không có sự can thiệp của một người cha phàm trần. Trong Mt 1:20-23, việc loan báo về sự ra đời của Chúa Giêsu được đặt trong mối tương quan với sứ mệnh cứu rỗi của Người: chính Người sẽ cứu dân của Người khỏi tội lỗi của họ, và hòa giải họ với Thiên Chúa, chính Người là ” Thiên Chúa ở cùng chúng tôi” và có nguồn gốc thần thiêng. Đấng Cứu Rỗi và sự cứu rỗi chỉ đến từ Thiên Chúa, là các quà tặng của ơn thánh Người. Lc 1:35 đề cập đến các hậu quả của việc thụ thai đồng trinh của Chúa Giêsu: “Đấng được sinh ra sẽ là thánh, Người sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. Trong việc thụ thai đồng trinh Chúa Giêsu, mối liên hệ của Người với Thiên Chúa được biểu lộ. Là một “đấng thánh”, Người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, và ngay cả trong hiện sinh nhân bản của Người, chỉ có Thiên Chúa mới là Cha của Người mà thôi. Việc thụ thai đồng trinh của Chúa Giêsu có một ý nghĩa quyết định, cả để mô tả mối liên hệ của Người với Thiên Chúa lẫn để thiết lập sứ mệnh cứu rỗi của mình có lợi cho nhân loại.

Nhờ xem xét các khác biệt và đồng qui tìm thấy trong các câu truyện về thời thơ ấu của hai tin mừng gia, chúng ta có thể khẳng định rằng sự mặc khải cứu rỗi nằm trong tất cả những gì được nói về con người của chính Chúa Giêsu và về mối liên hệ của Người với lịch sử của Israel và của thế giới, dẫn nhập và minh họa công trình cứu rỗi của Người, được trình bầy trong phần còn lại của Tin Mừng. Các khác biệt, một phần có thể đã được hòa hợp, liên quan đến các yếu tố phụ của câu truyện, mà yếu tố đầu tiên là khuôn mặt trung tâm của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa và vị cứu tinh của nhân loại, một khuôn mặt có chung cho cả hai tin mừng gia.

2.5 Những câu truyện về phép lạ

115. Trong Cựu Ước và Tân Ước, những biến cố phi thường, không tương ứng với tiến trình thông thường của sự vật và vượt quá khả năng của con người, được kể lại và quy cho một sự can thiệp đặc biệt của Thiên Chúa. Đã từ rất lâu, do cách tiếp cận được gọi là khoa học và một số quan niệm triết học nào đó, nên đã có những dè dặt được bày tỏ đối với tính lịch sử của các câu truyện như vậy. Theo khoa học hiện đại, mọi thứ xảy ra trên thế giới này đều dựa trên các quy tắc bất biến, được gọi là “luật tự nhiên”. Vì tất cả đều được xác định bởi các luật này, nên không hề có chỗ cho các biến cố phi thường. Quan niệm triết học theo đó, Thiên Chúa, sau khi đã tạo nên thế giới, không còn can thiệp vào việc vận hành của nó nữa, một vận hành, từ đó trở đi “vận hành” theo các quy tắc bất di bất dịch, cũng được loan truyền sâu rộng. Do đó, những câu truyện kể về các biến cố như thế không thể có tham vọng đạt sự thật, theo quan điểm lịch sử.

Giờ đây, chúng ta hãy xem xét các câu truyện phép lạ của Cựu Ước và Tân Ước, tìm cách đem ra ánh sáng ý nghĩa của chúng trong bối cảnh văn học của chúng. Các tường thuật trong Tân Ước được định vị trong sự liên tục với các truyền thống của dân tộc Israel và cho thấy quyền năng sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa đạt đến sự viên mãn của nó trong Chúa Giêsu Kitô.

a. Những câu truyện trong Cựu Ước

116. Các tường thuật trong Cựu Ước là những dấu ấn đức tin rằng Thiên Chúa tạo nên mọi sự, liên tục hành động trong thế giới và duy trì mọi sự trong hiện hữu và sự sống. Trong đức tin, dân Israel coi thực tại được tạo nên, với tất cả những điều kỳ diệu của nó, như kết quả của hành động đúng giờ đúng lúc của Thiên Chúa, bất kể nói đến các thực tại thông thường hay các thực tại phi thường: tất cả tạo thành một phép lạ vĩ đại liên tục. Tất cả là một thông điệp đức tin, được tóm tắt bằng lời này của Thánh vịnh: “Một mình Người đã làm nên những điều kỳ diệu, vĩnh cửu là tình yêu của Người” (Tv 136:4).

Đức tin này được phát biểu trong khung cảnh các bài thánh ca; chúng nói lên lòng biết ơn, niềm vui và lời ngợi khen, trong các bản văn như Tv 104, Hc 43 (xem Gn 1). Chủ đề của Tv 104, dành riêng cho Thiên Chúa Tạo Hóa, tiếp tục trong Tv 105, nơi quyền năng và trung tín của Thiên Chúa được tôn vinh trong lịch sử dân Israel. Thiên Chúa, Đấng tạo nên mọi sự và hành động trong sáng thế, cũng hoạt động trong lịch sử (Tv 106, 135, 136). Hành động này tự tỏ mình đặc biệt kỳ diệu và phi thường trong việc giải phóng Israel khỏi vòng tôi đòi ở Ai Cập, và trong hành trình tiến về miền đất hứa. Môsê, người đã nhận được từ Thiên Chúa trách nhiệm và khả năng, đã thực hiện nhiều hành vi lạ lùng, được sách Xuất hành nói tới và nhiều bản văn khác (trong đó có Tv 105:26-45). Người ta có thể nhận thấy ảnh hưởng to lớn mà lịch sử giải phóng Israel đã tác động trên các truyền thống văn học cho đến khi đọc lại nó trong Kn15:14-19,17. Nhưng dường như không thể đem ra ánh sáng một cách chắc chắn các biến cố thực sự đã diễn ra. Những truyền thống này là một lời nhắc nhở về hành động của Thiên Chúa trong lịch sử, chúng diễn tả nó và nhận ra nó: Thiên Chúa đã hướng dẫn và cứu dân Người bằng sức mạnh và lòng trung tín.

b. Các phép lạ của Chúa Giêsu

117. Bốn Tin Mừng đề cập đến một loạt các hành động phi thường được Chúa Giêsu thực hiện. Các phép lạ thường xuyên nhất là các vụ chữa trị cho bệnh nhân và trừ quỉ. Ở đấy, người ta còn tìm thấy ba câu truyện về việc phục sinh (xem Mt 9:18-26; Lc 7:11-17; Ga 11:1-44) và những cử chỉ đầy quyền lực đối với thiên nhiên: cơn bão được làm yên (xem Mt 8: 23-27); Chúa Giêsu đi trên mặt nước (xem Mt 14:22-23), sự nhân thừa các ổ bánh và cá (x. Mt 14:13-21), biến nước thành rượu (x. Ga 2:1 -11). Cũng giống như cách giảng dạy bằng dụ ngôn, việc thực hiện các hành động phi thường thuộc về thừa tác vụ của Chúa Giêsu, và được chứng thực nhiều cách. Những câu truyện này không tạo nên một bổ sung sau này vào truyền thống ban đầu về thừa tác vụ của Chúa Giêsu.

Các thuật ngữ mà bốn Tin Mừng dùng để chỉ định những hành động này có tính soi sáng. Mặc dù chúng nói đến sự kinh ngạc của đám đông trước các việc làm của Chúa Giêsu (x. Mt 9:33; Lc 9:43; 19:17; Ga 7:21), các Tin mừng không sử dụng một từ ngữ tương ứng với nghĩa “phép lạ” (một từ ngữ có nghĩa là: công việc gây kinh ngạc). Các Tin Mừng nhất lãm nói đến “các công trình quyền năng” (dynameis), trong khi Tin Mừng Gioan sử dụng hạn từ “các dấu lạ” (simeia). Sự khác biệt trong từ vựng này phải được xem xét. Tất cả những cử chỉ “phi thường” của Chúa Giêsu giúp chúng ta có thể vượt qua tình huống buồn khổ (bệnh tật, nguy hiểm, v.v.). Nhưng Chúa Giêsu bày tỏ sự kiện này: hành động phi thường của Người không phải là một điều tự trong nó, như Mt 11:20 đã phát biểu: ” Bấy giờ Người bắt đầu quở trách các thành đã chứng kiến phần lớn các phép lạ Người làm mà không sám hối”. Quả không đủ khi chỉ ngưỡng mộ và cảm ơn người làm phép lạ: cần phải hoán cải quay về với sứ điệp của Người.

Trong các Tin Mừng nhất lãm, Nước Thiên Chúa nằm ở trung tâm sứ điệp của Chúa Giêsu (Mt 4:17; Mc 1:15; Lc 4:43). Các công trình quyền năng phải xác nhận và làm hiển nhiên sự kiện này: thực tại cứu rỗi của vương quốc này đã đến gần và trở thành hiện diện. Về các công trình của Người, Chúa Giêsu nói: ” Còn nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Mt 12:28; xem Lc 11:20). Qua sự đa dạng của chúng, những công trình này không chỉ biểu lộ quyền năng cứu rỗi của Nước Thiên Chúa, mà còn có chức năng mặc khải, về những gì liên quan tới danh tính của Chúa Giêsu. Sau khi ngài dẹp yên sóng bão, các môn đệ hỏi: ” Ông này là người thế nào mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh ?” (Mt 8:27). Câu hỏi của Thánh Gioan Tẩy Giả – “có phải ngài là người phải đến” – đã được khích động bởi “các công trình được Đấng Kitô thể hiện” (Mt 11:2-3).

Chúa Giêsu trả lời câu hỏi đó bằng cách liệt kê các công trình quyền năng của Người (xem Mt 11:4-5).

Trong Tin Mừng Gioan, những hành động phi thường của Chúa Giêsu được gọi là “các dấu lạ”: do đó chúng phải dẫn đến một thực tại khác. Đề cập đến hành động phi thường đầu tiên – biến nước thành rượu – tin mừng gia tự phát biểu bằng những từ ngữ sau: “Đây là khởi đầu của những dấu lạ mà Chúa Giêsu đã thực hiện. Chính tại Cana xứ Galilêa. Người đã biểu lộ vinh quang của mình và các môn đệ tin vào Người “(Ga 2:11). Do đó, ý nghĩa và mục đích của các dấu lạ hệ ở việc mặc khải vinh quang của Chúa Giêsu, Đấng xuất phát từ mối liên hệ với Thiên Chúa và là “vinh quang mà Người nhận được từ Cha của Người trong tư cách Con duy nhất” (Ga 1:14), và dẫn đến đức tin vào Chúa Giêsu. Thông thường, giáo huấn của Chúa Giêsu có liên quan đến các dấu lạ, cho thấy một khía cạnh chuyên biệt trong ý nghĩa cứu rỗi của chúng. Chúa Giêsu tự mặc khải Người như “bánh sự sống” (x. Ga 6:35,48,51) lúc làm bánh hóa nhiều (xem Ga 6:1-58); như “ánh sáng của thế giới” (Ga 9,5, 8,12, 12,46) sau khi chữa lành người mù (x. Ga 9: 1-41); như “sự phục sinh và sự sống” (Ga 11,25) Sau khi làm cho Lazarô sống lại (xem Ga 11: 1-44).

Trong kết luận đầu tiên của Tin Mừng ngài, Thánh Gioan nhấn mạnh các dấu lạ của Chúa Giêsu và ngỏ lời trực tiếp với độc giả: Những dấu lạ này “được viết ra để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, và để khi tin như thế, anh em có sự sống nhân danh Người” (Ga 20:31). Các môn đệ (xem Ga 20:30) là những nhân chứng tận mắt, và tất cả những người khác phụ thuộc vào lời chứng của họ. Do đó, các dấu lạ được chứng thực và được viết ra nhằm mục đích dẫn đến đức tin vào Chúa Giêsu, không phải một cách mơ hồ nhưng được xác định rõ ràng, cũng như đến sự sống vốn phát xuất từ Người.

Thánh Gioan cũng thường sử dụng thuật ngữ “công việc” (erga) để chỉ những hành động phi thường của Chúa Giêsu. Sau khi chữa lành một người bệnh trong ngày Sa-bát (xem Ga 5: 1-11), Chúa Giêsu giải thích (xem Ga 5: 19-47) công trình của Người phụ thuộc vào Thiên Chúa Cha như thế nào: “đó là những việc Chúa Cha đã giao cho tôi để tôi hoàn thành; chính những việc tôi làm đó làm chứng cho tôi rằng Chúa Cha đã sai tôi”(Ga 5:36, xem 10:25,37-38; 12:37-43). Chữ “công việc” nhấn mạnh một đặc điểm khác trong hành động của Chúa Giêsu. Chúng là “các dấu lạ” đối với con người, và là “các công việc” nhắc đến “công việc” của Chúa Cha. Vì thế, chúng làm chứng cho sự kiện này: Chúa Giêsu được Thiên Chúa Cha sai đến.

118. Cuối cùng chúng ta hãy đề cập đến những gì cấu thành thuật ngữ và đỉnh cao của mọi dấu lạ và công việc của Chúa Giêsu: sự phục sinh của Người. Nó không chỉ đơn giản là một “dấu lạ” để nhìn, nó là công việc của Thiên Chúa Cha, bởi vì “Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết” (Rm 10:9; xem Gl 1:1; vv ..). Chính biến cố phục sinh không ai đã nhìn thấy, nhưng nó được báo cáo cho các môn đệ, những người trở thành chứng nhân của nó (xem Cv 10:41), nhờ vào Sự hiện ra của Chúa Kitô Phục sinh. Mục đích của các dấu lạ và công việc do Chúa Giêsu thực hiện hệ ở chỗ mặc khải mối liên hệ của Người với Thiên Chúa, và làm cho hiển thị công việc cứu rỗi của Người, một công việc có thể được định nghĩa như là sự giúp đỡ mang đến cho nỗi khốn cùng của con người, và như một cuộc thông đạt, một món quà sự sống.

Tất cả những điều đó được mang đến chỗ nên trọn nhờ sự phục sinh. Sự phục sinh này mặc khải và xác nhận sự kết hợp chặt chẽ của Thiên Chúa với Chúa Giêsu, nó tượng trưng cho việc vượt qua cái chết và tất cả các bệnh tật, nó hiện thực hóa việc bước sang sự sống hoàn hảo, trong sự hiệp thông đời đời với Thiên Chúa. Thánh Phaolô loan báo sự phục sinh của Chúa Giêsu một cách xác tín rằng: “Đấng đã làm cho Chúa Giê-su trỗi dậy cũng sẽ làm cho chúng tôi được trỗi dậy với Chúa Giê-su, và đặt chúng tôi bên hữu Người cùng với anh em” (2 Cr 4:14).

2.6 Những câu truyện về Phục sinh

119. Các tường thuật Phục Sinh cho thấy một khó khăn chuyên biệt liên quan đến sự thật lịch sử của chúng, liên hệ tới sự kiện này: có nhiều sự khác biệt giữa chúng, không dễ hòa hợp, nếu người ta dừng lại ở chiều kích hoàn toàn có tính sự kiện của câu truyện.

Chính biến cố phục sinh của Chúa Giêsu không được mô tả trong bất cứ bản văn nào của Tân Ước. Nó bị loại khỏi mắt người phàm và chỉ thuộc về mầu nhiệm của Thiên Chúa. Ngược lại, có hai loại câu truyện về Phục sinh kể lại những gì đã xảy ra sau cuộc phục sinh: Các phụ nữ đi thăm mộ Chúa Giêsu và các lần hiện ra khác nhau của Chúa Phục sinh (xem thêm 1 Cr 15:3-8), Đấng tự tỏ mình đang sống với các chứng nhân Người đã chọn. Chuyến viếng thăm mộ tạo nên biến cố phục sinh độc đáo được chúng ta tìm thấy trong câu truyện tương tự của bốn sách Tin Mừng, mặc dù có nhiều biến thể trong các chi tiết của bản văn.

Một cách đặc thù hơn, chúng ta muốn xem xét ba sự khác biệt được tìm thấy trong bốn câu truyện:

a. Chỉ có đoạn Mt 28:2 đề cập đến một trận động đất trước khi đề cập tới việc các phụ nữ đến ngôi mộ của Chúa Giêsu.

b. Chỉ có đoạn Mc 16:8 nói đến việc các phụ nữ trốn chạy vì sợ hãi và sự im lặng của họ sau cuộc gặp gỡ thiên sứ.

c. Theo các sách nhất lãm (xem Mt 28:5-7, Mc 16:6-7, Lc 24:5-7), thông điệp liên quan đến sự phục sinh của Chúa Giêsu được truyền đến các phụ nữ bởi một hoặc nhiều sứ giả của Thiên Chúa; Ngược lại, theo Ga 20: 14-17, Maria Mađalêna, mặc dù đã nhìn thấy hai thiên thần trong ngôi mộ (xem Ga 20:12-13) đã trực tiếp nhận từ Chúa Giêsu việc loan báo sự phục sinh của Người.

a. Trận động đất

120. Sự kiện chỉ có đoạn Mt 28:2 đề cập đến trận động đất không có nghĩa là các Tin Mừng khác, các tin mừng không đề cập đến nó, đã phủ nhận nó. Một kết luận như vậy, chỉ dựa trên một lập luận im lặng, sẽ không chắc chắn. Mặt khác, “trận động đất” dường như thuộc về thần học của Thánh Matthêu. Chỉ có tác giả tin mừng này nói đến một trận động đất – kèm theo những hiện tượng phi thường khác – sau cái chết của Chúa Giêsu (xem Mt 27:51-53), và trình bầy nó như lý do khiến viên bách quản và binh lính của ông ta khiếp sợ và thú nhận ngôi vị Con trai Thần thiêng của Chúa Giêsu bị đóng đinh (xem Mt 27:54). Nhân vấn đề này, ta hãy lưu ý điều này: các mô tả thần hiện (théophanies) trong Cựu Ước coi động đất như là một trong những hiện tượng qua đó sự hiện diện và hành động của Thiên Chúa được tỏ hiện (xem Xh 19:18; Tl 5:4-5; 1 V 19:11; Tv 18:8; 68:8-9; 97:4; Is 63:19). Trong Khải Huyền, trận động đất được coi là một chấn động nhằm làm sụp đổ “hệ thống trần gian”, một hệ thống tương ứng với một thế giới, vì được xây dựng bên ngoài Thiên Chúa và đối nghịch với Người, sẽ sụp đổ vào một thời điểm đã định (xem Kh 6:12; 11:13; 16:18).

Do đó, có xác suất là Thánh Matthêu sử dụng “ý định văn học” [motif littéraire] này. Khi đề cập đến trận động đất, ngài muốn nhấn mạnh rằng cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu không phải là những biến cố thông thường, mà là những biến cố “làm đảo lộn”, trong đó chính Thiên Chúa hành động và hiện thực hóa ơn cứu rỗi loài người. Ý nghĩa chuyên biệt của hành động thần thiêng phải được đem ra ánh sáng khởi đi từ bối cảnh Tin Mừng: cái chết của Chúa Giêsu “làm nên trọn” ơn tha tội và hòa giải với Thiên Chúa (Mt 20:28; 26:28) ; và trong sự phục sinh của Người, Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết, bước vào sự sống của Thiên Chúa Cha và nhận được quyền năng trên mọi sự (xem Mt 28:18-20). Do đó, Tin mừng không nói tới trận động đất mà sức mạnh của nó có thể được đo bằng các độ cân đo nhất định, nhưng nó tìm cách đánh thức sự chú ý của độc giả và hướng sự chú ý ấy về phía Thiên Chúa, bằng cách làm nổi bật yếu tố quan trọng nhất là sự phục sinh của Chúa Giêsu: mối liên hệ của Người với quyền năng cứu rỗi của Thiên Chúa.

b. Tác phong của các phụ nữ

121. Trường hợp ở Mc 16:8 cũng tương tự. Bản văn đề cập đến phản ứng của các phụ nữ đối với thông điệp của thiên thần, một phản ứng sợ hãi và kinh hãi: “Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ hãi” Các tác giả tin mừng khác không thuật lại phản ứng này. Giống như trận động đất là một trong những hiện tượng đi kèm với sự biểu lộ quyền năng của Thiên Chúa, cũng vậy, nỗi sợ hãi tượng trưng cho phản ứng theo thói quen của con người đối với một biểu lộ như vậy. Một trong những đặc điểm của Tin mừng Máccô hệ ở việc xác định chính xác bản chất và loại biến cố được nó thuật lại, khởi đi từ phản ứng của những người tham dự vào chúng (xem Mc 1:22, 27; 4:41; 5:42, v.v.). …). Phản ứng mạnh mẽ và rõ rệt nhất trong tin mừng của ngài là phản ứng của các phụ nữ, sau khi họ nghe được thông điệp phục sinh của sứ giả Thiên Chúa. Qua phản ứng của họ, Tác giả tin mừng nhấn mạnh rằng sự phục sinh của Chúa Giêsu bị đóng đinh là biểu lộ lớn nhất của quyền năng cứu rỗi của Thiên Chúa. Tác giả tin mừng không những truyền đạt chính biến cố mà còn cho thấy cả ý nghĩa xác định của nó đối với các hữu thể nhân bản và hiệu quả của nó đối với họ.

c. Nguồn gốc thông điệp phục sinh

122. Nguồn gốc của thông điệp phục sinh được trình bày nhiều cách khác nhau bởi các Tin mừng. Theo các tin mừng nhất lãm (Mt 28:5-7; Mc 16:6-7; Lc 24:5-7), các phụ nữ đến ngôi mộ của Chúa Giêsu và thấy nó trống rỗng, nhận được từ một hoặc hai thiên sứ sứ điệp liên quan đến sự phục sinh của Chúa Giêsu. Ngược lại, theo Ga 20: 1-2, Maria Mađalêna, sau khi thấy ngôi mộ trống, đã đến gặp các môn đệ và nói với họ: “Người ta đã lấy Chúa khỏi ngôi mộ của Người, và chúng tôi không biết họ đặt nó ở đâu” (Ga 20:2). Bà lặp lại hai lần nữa (xem Ga 20:13,15) điều bà thấy ngôi mộ trống, và chỉ mang thông điệp phục sinh đến cho các môn đệ (xin xem Ga 20:18) sau khi chính Chúa phục sinh hiện ra với bà (xem Ga 20:14-17). Người ta có thể tự hỏi liệu Thánh Matthêu, Thánh Máccô và Thánh Luca, khi đề cập đến việc khám phá ra ngôi mộ trống, có dự ứng sự giải thích đích thực cho sự kiện này, bằng cách thoát khỏi lối giải thích, đã nhắc, từng được Maria Mađalêna đưa ra hay không (xem Ga 20: 2-13, 15; xem thêm Mt 28:13). Bằng cách đặt lời giải thích này lên môi miệng của một sứ giả trên trời, ba tác giả tin mừng coi đó như một kiến thức siêu phàm, chỉ có thể đến từ một mình Thiên Chúa. Nhưng nguồn gốc thực tế của lối giải thích này là chính Chúa phục sinh, Đấng đã hiện ra với các nhân chứng được chọn. Không thể nghi ngờ rằng nền tảng đức tin vững chắc nhất vào sự phục sinh của Chúa Giêsu được tạo thành bời các lần hiện ra của Người (1 Cr 15:3-8).

Bốn tường thuật của chuyến viếng thăm ngôi mộ, với các khác biệt của chúng, làm cho sự phối hòa lịch sử của chúng trở nên khó khăn, nhưng các khác biệt này chính xác đã tạo thành một lời mời để hiểu chúng một cách chính đáng. Nghiên cứu về ba điểm khác biệt chính của chúng – trận động đất, các phụ nữ trốn chạy, thông điệp trên trời – đã cho thấy một ý nghĩa chung: những câu truyện này là bằng chứng về Thiên Chúa và về sự can thiệp dứt khoát của quyền năng cứu rỗi của Người trong sự phục sinh của Chúa Giêsu. Kết quả này, nếu, một mặt, giải phóng khỏi sự gò bó của việc phải coi từng chi tiết của câu truyện – không những các câu truyện Phục sinh, mà cả toàn bộ các Tin mừng – như dữ kiện chính xác của một biên niên lịch sử, mặt khác, kích thích phải cởi mở và chú ý đến ý nghĩa thần học phát xuất không những từ các khác biệt, mà còn từ mọi chi tiết của câu truyện.

d. “Giá trị thần học của các sách Tin mừng”

123. Sự kiện coi các Tin mừng như một biên niên sử các sự kiện, dựa trên một tường trình chính xác của các nhân chứng, vẫn tạo nên một ý kiến đương thời. Một xác tín như vậy dựa trên ý tưởng chính đáng rằng đức tin Kitô giáo không phải là một suy đoán phản lịch sử, mà dựa trên những sự kiện thực sự xảy ra. Thiên Chúa hành động trong lịch sử và làm cho Người hiện diện một cách ưu việt trong lịch sử Con nhập thể của Người. Nhưng một quan niệm chỉ thấy trong các sách Tin mừng duy nhất một loại biên niên sử nào đó có thể không nhìn ra tầm quan trọng thần học của chúng, và do đó bỏ qua sự phong phú của chúng, một điều chính xác hệ ở sự kiện chúng nói về Thiên Chúa. Ủy ban Giáo hoàng về Kinh thánh đã khẳng định vào năm 1964, trong Chỉ thị về Chân lý lịch sử của các sách Tin mừng, Sancta Mater Ecclesiae rằng: “Các nghiên cứu gần đây mang lại kết quả là: cuộc đời và giáo huấn của Chúa Giêsu không được tường thuật với mục đích duy nhất là để lưu giữ ký ức về Người, nhưng ‘để rao giảng’ theo cách cung cấp cho Giáo hội nền tảng của đức tin và luân lý; Đây là lý do tại sao nhà chú giải, khi xem xét kỹ lưỡng những lời chứng của các tác giả tin mừng, phải tiến tới mức biểu lộ hết sức cần mẫn các khẳng định thần học về giá trị vĩnh cửu của các sách Tin mừng, và đưa ra ánh sáng đầy đủ sự cần thiết và tầm quan trọng của lời giải thích của Giáo hội “(EB 652).

Do đó, chúng ta phải xét đến sự kiện này: các sách Tin Mừng không chỉ là các biên niên sử về các sự kiện trong cuộc đời của Chúa Giêsu, vì các tác giả tin mừng cũng tìm cách phát biểu trong đó, theo phương thức tường thuật, giá trị thần học của các biến cố này. Điều này có nghĩa: trong mọi điều chúng tường thuật, chúng không những chỉ tìm cách duy trì các dữ kiện của một biên niên sử, mà còn nhằm mục đích đưa ra một “bình luận thần học” về các sự kiện được tường thuật, diễn giải giá trị thần học của chúng. và làm chứng cho mối liên kết của chúng với Thiên Chúa.

Nói cách khác, ý muốn loan báo Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa và Đấng Cứu độ loài người – một ý muốn thuộc trật tự “thần học” – chiếm ưu thế trong các Tin mừng và là nền tảng của chúng. Việc nhắc đến các sự kiện cụ thể, mà chúng ta thấy trong các sách Tin mừng, phải được thấu hiểu trong bối cảnh mục tiêu thần học này. Hệ luận là, trong khi các quả quyết thần học về Chúa Giêsu có giá trị trực tiếp và chuẩn mực, thì các yếu tố hoàn toàn có tính “lịch sử” chỉ có chức năng bổ trợ.

3. Thách thức thứ hai: các vấn đề đạo đức và xã hội

124. Các bản văn Kinh Thánh liên quan đến tác phong rõ ràng vô luân, những tác phong phát biểu các cảm quan thù hận và bạo lực, hoặc cổ vũ các điều kiện xã hội mà ngày nay bị coi là bất công, cũng tạo nên một thách thức cần giải thích. Những bản văn này có thể gây gương mù cho các Kitô hữu hoặc làm họ mất phương hướng; những người này đôi khi bị những người ngoài Kitô giáo buộc tội, trong sách thánh của họ, có chứa các yếu tố dẫn đến một tôn giáo dạy sự vô luân và bạo lực. Trong khuôn khổ câu hỏi khó khăn này, chúng tôi sẽ cố gắng đưa ra một giải thích, trong Cựu Ước, về bạo lực vốn gán cho các luật “tru hiến” (hủy diệt) và các Thánh vịnh đòi trả thù; trong Tân Ước, chúng ta sẽ đề cập tới vấn đề về địa vị xã hội của phụ nữ trong các thư của Thánh Phaolô.

3.1 Bạo lực trong Kinh thánh

125. Sự hiện diện trong Kinh thánh, và đặc biệt trong Cựu Ước, của nhiều trình thuật về bạo lực và sự tàn ác tạo nên một trong những trở ngại lớn đối với việc tiếp nhận nó như một bản văn linh hứng. Và điều này càng như thế hơn nữa vì, thông thường, bạo lực và sự tàn ác được Thiên Chúa truyền lệnh, hoặc hiện diện trong các lời cầu nguyện ngỏ cùng Thiên Chúa, đôi khi chúng được các tác giả thánh trực tiếp qui cho chính Người.

Không nên tối thiểu hóa sự khó chịu của các độc giả đương thời. Thực thế, nó đã xui khiến một số người bác bỏ các bản văn Cựu Ước, bị coi là lỗi thời và không thể nuôi dưỡng đức tin. Chính phẩm trật Công Giáo cũng đã tri nhận các rủi ro mục vụ (enjeux pastorales) của vấn đề, nên đã đưa ra quyết định rằng, trong phụng vụ công cộng, không nên đọc toàn bộ các đoạn văn, và nên bỏ qua một cách có hệ thống những câu thơ tỏ ra gây ngỡ ngàng đối với sự nhạy cảm của Kitô hữu. Người ta có thể diễn dịch một cách sai lầm rằng một phần của Kinh thánh không được hưởng đặc sủng linh hứng, không tự biểu lộ là “có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính” (2 Tm 3:16).

Do đó, dường như không thể không chỉ ra một số trục giải thích cho phép một phương thức chính đáng hơn của truyền thống Kinh Thánh, đặc biệt các bản văn gây ra vấn đề, dù sao, cần phải được giải thích trong bối cảnh toàn diện của Kinh thánh, nghĩa là, dưới ánh sáng của thông điệp tình yêu của tin mừng, kể cả đối với các kẻ thù (xem Mt 5:38-48).

3.1.1 Bạo lực và các phương thuốc pháp lý của nó

126. Ngay từ những trang đầu tiên, Kinh thánh đã cho thấy sự đột nhập của bạo lực vào xã hội loài người (xem St 4:8, 23-24; 6:11,13), mà nguồn gốc nằm trong sự bác bỏ Thiên Chúa dưới hình thức thờ ngẫu tượng (xem Rm 1:18-3e). Kinh thánh tố cáo và lên án tất cả các hình thức lạm dụng, nô lệ, chiến tranh huynh đệ tương tàn, gây hấn con người, hệ thống áp bức, bất luận giữa các quốc gia hay ngay trong chính Israel (xem Am 1: 3-2,16). Bằng cách trình bày cho loài người các hậu quả khủng khiếp của sự đồi trụy tâm hồn (xem St 6:5, Grm 17:1), Lời Chúa có vai trò tiên tri: nó mời gọi chúng ta nhận ra điều ác để tránh và chống lại nó. Để hiểu biết điều thiện cần được chu toàn (Rm 3:20), và tạo điều kiện dễ dàng cho diễn trình hoán cải, Kinh thánh tuyên bố Luật của Thiên Chúa, một luật tạo nên chiếc thắng (frein) ngăn chặn việc lan tràn bất công. Kinh Tôra của Chúa không những chỉ cho ta con đường công chính mà mọi người được kêu gọi tuân theo một cách trung thành, mà nó còn quy định tác phong phải giữ khi giáp mặt với kẻ có tội để cái ác bị diệt trừ (xem Đnl 17:12; 22:21,22,24, v.v.), các nạn nhân được bồi thường, và hòa bình được thiết lập. Một bố trí như vậy không thể bị lên án là bạo lực. Sự trừng phạt được xác nhận là cần thiết, không những để làm nổi bật sự đồi bại và tính nguy hiểm của tội ác, mà ngoài việc đặt để một thưởng phạt chính đáng, nó còn nhằm mục đích tu sửa thủ phạm, và, khi xui khiến người ta sợ đau, nó giúp xã hội và cá nhân tránh được sự ác. Xóa bỏ hoàn toàn hình phạt là tương đương với việc dung túng cho những hành vi sai trái, và trở thành đồng phạm của chúng. Hệ thống hình sự, được quy định bởi điều thường gọi là “luật trả thù” (“mắt đền mắt, răng đền răng”: Xh 21:24, Lv 24:20; Đnl 19:21), đại diện cho một cách cổ vũ hợp lý lợi ích chung.

Dù không hoàn hảo do các khía cạnh cưỡng chế, và phương thức của một số biện pháp trừng phạt của nó, một hệ thống như vậy, với các điều chỉnh hợp thời, đã được giả định bởi các hệ thống tư pháp của mọi thời đại và mọi quốc gia, vì nó đặt căn bản đầy lý tưởng, trên tính cân xứng giữa tội phạm và hình phạt, giữa tác hại gây ra và tác hại phải chịu. Trái ngược với một sự trả thù võ đoán, biện pháp phản ứng công bằng đối với một hành động sai trái đã được ấn định ở đó.

Người ta có thể phản bác rằng một số quy tắc trừng phạt được dự liệu bởi các quy luật trong Cựu Ước có thể xem ra tàn nhẫn không thể chịu đựng được (như đánh đòn – xem Đnl 25:1-3 – hoặc chặt tay – Đnl 25:11-12); cũng thế, hình phạt tử hình, dự liệu cho các tội nghiêm trọng nhất, ngày nay đang bị tranh cãi. Người đọc Kinh thánh, khi đối diện với các bản văn này, một mặt, phải nhận ra đặc điểm lịch sử của luật pháp Kinh thánh, ngày nay đã lỗi thời bởi sự hiểu biết tốt hơn về quyền bất khả nhượng của con người, trong khuôn khổ thi hành công lý; mặt khác, các lệnh truyền xưa được ghi lại trong Kinh Thánh cũng có chức năng cảnh báo mức độ nghiêm trọng của một số tội ác, đòi phải có một phản ứng thích hợp để ngăn chặn sự lan tràn của sự ác.

Khi Kinh Thánh gán cho Thiên Chúa và thẩm phán nhân bản một thái độ tức giận khi thi hành công lý trừng phạt, đó không phải là một tác phong không thích hợp: không được để sự ác không bị trừng phạt, và điều quan trọng là các nạn nhân được giải cứu và bồi thường. Trên một bình diện khác, Kinh thánh liên kết viễn tượng một Thiên Chúa kiên nhẫn với viễn tượng một Thiên Chúa bảo đảm công lý (x. Xh 34:6; Ds 14:18: Tv 103:8, v.v.), và trên hết cởi mở đối với sự tha thứ cho người có tội (cf Is 1:18; St 4:11), sự tha thứ thuận tình cho những người bày tỏ sự ăn năn bằng lời nói và hành động của họ (cf St 3:10; Edk 18:23). Kinh thánh đề xuất với con người, vốn có trách nhiệm đối với công lý và hòa hợp xã hội, mô hình thần thiêng, một mô hình liên kết sự nghiêm khắc và kỷ luật cần thiết với viễn ảnh tha thứ, để họ có thể bắt chước mô hình này.

3.1.2 Các luật “tru hiến” (hủy diệt)

127. Ở Đệ nhị luật, trong số nhiều điều khác, chúng ta đọc thấy: Thiên Chúa ra lệnh cho Israel lật đổ các quốc gia Canaan và buộc họ phải bị tru hiến (xem Đnl 7:1-2; 20:16-18). Lệnh này đã được Giosuê thi hành một cách trung thành (xem Ds 6-12) và cũng được thực hiện trong thời kỳ quân chủ đầu tiên (xem 1 S 15). Những bản văn này tự cho thấy có vấn đề, thậm chí còn hơn thế nữa nơi tất cả các cuộc chiến tranh và tàn sát được Cựu Ước thuật lại. Người ta không thể chấp nhận được việc dựa vào chúng để hợp pháp hóa chương trình chính trị duy dân tộc, biện minh cho bạo lực chống lại các dân tộc khác: điều này thực sự làm sai lệch ý nghĩa của các trang kinh thánh.

Để khởi đầu, cần phải lưu ý rằng các bản văn này không được trình bầy như các câu truyện lịch sử: trong một cuộc chiến thực sự, các bức tường của một thành phố không sụp đổ vì tiếng kèn (xem Gs 6:20), và người ta không thấy việc làm thế nào sự phân phối đất đai lại có thể diễn ra một cách thực sự hòa bình bằng cách rút thăm (xem Gs 14:2). Mặt khác, luật pháp của Đệ nhị luật, là luật ra lệnh việc tận diệt người Canaan, làm sao có thể mang được hình thức viết ở một thời kỳ trong đó các giống dân này không còn hiện hữu trên đất Israel. Do đó, cần phải xác định lại một cách cẩn thận thể loại văn học của những câu truyện này. Như những nhà giải thích tốt nhất trong truyền thống giáo phụ đã đề xuất, câu chuyện sử thi về cuộc chinh phục có thể được hiểu như một loại dụ ngôn, miêu tả các nhân vật có giá trị biểu tượng. Mặt khác, luật nói về “tru diệt” đòi một giải thích phi nghĩa đen, giống như cách lệnh của Chúa đòi ta phải tự chặt tay hoặc móc mắt nếu chúng là dịp gây gương mù (xem Mt 5:29; 18:9).

Do đó, chúng ta cần xác định phải định hướng việc đọc các trang khó khăn này ra sao. Khía cạnh gây tranh cãi đầu tiên của truyền thống văn học vừa được đề cập là khía cạnh chinh phục, hiểu như sự hủy diệt các cư dân của nơi ấy, cho phép mình định cư ở đó thay thế họ. Ở đây điều không thuyết phục là nại tới khái niệm “quyền của Thiên Chúa” trong việc phân phối đất đai bằng cách dành ưu tiên cho những kẻ Người chọn (xem Đnl 7:6-11; 32:8-9), vì điều này không công nhận quyền hợp pháp của các dân tộc tự trị này được đòi lại nó. Các bản văn Kinh thánh cho ta các hướng giải thích có tính thuyết phục khác. Nơi đầu tiên là bài tường thuật mô tả cuộc xung đột giữa hai nhóm, có trạng thái kinh tế và quân sự khác nhau: trạng thái của người Canaan, rất mạnh mẽ (xem Đnl 7:1; xem thêm Ds 13:33, Đnl 1:28). Am 2:9, v.v.) và trạng thái của người Israel, yếu ớt và không được chống đỡ. Do đó, để làm gương, câu truyện không kể lại cuộc chiến thắng của kẻ mạnh nhất, nhưng trái lại, là chiến thắng của kẻ nhỏ bé, phù hợp với một “hình tượng” đã được chứng thực suốt bộ Kinh thánh, cho đến tận Tân Ước (Lc 1:52; 1Cr 1:27). Điều này tương ứng với việc đọc lịch sử theo lối tiên tri, một lối đọc diễn giải cuộc chiến thắng của những “người hiền lành”, trong một cuộc thánh chiến, như việc thiết lập ra Nước Chúa trên trái đất. Ngoài ra, theo lời chứng Kinh Thánh, Thiên Chúa coi người Canaan phạm những tội rất nghiêm trọng (xem St 15:16; Lv 18:3, 24-30; 20:23; Đnl 9:4-5, v.v.), trong đó, có việc giết con trai của họ trong các nghi thức đồi trụy (cf Đnl 12:31; 18:10-12). Câu truyện do đó trình bày việc thi hành công lý thần thiêng trong lịch sử. Và Giosuê hành xử như “đầy tớ của Chúa” (Gs 24:29; Tl 2:8) theo cách ông đảm nhận việc thi hành công lý này: các chiến thắng của ông liên tục được gán cho Chúa và sức mạnh siêu phàm của Người. Đề tài văn học xuyên suốt về công lý mà các quốc gia phải đương đầu đã có từ những câu truyện Kinh thánh đầu tiên, sau đó, nhờ được chứng thực nơi các tiên tri và trong các trước tác khải huyền, nó sẽ được áp dụng cho nhiều dân tộc khác, bất cứ khi nào Chúa phán xét rằng một quốc gia đáng bị xử phạt– đây là trường hợp Israel.

Về phương diện này, các tín hữu của Chúa cần phải hiểu luật tru hiến và việc áp dụng nó một cách có ý thức. Một luật pháp như vậy dựa trên định nghĩa về dân giao ước như một dân thánh (x. Đnl 7:6), một điều, theo quan điểm cực đoan, có thể có nghĩa sự hiện hữu của một khác biệt triệt để khiến học trở thành tách biệt khỏi các dân tộc khác. Thiên Chúa chắc chắn không đưa ra mệnh lệnh phải tiến hành các lạm dụng được biện minh bởi động cơ tôn giáo, nhưng Người yêu cầu phải vâng phục một nghĩa vụ công lý, tương tự như việc theo đuổi, lên án và giết chết thủ phạm của một tội ác hàng đầu – bất luận đó là một cá nhân hay một cộng đồng. Thương hại một phạm nhân, bằng cách tha cho anh ta, bị coi như một hành động bất tuân và bất công (xem Đnl 13:9-10; 19:13,21: 25:12, 1Sm 15:18-19; 1V 20:42). Trong trường hợp này, hành vi rõ ràng là bạo lực được coi là nhiệt tình để loại bỏ cái ác, và do đó bảo vệ lợi ích chung. Dòng văn học và thần học này được cân bằng bởi những dòng văn học khác – trong đó có trước tác tư tế – loại trước tác, đứng trước các sự kiện y hệt như thế, ngược lại, lại gợi ý một định hướng hòa bình rõ ràng. Vì lý do này, điều thích đáng là hiểu toàn bộ biến cố chinh phục như một loại biểu tượng, tương tự như những gì chúng ta đọc trong một số dụ ngôn tin mừng bàn đến công lý (xem Mt 13:30, 41-43,50; 25:30,41; v.v…). Câu chuyện về chinh phạt này cần được liên kết với các trang khác của Kinh thánh vốn phát biểu lòng cảm thương thần thiêng và sự tha thứ của Người – những điều vốn tạo nên chân trời và cùng đích của tất cả các hành động lịch sử của Chúa Tể cả trái đất, và mẫu mực của hành động công chính của con người.

3.1.3 Lời cầu nguyện xin trả thù

128. Biểu thức bạo lực xem ra đặc biệt lạc điệu khi nó bước vào lời cầu nguyện. Tuy nhiên, chúng ta thấy trong các Thánh vịnh, nhiều biểu thức thù ghét và ước muốn trả thù, trái ngược hoàn toàn với các tâm tình yêu thương kẻ thù được Chúa Giêsu giảng dạy cho các môn đệ của Người (xem Mt 6:44; Lc 6:27,35). Mặc dù vẫn tôn trọng quyết định khôn ngoan của phụng vụ trong việc bỏ qua những điều có thể gây gương mù, ta vẫn cần phải cung cấp một số giải thích giúp các tín hữu ngày nay, giống như ngày xưa, sở đắc được toàn bộ di sản cầu nguyện của Israel.

Cách chính giúp giải thích và tiếp nhận những biểu thức khó khăn của các Thánh vịnh hệ ở việc hiểu thể loại văn học. Điều này có nghĩa: các biểu thức chúng ta đọc ở đó không nên được hiểu theo nghĩa đen. Trong một lời cầu nguyện khẩn nài và than thở, được một người bị bách hại kêu van, động cơ “nguyền rủa” xuất hiện thường xuyên: đó là một lời cầu khẩn say sưa ngỏ cùng Thiên Chúa, để Người hiện thực hóa sự cứu rỗi bằng cách tận diệt các kẻ thù. Trong một số Thánh vịnh, chiều kích trả thù này rất được nhấn mạnh hoặc thậm chí trổi vượt (xem Tv 109 chẳng hạn). Nếu các thành ngữ văn học do Thánh Vịnh gia sử dụng được điều chỉnh vừa phải (như kiểu: “Chớ gì những ai tìm hại mạng sống con phải xấu hổ thẹn thùng, kẻ tính kế hại con phải tháo lui nhục nhã!” – Tv 35:4), thì chúng chắc chắn sẽ dễ dàng được hòa nhập vào lời cầu nguyện. Các hình ảnh tàn bạo là các hình ảnh gây ra nhiều vấn đề nhất (Thí dụ: ” Vì Ngài vẫn một lòng thương mến, xin tiêu diệt những kẻ thù con” – Tv 143:12 hoặc ” Gái Ba-by-lon hỡi, đồ trời tru đất diệt! Phúc thay người xử lại với mi, như mi đã xử với ta! Phúc thay người bắt những con thơ của mi mà đem đập vào đá” – Tv 137:89). Ở đây, có ba khía cạnh xứng đáng được nghiên cứu.

a. Chủ thể cầu nguyện: người đau khổ

129. Thể văn than thở sử dụng các biểu thức cường điệu và tức tối, hoặc trong mô tả đau khổ, luôn có tính cực đoan (“chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được vắn dài” [Tv 22:17- 18]; “Kẻ vô cớ ghét con nhiều hơn tóc trên đầu, bọn thù con vô lý lại mạnh thế hơn con” [Tv 69:5]), hoặc trong lời xin được phương thuốc, rõ ràng phải nhanh chóng và dứt khoát. Điều này được giải thích bằng sự kiện những lời cầu nguyện này phát biểu quan điểm xúc cảm của một người thấy mình trong tình huống bi đát. Các xúc cảm của họ, do đó, không thể phản ánh sự bình tĩnh, và lời nói của họ giống như một tiếng gầm (xem Tv 22:14). Dù sao, hình ảnh được sử dụng chỉ là các ẩn dụ: “bẻ gẫy răng kẻ ác” (Tv 3:8; 58:7) có nghĩa là làm họ chấm dứt sự dối trá và lòng tham của kẻ mạnh; “bắt những con thơ của mi mà đem đập vào đá” (Tv 137:8-9) có nghĩa là tận diệt để các thế lực tà ác hủy diệt sự sống không xảy ra một lần nữa trong tương lai; và vân vân. Ngoài ra, người cầu nguyện sách Thánh Vịnh sử dụng những lời được một người khác viết ra, trong những hoàn cảnh khác. Do đó, họ phải luôn luôn thực hiện một sự chuyển vị để áp dụng chúng vào cuộc sống bản thân của mình: sự hiện thực hóa này sẽ thành công hơn khi lời cầu nguyện than thở sẽ không những chỉ được hiểu như nói lên tình huống bản thân của người cầu nguyện, mà còn như tiếng nói đau đớn của tất cả các nạn nhân của lịch sử, như tiếng khóc của các vị tử đạo (xem Kh 6:10), những vị vốn cầu xin Thiên Chúa rằng “con thú” hung bạo biến mất mãi mãi.

b. Người cầu nguyện xin gì?: “Giải thoát chúng con khỏi sự ác”

130. Lời cầu nguyện nguyền rủa (imprécation) không thực hiện một hành động ma thuật có hiệu quả trực tiếp đối với kẻ thù. Trái lại, người cầu nguyện phó thác cho Thiên Chúa sứ mệnh thể hiện công lý, một nền công lý mà không ai khác ngoài Người có thể thiết lập trên trái đất. Lời cầu nguyện này ngụ ý từ bỏ sự báo thù cá nhân (xem Rm 12:19; Dt 10:30), và bày tỏ sự tin tưởng vào hành động của Chúa có thể được thích ứng với tính nghiêm trọng của tình thế và hoàn toàn phù hợp với bản chất của chính Thiên Chúa. Những kiểu nói do những người cầu nguyện sử dụng dường như ra lệnh cho Thiên Chúa cách Người phải hành động; nhưng nếu được hiểu chính xác, chúng chỉ bày tỏ mong muốn là cái ác bị tận diệt, và những người bị sỉ nhục đạt được sự sống. Lời cầu nguyện ngỏ cùng Thiên Chúa xin cho điều này xảy ra trong lịch sử, để sự mặc khải của Chúa diễn ra (Tv 35:27; 59:14; 109:27), và do đó tạo cơ hội cho người bạo động hoán cải (x. Tv 9:21; 83:18-19). Trong một số trường hợp, sự bách hại người cầu nguyện được coi như một gây hấn chống lại Thiên Chúa (Tv 2:2; 83:3,13), thường được đi kèm với sự khinh miệt Chúa (x. Tv 10:4,13; 42:4; 73:11).

c. Những ai là kẻ thù của người cầu nguyện?

131. Xác định kẻ thù của người cầu nguyện không phải là một hoạt động giải thích đơn giản cho thấy những nhân vật nào được tác giả thánh đề cập đến, và trong hoàn cảnh lịch sử nào tác giả này làm như vậy. Trên thực tế, tình huống được các Thánh vịnh (ta thán) mô tả rất rập khuôn: ngôn ngữ khá qui ước và thường cố ý có tính ẩn dụ do đó có thể áp dụng vào các hoàn cảnh đa dạng và các đối tượng khác nhau. Do đó, một hành động giải thích “tiên tri” trong Chúa Thánh Thần là điều cần thiết để hiểu các lời lẽ của Thánh Vịnh gia phải được áp dụng ra sao trong cuộc sống cụ thể của người đọc một thánh vịnh ta thán, và biện phân được ai là kẻ thù đe dọa họ trong một lịch sử cụ thể (xem Công vụ 4:23-30).

Việc nhận diện kẻ thù tiến triển khi người ta khám phá ra rằng những người này không những chỉ là những người chăm lo cuộc sống thể xác hay phẩm giá con người, mà hơn nữa còn là những người chăm lo cuộc sống thiêng liêng của người cầu nguyện (x. Mt 10:28). Đâu là các thế lực thù địch mà các tín hữu phải đối đầu? Ai hoặc điều gì bị mô tả là “những con sư tử cấu xé và gầm gừ” (Tv 22:14; xem 1 Pr 5:8), hoặc “miệng lưỡi đầy nọc độc” của rắn (Tv 140:4), sự thù hận khôn nguôi được cảm nhận vì ai (xem Tv 26:5; 139:21-22), và sự hủy diệt của họ được cầu xin cùng Thiên Chúa (Tv 31:18)? “chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân”, người ta đọc như thế trong Eph 6:12. Chính khỏi tay “kẻ ác”, “đạo binh” (Mc 5:9) mà người cầu nguyện xin được giải thoát, như nhờ một phép trừ quỷ, bởi quyền năng thương xót của Thiên Chúa. Và giống như trong mọi trường hợp trừ qủy, lời nói phải nghiêm khắc vì chúng nói lên sự thù địch tuyệt đối giữa Thiên Chúa và sự ác, giữa con cái Thiên Chúa và thế giới tội lỗi (x. Gcb 4:4).

3.2 Địa vị xã hội của phụ nữ

132. Nhiều đoạn Kinh Thánh, đặc biệt là của Thánh Phaolô, mời gọi chúng ta biện phân điều mà trong Qui điển Cựu Ước cũng như qui điển Tân Ước có giá trị vĩnh viễn, và là điều vì có liên quan đến một nền văn hóa, một nền văn minh, hoặc các phạm trù của một thời kỳ nhất định, nên cần được tương đối hóa. Chủ đề địa vị phụ nữ trong các trước tác Phaolô đặt ra loại câu hỏi này.

a. Sự phục tùng của vợ đối với chồng

Trong các thư gửi cho người Côlôxê (xem Cl 3:18); người Êphêsô (Eph 5:22-23) và Titô (xem Tt 2:5), Thánh Phaolô yêu cầu phụ nữ tùng phục chồng họ, và khi làm như vậy, ngài đã theo phong tục của người Hy Lạp và người Do Thái thời đó, theo đó, phụ nữ có địa vị xã hội thấp hơn nam giới. Lời khuyên này có vẻ không theo Gl 3:28, trong đó nói rằng không nên có sự phân biệt trong Giáo Hội, giữa người Do Thái và Hy Lạp, cũng như giữa người tự do và nô lệ, và giữa đàn ông và đàn bà.

Trong đoạn văn của thư Côlôxê và thư Êphêsô, việc tùng phục của phụ nữ không dựa trên các chuẩn mực xã hội có hiệu lực lúc đó, nhưng dựa trên hành động của chồng, một hành động có nguồn gốc của nó trong agape, vốn có mô hình là tình yêu của chính Chúa Kitô đối với Thân Thể của Người, là Giáo Hội. Tuy nhiên, Thánh Phaolô từng bị tố cáo đã viện dẫn ví dụ tuyệt vời này để giữ cho người phụ nữ dễ dàng hơn trong cảnh nô dịch, và khi làm thế, đã bắt các Kitô hữu phải phục tùng các giá trị trần gian – nói cách khác, là đi trệch ra ngoài Tin Mừng.

Đối với những phản bác đó, ta có thể nói rằng Thánh Phaolô đã không nhấn mạnh nhiều đến việc tùng phục của các bà vợ – các lập luận rất ngắn về chủ đề này – nhưng nhấn mạnh nhiều hơn đến tình yêu mà người chồng phải biểu lộ cho vợ mình, một tình yêu đối với Thánh Phaolô không những là điều kiện của sự kết hợp và hợp nhất của vợ chồng, mà còn là điều kiện của sự tôn kính của người chồng đối với vợ. Sự vượt trội về địa vị xã hội của người chồng, đại diện cho động lực đầu tiên (xem Êph 5:23), hoàn toàn biến mất khỏi chân trời ở cuối cuộc tranh luận. Vì vậy, từ các bản văn Phaolô này, chúng ta phải ghi nhận cách Thánh Phaolô, không kể đến vai trò mỗi người phối ngẫu thủ diễn trong xã hội thời đó, đã tìm cách khuyến khích việc biến đổi tác phong của người chồng, người có địa vị xã hội trổi vượt. Ngoài ra, chủ đề phụ nữ phục tùng chồng không nên tách khỏi điều được trình bầy trong Êphêsô 5:21tt., trong đó, Thánh Phaolô quả quyết rằng mọi tín hữu phải “tùng phục lẫn nhau”.

Tuy nhiên, một khó khăn vẫn còn tồn tại. Thực sự có ích gì khi sử dụng mô hình giáo hội học và giáo hội, nếu chúng ta không đề cập đến việc: tình trạng thấp kém của phụ nữ là không thích đáng trong Giáo Hội, vì mọi tín hữu đều có phẩm giá như nhau, và đều chỉ có một Chúa, một Chúa duy nhất mà thôi? Người ta đã loại bỏ việc Thánh Phaolô có thể thỏa hiệp với các giá trị thế trần. Thực thế, ngài không đề xuất các mô hình xã hội mới, nhưng tuy không sửa đổi các mô hình thời ngài, ngài mời gọi việc nội tâm hóa các mối liên hệ và các quy tắc xã hội được coi là ổn định và bền vững đối với một thời kỳ nào đó – thế kỷ thứ nhất kỷ nguyên của chúng ta – để chúng có thể được sống phù hợp với Tin Mừng.

Do đó, rất nhiều thế kỷ sau đó, người ta có thể tiếc đối với việc Thánh Phaolô đã không nói rõ trong những lá thư này sự bình đẳng về địa vị xã hội của vợ chồng Kitô hữu. Cách làm của ngài có lẽ là cách duy nhất có thể có vào thời kỳ đó – nếu không, Kitô giáo có thể bị buộc tội phá hoại trật tự xã hội. Ngược lại, lời khuyên ngỏ với các ông chồng đã không mất đi tính thời sự hay sự thật của nó.

b. Sự im lặng của phụ nữ trong các cuộc hội họp của Giáo hội

133. 1 Cr 14:34-38 cũng làm dấy lên nhiều khó khăn, vì Thánh Phaolô yêu cầu phụ nữ im lặng trong các buổi hội họp: “Như thói quen trong mọi cộng đoàn dân thánh, phụ nữ phải làm thinh trong các buổi họp, vì họ không được phép lên tiếng; trái lại, họ phải sống phục tùng như chính Lề Luật dạy. Nếu họ muốn tìm hiểu điều gì, thì cứ về nhà hỏi chồng, bởi vì phụ nữ mà lên tiếng trong cộng đoàn thì không còn thể thống gì” (1 Cr 14:33-35). Những câu này dường như mâu thuẫn với 1 Cr 14:31 (“Mọi người có thể lần lượt nói tiên tri”) và 1 Cr 11: 5, trong đó có vấn đề những người phụ nữ nói tiên tri trong các cuộc hội họp. Các tuyên bố ở 1 Cr 14: 34-38 phải được bối cảnh hóa, nghĩa là, được giải thích trong tương quan với các câu trước đó, liên quan đến việc nói tiên tri. Thánh Phaolô chắc chắn không muốn nói rằng phụ nữ không được phép nói tiên tri (1 Cr 11:5), nhưng họ không nên tìm cách biện phân hoặc phán xét trong cộng đoàn (1 Cr 14:29) các lời tiên tri của chồng họ. Các nguyên tắc làm cơ sở cho một lệnh cấm như vậy là các nguyên tắc tôn trọng, hòa hợp giữa vợ chồng và trật tự tốt của cộng đoàn. Nếu những nguyên tắc này vẫn còn hiệu lực ngày nay, thì việc áp dụng chúng rõ ràng phụ thuộc vào địa vị dành cho phụ nữ trong các nền văn minh và văn hóa khác nhau. Thánh Phaolô không làm cho việc im lặng của phụ nữ trở thành một điều tuyệt đối, mà chỉ là một phương tiện thích ứng với tình huống cộng đoàn thời ngài. Ngày nay chúng ta không nên nhầm lẫn các nguyên tắc và ứng dụng của chúng, luôn được xác định bởi bối cảnh xã hội và văn hóa.

c. Vai trò của phụ nữ trong cộng đoàn

134. Cách mà 1Tm 2:11-15 biện minh cho địa vị thấp kém của phụ nữ, trong bối cảnh xã hội và giáo hội, xem ra ít có thể chống đỡ hơn, nếu nó được hiểu như một nguyên tắc tuyệt đối: “Khi nghe lời dạy dỗ, đàn bà phải thinh lặng và hết lòng phục tùng. Tôi không cho phép đàn bà giảng dạy, hay thống trị đàn ông, trái lại họ phải thinh lặng, vì A-đam được tạo dựng trước, rồi mới đến E-và. Cũng không phải A-đam đã bị dụ dỗ, nhưng là người đàn bà đã phạm tội, khi bị dụ dỗ. Tuy nhiên, người đàn bà sẽ được cứu nhờ sinh con cái, nếu kiên trì giữ đức tin, đức mến và sự thánh thiện, với lòng đơn sơ giản dị”. Bối cảnh một lần nữa là bối cảnh của một cộng đoàn giáo hội gồm đàn ông và đàn bà. Thánh Phaolô không yêu cầu phụ nữ im lặng, cũng không ngăn họ nói tiên tri. Việc cấm chỉ ảnh hưởng đến việc giảng dạy và các đặc sủng cai quản. Ý niệm ít nhiều giống hệt như đối với các trường hợp trên đây: vào thời kỳ đó, việc giảng dạy và cai quản chỉ được dành riêng cho nam giới và Thánh Phaolô mong muốn rằng trật tự xã hội này, lúc đó được coi là tự nhiên, được tôn trọng (xem 1 Cr 11:3: “thủ lãnh của người nữ là người nam”).

Vì vậy, không hẳn chính ý niệm đặt ra câu hỏi – vì, như đã nhận xét ở trên, nó phù hợp với nền văn hóa và xã hội thời đó – cho bằng cách nó được biện minh, nghĩa là, qua một cách giải thích có vấn đề về các trình thuật của St 2-3: thứ tự sáng tạo (đàn ông có địa vị cao hơn vì họ được tạo ra trước phụ nữ; St 2:18-24) và sự sa ngã của người phụ nữ ở vườn địa đàng. Cách đọc mà 1 Tm đề nghị về St 3 được thấy lại trong Huấn Ca 25:24, trong số các trước tác khác, như ngụy thư Do Thái Cuộc đời Ađam và Evà, hoặc trong Khải huyền của Môsê trong bản dịch tiếng Hy Lạp. Người phụ nữ đã để mình bị con rắn lừa dối, nàng đã phạm tội và phải chịu trách nhiệm về cái chết của cả loài người; đó là lý do tại sao bà phải cư xử cách khiêm tốn và không được ước muốn thống trị người đàn ông. Cách đọc này rõ ràng bị ảnh hưởng bởi cách thời ấy người ta hiểu và biện minh các địa tương ứng của đàn ông và đàn bà; hơn nữa, nó không tương thích với 1 Cr 15:21-22 và với Rm 5:12-21. Nó phản ảnh một tình huống giáo hội trong đó người ta cần những lập luận của thẩm quyền để trả lời những người phụ nữ phàn nàn rằng họ không thể thi hành trong cộng đoàn giáo hội các vai trò đã trích dẫn ở trên. Từ đó, việc giải thích St 2-3 được điều kiện hóa bởi bối cảnh thế kỷ đầu tiên trong kỷ nguyên của chúng ta. Tuy nhiên, một cách giải thích chính xác về một đoạn Kinh thánh – ở đây là St 2-3 – phải đưa ra ánh sáng và tôn trọng ý định của bản văn (intentio textus).

4. Kết luận

135. Lời khẳng định cho rằng Kinh thánh truyền đạt Lời Chúa xem ra bị một số đoạn văn nói ngược lại. Chúng ta đã xem xét hai loại bản văn: những trình thuật dường như không thể có thực và không thể hỗ trợ một cuộc điều tra khoa học lịch sử, và các bản văn không những đề xuất mà còn áp đặt các tác phong vô luân, mâu thuẫn với công bằng xã hội. Bây giờ chúng ta sẽ trình bày một bản tổng hợp ngắn gọn về các kết quả của chúng ta với khả năng giúp lên công thức cho một số quy tắc để đọc một cách thích đáng và hiểu đúng các bản văn Kinh thánh.

a. Tổng hợp ngắn gọn

Phân tích của bốn trình thuật trong Cựu Ước đã cho thấy: việc đọc nào chỉ lưu tâm đến các biến cố thực sự xẩy ra không thể nắm bắt được ý định hoặc nội dung của các bản văn này. Trong trường hợp của St 15 và Xh 14, các biến cố được kể lại không thể được xác nghiệm chính xác bởi khoa học lịch sử. Đối với các tác giả của những bản văn này, sự tồn tại hàng thế kỷ của dân tộc họ là một biến cố lịch sử, và niềm tin của họ vào Thiên Chúa có tính quyết định trong tình huống và kinh nghiệm của họ (trong thời gian lưu vong). Những câu truyện của họ chứng thực một thái độ căn bản vốn là niềm tin vô điều kiện vào Thiên Chúa và quyền năng cứu rỗi vô biên của Người. Trong trường hợp Tobia và Giôna, ta có thể nhận thấy những câu truyện không tường thuật các biến cố thực sự xẩy ra, tuy nhiên, chứa đầy một ý nghĩa xây dựng, giáo huấn và thần học.

Đối với các tường thuật của Tân Ước, xem ra sự lưu tâm đến các biến cố thực sự xẩy ra là điều không đủ, nhưng cần phải hết sức chú ý đến ý nghĩa của những gì được thuật lại. Trong các Tin mừng về thời thơ ấu, người ta không thể xác nghiệm về mặt lịch sử mọi chi tiết của câu truyện, nhưng việc thụ thai đồng trinh Chúa Giêsu rõ ràng được quả quyết. Các Tin mừng thời thơ ấu này dẫn nhập phần còn lại của câu truyện (của Mátthêu hoặc của Luca). Chúng trình bày những đặc điểm chính của con người và công trình của Chúa Giêsu. Các phép lạ (cử chỉ quyền năng, dấu lạ), về phần chúng, hiện diện trong mọi truyền thống thuật lại hoạt động của Chúa Giêsu. Ý nghĩa của chúng không chỉ nằm trong biến cố là những hành động phi thường. Trong các Tin Mừng nhất lãm, chúng làm chứng cho sự hiện diện cứu độ của Nước Thiên Chúa trong con người và công trình của Chúa Giêsu. Trong tin mừng Gioan, chúng tiết lộ mối tương quan kết hợp Chúa Giêsu với Thiên Chúa và dẫn đến đức tin vào Chúa Giêsu (xem thêm Mt 8:27; 14:33). Các câu truyện về Phục sinh, do biến cố chúng khác biệt, tự cho thấy chúng không phải là các biên niên sử đơn giản, nhưng kéo ta chú ý tới biến cố giá trị thần học trong các tình tiết của câu truyện.

Việc giải thích luật “tru diệt” và những lời cầu nguyện đòi trả thù đã giúp xác định rõ bối cảnh lịch sử và văn học của các bản văn này, giúp hiểu rõ hơn ý nghĩa và tính hữu dụng của chúng. Các điểm xác định rõ về địa vị phụ nữ trong các thư của Thánh Phaolô đã nhấn mạnh sự cần thiết phải phân biệt giữa các nguyên tắc chỉ đạo tác phong Kitô giáo và việc áp dụng chúng trong bối cảnh văn hóa và xã hội thời đó.

b. Hậu quả của việc đọc Kinh thánh

136. Thoạt nhìn, nhiều câu truyện trong Kinh thánh được trình bầy như những biên niên sử thuật lại các biến cố xẩy ra thực sự. Ấn tượng này có thể dẫn đến việc đọc Kinh thánh bằng cách thấy trong mỗi bài tường thuật việc nói lên một thực tại thực sự đã xảy ra. Cách đọc này xem ra cho phép truy cập, một cách đơn giản, ngay lập tức, nội dung của Kinh Thánh, một truy cập mở cho ra cho mọi người, với những kết quả rõ ràng và chắc chắn.

Trái lại, một việc đọc Kinh thánh có tính đến các ngành khoa học hiện đại (khoa chép sử, ngữ học, khảo cổ học, nhân học văn hóa, v.v.) làm cho sự hiểu biết về các bản văn Kinh thánh trở nên phức tạp hơn và xem ra sẽ dẫn đến kết quả ít chắc chắn hơn. Tuy nhiên, chúng ta không thể thoát khỏi các đòi hỏi của thời đại, cũng không thể giải thích các bản văn Kinh thánh bên ngoài bối cảnh lịch sử của chúng: chúng ta phải đọc chúng trong thời đại của chúng ta, với và vì những người đương thời của chúng ta. Hành trình được bước theo trong tài liệu này cho thấy việc tìm kiếm ý nghĩa của các bản văn, một tìm kiếm vượt quá mối lo lắng phải xác lập các biến cố thực sự đã xẩy ra, dẫn đến việc hiểu chúng một cách sâu sắc và công chính hơn. Nguy hiểm tồn tại – và phải tránh nó một cách cẩn thận – khi chỉ coi toàn bộ Kinh thánh như những phát minh, những ý niệm và niềm tin hoàn toàn nhân bản, vì các nhà chú giải vốn cho thấy những câu truyện trong Kinh thánh không chỉ là biên niên sử, những báo cáo đơn giản. Thiên Chúa tự mặc khải trong lịch sử và “nhiệm cục mặc khải của Người bao gồm các hành động và lời nói liên quan mật thiết với nhau” (Dei Verbum, 2). Mục đích của Kinh Thánh là truyền đạt các biến cố và lời nói này. Và một việc đọc Kinh Thánh nghiêm túc và chính đáng phải được chú ý đến những biến cố và những lời nói này.

Sự hiện diện của luật “tru diệt” và các bản văn tương tự biểu lộ một yếu tố quan trọng khác cho việc đọc Kinh thánh. Điều này phơi bày cùng một lúc lịch sử mặc khải của Thiên Chúa, và đồng thời, lịch sử nền “luân lý mặc khải”[2]. Cùng một cách như mặc khải Thiên Chúa, sự mặc khải tác phong chính đáng của con người đạt đến sự viên mãn của nó trong Chúa Giêsu. Chúng ta không tìm thấy trong mỗi đoạn Kinh thánh, sự mặc khải trọn vẹn của Thiên Chúa thế nào, thì chúng ta cũng không tìm thấy ở đó sự mặc khải hoàn hảo về luân lý như vậy. Do đó, mỗi đoạn Kinh thánh không được cô lập hay tuyệt đối hóa, nhưng phải được hiểu và đánh giá theo mối tương quan của nó với sự viên mãn của mặc khải trong con người và trong công trình của Chúa Giêsu, trong khuôn khổ một việc đọc hợp qui điển Thánh Kinh. Cái đọc này là điều cần thiết đối với sự hiểu biết đầy đủ từng bản văn. Do đó con đường do mặc khải hoàn thành được biểu lộ, trong lịch sử của nó.

Cuối cùng, điều căn bản là người đọc Sách Thánh nên được hướng dẫn hướng tới việc khám phá ra những gì được nói về Thiên Chúa và sự cứu rỗi của con người. Khi làm như vậy, ngay cả khi không luôn luôn đạt được một sự hiểu biết hoàn hảo về bản văn mà họ đọc, tuy nhiên, họ vẫn sẽ tiến bộ trong việc hiểu biết sự thật của Kinh Thánh, và trong sự khôn ngoan thiêng liêng vốn là con đường hiệp thông trọn vẹn với Chúa.

[nextpage title=”KẾT LUẬN CHUNG”]

KẾT LUẬN CHUNG

Giáo Hội Công Giáo, trong một tuyên bố long trọng và có tính quy phạm (tại Công Đồng Chung Triđentinô, EB 58-60), đã ấn định qui điển các sách thánh, do đó xác định các tiêu chuẩn căn bản cho đức tin của mình. Giáo Hội do đó giải thích những bản văn nào phải được coi “là soạn thảo dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần” (Dei Verbum, n. 11), và do đó cần thiết cho việc đào tạo và xây dựng các tín hữu và toàn bộ cộng đồng Kitô hữu (2 Tm 3:15-16). Nếu, một mặt, Giáo Hội hoàn toàn ý thức được rằng những trước tác được soạn thảo bởi các tác giả phàm nhân, những người đã đánh dấu chúng bằng tài năng văn chương của riêng mình, thì mặt khác, người ta cũng nhìn nhận trong chúng một phẩm chất thần thiêng hoàn toàn chuyên biệt, được chứng thực nhiều cách khác nhau bởi chính các bản văn thánh, và được giải thích nhiều cách đa dạng bởi các nhà thần học, trong suốt lịch sử.

Nhiệm vụ của Ủy ban Kinh Thánh, được mời phát biểu về chủ đề này, không hệ ở việc cung cấp một học thuyết về linh hứng, một học thuyết có thể cạnh tranh với những gì thường được trình bầy trong các khảo luận của thần học hệ thống. Với sự trợ giúp của tài liệu này, Ủy Ban tìm cách chứng minh chính Kinh thánh đã chứng minh ra sao nguồn phát xuất thần thiêng của chứng từ của nó, do đó, là người mang và truyền đạt sự thật của Thiên Chúa. Vì vậy, chúng ta định vị mình trong bối cảnh đức tin, khi chấp nhận điều Giáo Hội đã giao phó cho chúng ta như là Lời của Thiên Chúa, và, khởi đi từ Lời này, cố gắng đạt cho được các yếu tố của một sự thấu hiểu giúp chúng ta tiếp nhận thành công hơn di sản thần thiêng này.

Kinh Thánh tạo nên một tổng thể thống nhất, vì tất cả các cuốn sách, “với mọi phần của chúng” (Dei Verbum, n. 11) đều là các bản văn được linh hứng, có chính Thiên Chúa “là tác giả” (ibid ..). Tuy nhiên, dù thừa nhận rằng mọi lời của bản văn thánh đều có thể được coi là Lời của Thiên Chúa, trong gắn bó chặt chẽ với mọi lời khác, Giáo hội vẫn luôn nhìn nhận khía cạnh đa dạng của chúng, một khía cạnh xem ra mâu thuẫn với sự quả quyết về nguồn gốc thần thiêng duy nhất của chúng.

Sự phân biệt giữa Cựu Ước và Tân Ước là biểu hiện rõ ràng nhất của tính đa dạng Kinh Thánh. Trong các vương cung thánh đường Kitô Giáo cổ xưa, hai đài giảng kinh (ambons) đã được sắp xếp để đọc các bản văn thánh, với mục đích làm nổi bật sự khác biệt và sự bổ sung của hai giao ước, cả hai đều cần thiết để chứng thực biến cố mặc khải độc đáo dứt khoát, tức mầu nhiệm Chúa Kitô. Đó là lý do tại sao, trong tài liệu này, chúng ta tôn trọng bản chất riêng của mỗi phần cấu thành Kinh thánh, bằng cách làm rõ cách thức mà sự đa dạng của chúng không những không gây trở ngại, mà còn làm phong phú thêm chứng từ trung thực của Ngôi Lời duy nhất của Thiên Chúa.

Tuy nhiên, bên trong hai phần chính của Kinh thánh, sự đa dạng về thể văn, các phạm trù thần học, các cách tiếp cận nhân học và xã hội học đặc biệt hiển nhiên. Thiên Chúa thực sự đã nói “nhiều cách” (Dt 1:1), không những thời xưa, mà cả sau khi Chúa Con đã đến, Đấng đã mạc khải trọn vẹn Chúa Cha (xem Ga 1:18). Do đó, trong Tài liệu này, điều xem ra cần thiết là phải đưa ra ánh sáng, bằng các thí dụ được chọn lọc, sự phong phú của các biểu thức này, tất cả đều được lên sinh khí từ cùng một sự chắc chắn sẽ nói lên sự thật của Thiên Chúa.

1. Nguồn gốc thần thiêng của các trước tác Kinh thánh

140. Cộng đồng đức tin sống nhờ một truyền thống: nó được thành lập và xây dựng bằng việc lắng nghe Lời Chúa, được viết ra trong những cuốn sách, được lưu truyền như những sách quy phạm, vì mang trong chính chúng dấu ấn thế giá riêng của chúng.

Dấu ấn ấy trước hết được bảo đảm bởi thế giá của các tác giả của chúng, những người, theo một truyền thống cổ xưa và đáng kính, vốn được công nhận như các sứ giả của Thiên Chúa, và được ân ban đặc sủng linh hứng. Do đó, trong nhiều thế kỷ, và cho đến tận thời hiện đại, tư cách làm cha về văn chương của Ngũ kinh, vốn được gán cho Môsê, không bị đặt câu hỏi, cả tư cách làm cha của những cuốn sách tiên tri và khôn ngoan khác, những cuốn, khi không có tựa đề chuyên biệt, vốn được gán cho các tác giả nổi tiếng (như Đavít, Salômôn, Giêrêmia). Cách tiếp nhận các sách kiểu truyền thống này cũng có giá trị đối với các trước tác Tân Ước, tất cả đều được coi như phát xuất từ đoàn Tông đồ. Ngày nay, nhờ các cuộc nghiên cứu đồng qui được thực hiện bằng các phương pháp văn học và sử học, chúng ta không thể duy trì cùng một quan điểm như trong quá khứ. Thật vậy, khoa giải thích đã chứng minh, với những lập luận thuyết phục, rằng các cuốn sách khác nhau không chuyên nhất phát xuất từ các tác giả được nhắc đến trong tựa đề của chúng, hoặc được truyền thống thừa nhận như thế. Trái lại, lịch sử văn học của Kinh Thánh giả thiết nhiều can thiệp khác nhau, và do đó, sự hợp tác của nhiều tác giả khác nhau, mà nhiều người trong số này ẩn danh, trong một lịch sử soạn thảo rất dài và soạn tới soạn lui. Các nhận xét khác nhau liên quan đến một mô hình cho phép giải thích nguồn gốc của các trước tác thánh không đối lập trực diện với quan niệm truyền thống, đôi khi bị coi quá nhanh là chủ nghĩa giải thích giản đơn (simplisme herméneutique). Trong thực tế, Giáo hội, nhờ công biện phân đòi hỏi khắt khe và kiên nhẫn, kéo dài nhiều thế kỷ, luôn cho rằng mình có thể tiếp nhận như là linh hứng các trước tác vốn phù hợp với kho tàng đức tin được bảo tồn vững chắc và trung thành bởi cộng đồng tín hữu, được bảo đảm bởi những người mà Thiên Chúa đã thiết lập như các mục tử và hướng dẫn viên của các tín hữu. Chúa Thánh Thần, luôn làm việc trong Giáo hội, bằng sức mạnh và sự hiểu biết của riêng Người, đã cho phép khả thể tách biệt những gì là thông đạt thần thiêng đích thực khỏi những biểu thức dối trá và không có nền tảng đầy đủ. Do đó, có khả thể các bản văn được gán cho những người được linh hứng đã bị bác bỏ, trong khi các trước tác, mặc dù không thể được quy cho một tác giả có tiếng một cách chắc chắn, thì lại được tiếp nhận một cách tôn kính, mang dấu ấn linh hứng một cách không thể chối cãi. Ý thức rõ sự thật mặc khải, Giáo hội đã tự đặt mình vào thế vâng phục và thừa nhận đối với Lời Chúa mà mình vốn sống bằng.

Hòa hợp với Lời

141. Giáo hội đặt nền móng cho toàn bộ việc biện phân của mình trên kinh nghiệm sống của Chúa Giêsu, nhận được qua lời của các nhân chứng từng biết Người, và nhìn nhận nơi Người sự nên trọn của Mặc Khải. Khởi đi từ những gì các Tông đồ và các tác giả Tin Mừng đã công bố, Qui điển các sách thánh dần dần được xác lập và Giáo hội đã xem các phát biểu đa dạng của chúng là đúng và chân chính, theo mức chúng phù hợp với chứng từ của Con Thiên Chúa. Không phải vì Người tự cao coi mình là Lời Thiên Chúa mà một trước tác đặc thù cụ thể đã được duy trì để được đọc trong cộng đồng phụng vụ như là nền tảng của đức tin, nhưng đúng hơn, vì nó “đồng âm” (consonance), có thể nói như thế, với Ngôi Lời, và trình bầy một giải thích đáng lưu ý về chính Ngôi Lời. Chính “sự đồng âm” với Ngôi Lời này, vượt quá sự đa dạng của cách diễn đạt và tính đa nguyên của thần học, mà các trang của tài liệu này đã tìm cách minh họa, bằng cách đưa ra ánh sáng các hình thức “tự chứng” (autotémoignage) khác nhau do các sách khác nhau của Kinh thánh mang lại.

Việc đồng âm này không tự giới hạn ở sự hội tụ tổng quát xung quanh các tín lý căn bản. Nếu chúng ta bám vào nó, chúng ta sẽ không tôn trọng tính đa dạng của các quan điểm, tính bổ sung của những đóng góp của các trước tác khác nhau, lịch sử văn học của những cuốn sách ra đời tiếp theo việc đồng hóa và lên công thức lại các truyền thống xưa. Như lời chứng thực của Chúa Giêsu, nhà trước tác thánh, từ kho báu của mình, rút ra cái mới và cái cũ (xem Mt 13:52). Điều này có nghĩa là các trước tác được Giáo hội công nhận là linh hứng tự nhận nguồn gốc thần thiêng của mình một cách ít nhiều minh nhiên, và cũng cho thấy tính chân chính của các trước tác có trước chúng. Các Tiên tri củng cố bộ Tôra, và các trước tác khôn ngoan nhìn nhận nguồn gốc thần thiêng của Lề Luật Tiên tri. Cùng cách này, chứng từ của Chúa Giêsu thánh hiến trọn truyền thống thành văn của người Do Thái, và các trước tác của Tân Ước tự củng cố lẫn nhau, bằng cách giả định một cách triệt để và ăn khớp với mọi truyền thống của “Sách Thánh” xưa.

Tính đa nguyên của các phương thức chứng thực

Khái niệm trên tạo nên một trong những kết quả chính của việc phân tích các sách của Cựu Ước và Tân Ước được thực hiện trong Tài liệu này. Ngoài việc đồng qui mà nó vừa trở thành vấn đề, tính đa nguyên (la pluralité) trong các kinh nghiệm tôn giáo và phương thức phát biểu nhằm truyền tải chúng là một điều hiển nhiên. Ở đây, không thể nói lại một cách chi tiết và thấu đáo cách các tác giả Kinh Thánh khác nhau chứng thực nguồn gốc thần thiêng phát sinh ra các trước tác của họ. Chỉ cần trích dẫn các phương thức khác nhau, với những điểm nhấn khác nhau, tìm thấy trong các sách khác nhau của Kinh Thánh.

Mô hình chính của việc tự chứng thực là mô thức được tìm thấy trong các câu truyện nói về ơn gọi làm tiên tri, và trong các công thức khác nhau nhấn mạnh đến các trang của các trước tác tiên tri. Thực tại linh hứng được chính thức giải thích ở đó, được phát biểu như ý thức thâm hậu của một số người tuyên bố mình có khả năng hiểu lời lẽ của Thiên Chúa và có nhiệm vụ truyền tải chúng một cách trung thành. Mô hình này, do sức mạnh gợi ý của nó, được các tác giả thánh khác của truyền thống lập pháp (để mô tả Môsê), khôn ngoan (đại diện là Salômôn) hoặc khải huyền (đại diện là Đanien), để xây dựng một loại tính độc dạng (uniformité) toàn diện, một loại con dấu bảo đảm, xác nhận với độc giả phẩm chất của một trước tác mà người ta đã truy nguyên từ một nguồn thần thiêng duy nhất.

143. Nói một cách khá chung chung hơn, Kinh Thánh cũng nhấn mạnh tới sự tham gia của các cộng tác viên của người được linh hứng, vốn được ân ban kỹ năng văn chương và độ tin cậy cao, các cộng tác viên không những chỉ giúp đỡ các tác giả chính mà còn thu thập tài liệu văn chương mới, thích ứng các tiền lệ với các yêu cầu mới của người đọc. Họ thực hiện, từ thế hệ này qua thế hệ khác, một công việc soạn tác đầy ấn tượng, có tầm quan trọng quyết định đối với phẩm chất của bản văn Kinh thánh. Đặc sủng tiên tri chắc chắn hành động trong các nhà soạn tác ẩn danh này, những người gián tiếp chứng thực rằng họ ý thức được việc truyền tải Lời Chúa, trong chính hành động truyền tải bản văn mà họ ghi dấu bằng sự đóng góp của chính họ.

Những người nghiên cứu Kinh Thánh đã hợp lý đưa ra giả thuyết về sự hiện hữu của các trào lưu, trường phái và các nhóm tôn giáo, cả trong việc bảo tồn, một cách sinh tử, các truyền thống văn chương được coi là thánh thiêng, những truyền thống sau đó đã được kết hợp trong khuôn khổ chung của Sách thánh – điều này giúp nhấn mạnh tới tính hữu dụng trong việc làm sáng tỏ lịch sử soạn thảo các bản văn Kinh thánh -, một cách không thể cũng không nên gán một giá trị khác hoặc một thế giá riêng biệt đối với điều vốn “nguyên khởi” so với điều vốn chỉ có bản chất đệ nhị đẳng.

Thật vậy, trong nhiều trường hợp, chúng ta không có được ipsissima verba (chính lời mói) của một nhà tiên tri (được Thiên Chúa linh hứng), mà là qua lời kể lại của các môn đệ vị này. Một cách khá điển hình, đây là trường hợp các sách Tin mừng, mà sự linh hứng không bị ai bàn cãi. Trong loại trước tác này, tác giả (nghĩa là tin mừng gia) tự trình bầy mình như nhân chứng trung thành của Thầy Chí Thánh, và trong một số trường hợp, như môn đệ của các môn đệ đầu tiên (bản thân không được đề cập trong danh sách các tông đồ).

Khởi từ các nhận xét này, và từ những gì Kinh thánh nói về chính nó, ta có thể quả quyết rằng cần phải chấp nhận một định nghĩa rộng hơn và nhiều sắc thái hơn về khái niệm linh hứng. Không theo nghĩa: trong bản văn thánh, có những phần có giá trị kém và vô giá trị, mà đúng hơn, theo nghĩa: đặc sủng linh hứng được phân phối cách khác nhau. Dù sao, điều phù hợp là chúng ta nên ngoan ngoãn lưu ý đến những điều rõ ràng tạo nên chứng từ của Chúa Kitô và thông điệp cứu rỗi hoàn hảo của Người.

Viễn cảnh vừa được xác định không làm giảm việc gắn bó tin vào Lời Thiên Chúa. Trái lại, nó cổ vũ một cái hiểu sâu sắc hơn, vì nó tôn kính sự mặc khải của Thiên Chúa trong lịch sử, và vì nó tôn vinh Chúa Thánh Thần, Đấng vốn nói qua các tiên tri (xem Gcr 7:12; Nkm 9:30) trong suốt nhiều thế kỷ của lịch sử cứu độ. Đàng khác, nó cũng giúp hiểu rõ hơn việc Thần Trí này không bao giờ ngừng hoạt động sau cái chết của các Tông đồ, vì Thần Trí này đã được ban cho Giáo hội theo nghĩa Giáo Hội có thể biện phân và tiếp nhận các linh hứng. Ngày nay, Thần Trí này đang hoạt động trong việc lắng nghe Lời của Thiên Chúa một cách “tôn giáo” (Dei Verbum, 12), vì Kinh thánh – theo cách diễn đạt của Dei Verbum, n. 12 – phải “được đọc và giải thích dưới ánh sáng của cùng một Thần Trí như Thần Trí đã khiến nó được soạn tác”. Lời linh hứng sẽ không có ích chi nếu người nhận được nó không sống theo Thần Trí, Đấng đã biết biện phân và nếm được nguồn gốc thần thiêng của trang sách Kinh thánh.

2. Sự thật của Kinh thánh

144. Phát xuát từ Thiên Chúa, Kinh thánh có những phẩm chất thần thiêng. Trong số này, phẩm chất nền tảng, tức làm chứng cho sự thật, được hiểu không phải như một tổng số các thông tin chính xác về các khía cạnh khác nhau của kiến thức con người, mà như một mặc khải về chính Thiên Chúa và về kế hoạch cứu rỗi của Người. Thực thế, Kinh thánh làm người ta biết mầu nhiệm tình yêu của Chúa Cha, được biểu lộ trong Ngôi Lời trở thành thân xác, Đấng, qua Chúa Thánh Thần, dẫn con người đến sự hiệp thông hoàn hảo với Thiên Chúa (xem Dei Verbum, 2).

Theo cách đó, điều xem ra rõ ràng là sự thật của Kinh thánh lấy sự cứu rỗi các tín hữu làm viễn cảnh. Những phản bác – được nêu ra trong quá khứ, và vẫn còn tái diễn ngày nay – đối với các điều không chính xác, các mâu thuẫn về địa dư, lịch sử, khoa học, khá phổ biến trong Kinh Thánh, những phản bác có cao vọng nghi vấn tính đáng tin cậy của bản văn thánh và do đó, nguồn gốc thần thiêng của nó, đã bị Giáo hội bác bỏ với lời quả quyết rằng “các sách Kinh thánh dạy cách vững chắc, trung thành và không sai lầm sự thật mà Thiên Chúa muốn thấy được ghi lại trong các chữ thánh vì sự cứu rỗi của chúng ta” ( Dei Verbum, 11). Chính sự thật này mang lại ý nghĩa trọn vẹn cho nhân sinh và là sự thật đượcThiên Chúa muốn làm cho mọi người biết đến.

Tài liệu này chia sẻ quan điểm giải thích này. Sự đóng góp của nó, chỉ đổi mới một phần, hệ ở việc, nhờ một diễn trình được vạch ra từ các bản văn được lựa chọn của các sách Kinh thánh và các cách diễn đạt văn học khác nhau, cho thấy sự thật mà Thiên Chúa muốn tiết lộ cho thế giới qua trung gian các tôi tớ của Người, tức các tác giả thánh, đã được trình bày ra sao.

Một sự thật đa dạng

145. Đặc điểm đầu tiên của sự thật Kinh Thánh hệ ở sự kiện nó được phát biểu dưới nhiều hình thức và phương thức khác nhau (xem Dt 1: 1). Sau khi được truyền tải bởi nhiều người, vào những thời điểm khác nhau, từ trong nội tại, nó mang theo một khía cạnh đa dạng, cả trong các khẳng định về tín lý và luân lý, lẫn trong các phát biểu văn chương. Do đó, các tác giả của bản văn thánh trình bày, trong thời kỳ lịch sử của họ và phù hợp với ơn phúc của Thiên Chúa, những gì họ đã được trao cho để hiểu và truyền tải. Những gì được Chúa nói trong một đoạn đặc thù thì sau đó đã được nối kết với các mặc khải gần đây hơn của Thiên Chúa. Ngoài ra, sự thật Kinh Thánh mặc lấy rất nhiều thể văn đa dạng. Do sự kiện này, nó không chỉ bao gồm các mệnh đề quan trọng theo quan điểm tín điều, mà nó còn bao gồm cả sự thật đặc điểm hóa một câu truyện, một quy định lập pháp, một lời nói, sự thật của một lời cầu nguyện hoặc sự thật của một bài thơ tình, chẳng hạn như Diễm Ca, sự thật của các trang phê phán trong sách Gióp và Giảng Viên, sự thật của các sách khải huyền. Hơn nữa, ở bên trong cùng các thể văn này, người ta có thể thấy sự đa dạng về quan điểm, xem như là quy luật chứ không phải chỉ là sự lặp lại đơn giản các biểu thức đồng quy.

Sự đa dạng về hình thức biểu lộ chân lý này không chỉ liên quan đến nền văn chương của Cựu Ước, mà nó còn áp dụng cho sự mặc khải được chứng thực bởi Tân Ước, nơi chúng ta tìm thấy những câu truyện và diễn ngôn, không phải chồng lên nhau, và là nơi chúng ta nhận thấy các dị biệt đáng kể trong việc trình bày thông điệp. Thực thế, có bốn Tin Mừng và Giáo hội đã bác bỏ như không thích đáng bất cứ nỗ lực nào nhằm làm chúng phù hợp với nhau (concordist): thí dụ, những gì được viết “theo Luca”, đã được tôn trọng và tiếp nhận, ngay cả khi nó không có sự tương ứng chính xác nào với những gì Tin mừng Máccô hoặc Tin mừng Gioan viết. Hơn nữa, trong khi trong Tin mừng, sứ điệp chủ yếu dựa trên cuộc đời của Chúa Giêsu và các lời nói của Người, thì đối với Thánh Phaolô, sự thật của Chúa Kitô bắt nguồn gần như duy nhất trong sự chết và sự phục sinh của Người. Hoặc, sự khác nhau trong cách diễn đạt giữa thư gửi cho người Rôma và thư của Thánh Giacôbê dường như là một mô hình về tính đa nguyên qua đó Kinh thánh làm chứng cho sự thật duy nhất về Thiên Chúa.

Tính đa âm trong các tiếng nói thánh này được cung cấp cho Giáo hội làm mô hình, để ngày nay, Giáo hội có thể chứng minh cùng một khả năng liên hợp tính thống nhất của sứ điệp cần truyền đến con người và sự tôn trọng cần thiết đối với tính đa nguyên của các kinh nghiệm cá thể, các nền văn hóa và ơn phúc dư ban của Thiên Chúa.

Sự thật được phát biểu dưới hình thức lịch sử

146. Đặc điểm quan trọng thứ hai của sự thật Kinh Thánh hệ ở sự kiện nó được phát biểu dưới hình thức lịch sử. Một số sách của Kinh thánh mang dấu chỉ thời kỳ chúng được viết ra; trong các trường hợp khác, các khoa giải thích có thể đặt chúng một cách có cơ sở vào các thời điểm chính xác trong lịch sử. Thời kỳ được bao trùm bởi văn chương Kinh Thánh hết sức mênh mông, vì nó vượt quá một thiên niên kỷ. Di sản các quan niệm được truyền tải bởi một thời kỳ đặc thù, các ý kiến phát xuất từ kinh nghiệm hoặc các mối quan tâm đặc trưng của một thời kỳ nhất định trong cuộc sống của dân Chúa nhất thiết được phát biểu trong đó. Công việc do các nhà biên tập thực hiện, tìm cách mang đến một sự gắn bó tín lý và thực hành cho bản văn thánh, đã không làm mất các dấu vết của lịch sử, từ đó có các do dự và bất toàn của nó, bất kể trong lĩnh vực thần học hay trong lãh vực nhân học. Do dó, nhiệm vụ của người giải thích hệ ở việc tránh lối đọc Kinh thánh một cách cực đoan (fondamentaliste), và phải định vị các khẳng định khác nhau của bản văn thánh trong bối cảnh lịch sử của chúng, theo các thể văn đang được sử dụng thời đó. Thật vậy, chính nhờ tiếp đón hình thức mặc khải thần thiêng có tính lịch sử này mà chúng ta được dẫn tới mầu nhiệm Chúa Kitô, một biểu hiện đầy đủ và dứt khoát của sự thật Thiên Chúa trong lịch sử con người.

Sự thật qui điển

147. Mặt khác, việc giải thích Kinh Thánh theo quan điểm Công Giáo, dẫn đến việc chấp nhận chân lý Thiên Chúa trong bối cảnh Mặc Khải, với tính toàn diện của nó, được chứng thực như qui điển Kinh thánh. Điều này có nghĩa là chân lý mặc khải không thể bị giới hạn vào một phần của gia tài thánh (bằng cách bác bỏ, thí dụ, Cựu Ước để nhấn mạnh Tân Ước), cũng không bị giới hạn vào một cái nhân đồng nhất, mà loại bỏ phần còn lại hoặc tương đối hóa nó, coi như không đáng kể. Không những, tất cả những gì được linh hứng đều cần thiết đối với sự mặc khải trọn vẹn của Thiên Chúa, mà tất cả các phần đều được đọc trong tương quan với các phần khác, theo một nguyên tắc hòa hợp, một hòa hợp không nên bị nhầm lẫn với sự độc dạng, mà đúng hơn là sự hội tụ tốt đẹp của những gì đa dạng.

Tuy nhiên, theo quan điểm Kitô giáo, điều xem ra rõ ràng là sự thật của bản văn Kinh thánh trùng hợp với chứng từ về Chúa Giêsu, “Đấng trung gian và là sự viên mãn của mọi Mặc Khải” (Dei Verbum, 2), Đấng vốn tự định nghĩa là “đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14:6). Đặc tính trung tâm và chủ yếu này của mầu nhiệm Chúa Kitô không mâu thuẫn với sự kiện này: các truyền thống xưa cũng nói về Người và sự cứu rỗi dứt khoát được thực hiện trong cái chết và sự phục sinh của Người, như chính Người đã khẳng định (x. Ga 5:39). Trong mầu nhiệm vô cùng của Người, Chúa Kitô là trung tâm chiếu sáng trọn bộ Kinh thánh.

Truyền thống văn chương của các tôn giáo khác

148. Trong một tổng quan ngắn gọn, chúng ta sẽ gợi lên và tìm cách hiểu, trong đoạn này, mối tương quan giữa Kinh thánh và các truyền thống văn chương của các tôn giáo khác. Vấn đề này có tính thời sự cấp bách đối với cuộc đối thoại liên tôn. Giải đáp nó không hề dễ dàng, vì nó phải kết hợp nguyên tắc không thể miễn chước là “tính duy nhất và tính phổ quát cứu độ của Chúa Giêsu Kitô và của Giáo hội” (như đã nêu trong tiêu đề của Tuyên ngôn “Dominus Iesus” của Thánh bộ Giáo lý Đức tin), và mặt khác, việc đánh giá đúng đắn đối với kho tàng tinh thần của các tôn giáo khác. Tài liệu này không nêu chi tiết các yếu tố mà, khởi từ chính Kinh thánh, có thể được trao cho nghiên cứu thần học và mục vụ của Giáo hội. Ở đây, chỉ cần gợi lại hình ảnh Balaam (xem Ds 22-24), để chứng tỏ rằng lời tiên tri (được linh hứng) không phải là đặc ân độc quyền của dân Chúa, và để nhớ lại rằng Thánh Phaolô, trong diễn từ của ngài ở đồi Areopagus, đã dựa vào trực giác của các nhà thơ và triết gia Hy Lạp ra sao (xem Cv 17:28). Mặt khác, đa số chấp nhận rằng văn chương Cựu Ước chủ yếu phụ thuộc phần lớn vào những gì đã được viết ở Lưỡng Hà và Ai Cập, giống như các sách Tân Ước phần lớn cũng rút tỉa từ di sản văn hóa của thế giới Hy Lạp. Các semina Verbi (hạt giống Lời Chúa) được lan truyền khắp thế giới và không thể bị giới hạn trong bản văn duy nhất của Kinh thánh. Giáo hội đã định nghĩa điều Giáo Hội coi là được linh hứng, nhưng chưa bao giờ nói tiêu cực về phần còn lại của nền văn hóa. Tuy nhiên, chính Lời của Thiên Chúa được ghi lại trong Kinh thánh qui điển, và đặc biệt trong phần làm chứng trực tiếp cho Ngôi Lời nhập thể, tạo nên nguyên tắc biện phân sự thật của mọi cách phát biểu tôn giáo khác, dù ở trong Giáo Hội, hay trong các truyền thống tôn giáo khác nhau của các dân tộc khác nhau trên trái đất.

Từ nhận xét cuối cùng trên, ta thấy Giáo hội phải tự đặt mình bên trong một vòng giải thích. Từ việc lắng nghe lời Kinh thánh, Giáo hội rút ra các nguyên tắc cho đức tin của mình và, khi được đức tin này soi sáng, Giáo Hội hiện có và mãi có khả năng giải thích chính xác những gì mình đọc như là sách thánh của mình, và đồng thời biện phân được giá trị của tất cả những lời chứng thực khác vốn đòi được lắng nghe. Chính Chúa Thánh Thần, với đặc điểm là nguyên lý của sự thật, đã khởi động diễn trình đức tin, và đưa nó đến chỗ nên trọn của nó, bằng cách cởi mở hoàn toàn đối với sự biểu lộ của Thiên Chúa trong lịch sử.

3. Việc giải thích các trang khó hiểu của Kinh thánh

149. Đó là lý do tại sao Giáo hội, thân thể sống động của các độc giả tín hữu, người giải thích bản văn linh hứng được ủy quyền, có sứ mệnh làm trung gian tiếp nhận và công bố sự thật của Sách Thánh ở từng thời đại của lịch sử, và cả ngày nay nữa. Vì Giáo hội đã nhận được Chúa Thánh Thần, nên Giáo Hội thực sự là ” cột trụ và điểm tựa của chân lý” (1 Tim 3:15), bao lâu Giáo Hội trung thành truyền tải cho thế giới Lời đã tạo nên mình. Nhiệm vụ của Giáo Hội hệ ở việc loan báo Lời này một cách chắc chắn (parresia), Lời vốn tuyên bố Chúa Giêsu Kitô là Cứu Chúa duy nhất và dứt khoát. Nhưng, trong vai trò quan trọng của mình, Giáo hội cũng phải giúp các tín hữu và những người đang tìm kiếm sự thật giải thích các bản văn Kinh thánh một cách chính xác, nhờ một phương pháp thích nghi và một tư thế giải thích thích đáng. Về vấn đề này, Tài liệu Giải Thích Kinh Thánh Trong Giáo Hội năm 1993 của Ủy ban Giáo hoàng về Kinh thánh tỏ ra đặc biệt hữu ích.

Lâu nay, các dè dặt liên quan tới truyền thống Kinh Thánh đã xuất hiện, vì một số trang và một số trào lưu văn chương của nó xem ra không thể chấp nhận được đối với tâm trí đương thời, do sự kiện các quan niệm về công lý dường như lỗi thời, các phong tục và thực tiễn pháp lý gây tranh cãi, và thậm chí đáng trách, cuối cùng do sự kiện có những câu chuyện dường như không có nền tảng lịch sử. Thành thử bản văn thánh phần nào mất uy tín, người ta phần nào không tin tưởng tính hữu ích mục vụ của nó, đến độ trực tiếp nghi vấn tính linh hứng của một số phần trong Kinh Thánh, và do đó tư thế sự thật của chúng. Trong trường hợp này, điều không đủ là quả quyết một cách chung chung rằng trong Cựu Ước có “sự không hoàn hảo và lỗi thời” (Dei Verbum, 15), hoặc nhắc nhở rằng các tác giả Tân Ước, cả họ nữa, cũng chịu ảnh hưởng của thời đại họ. Nếu việc nhấn mạnh tới khái niệm nhập thể là điều chính đáng và áp dụng nó một cách loại suy vào việc đặt bút viết ra mặc khải, thì điều thích hợp không kém là chứng tỏ rằng, ở giữa sự yếu đuối như thế của con người, vinh quang của Lời thần thiêng vẫn đã tỏa sáng. Cũng sẽ không đủ, khi vì một ưu tư mục vụ khôn ngoan, ta loại bỏ các đoạn văn có vấn đề ra khỏi việc đọc công khai trong các cộng đoàn phụng vụ. Người biết tính toàn vẹn của bản văn có thể cảm thấy một cách chính đáng đó là một việc làm nghèo nàn di sản thánh thiêng và có thể trách cứ các mục tử vì đã che giấu bất chính các khía cạnh khó hiểu của Kinh thánh.

Giáo hội không được miễn trừ nhiệm vụ khiêm nhường và kiên nhẫn phải giải thích một cách tôn kính toàn bộ truyền thống văn chương đã được định nghĩa như được linh hứng, và do đó tạo thành một biểu thức của sự thật Thiên Chúa. Để giải thích, trước hết cần có các nguyên tắc rõ ràng, giúp ta hiểu rằng ý nghĩa của những gì đã được truyền tải không y hệt như “chữ viết” của bản văn. Mặt khác, cần phải tiến hành một cách chính xác, và lần lượt đề cập tới các khó khăn cần phải làm sáng tỏ, cũng như phải nhắc nhở bổn phận của mọi tín hữu sở đắc Lời Chúa, theo ơn hiểu biết mà Chúa Thánh Thần vốn phân phát cho mỗi thời kỳ của lịch sử.

Đó là lý do tại sao Tài liệu này của Ủy ban Giáo hoàng về Kinh thánh đã chọn những vấn đề chính đặt ra cho người đọc, và đã gợi ý những đường hướng giúp giải đáp chúng, trong khuôn khổ đức tin của chúng ta. Sự ngắn gọn của những gì đã được trình bày có thể không phải lúc nào cũng có vẻ thỏa đáng, nhưng các nguyên tắc diễn giải được trình bầy ở đây xem ra hữu ích, cả các giải thích được cung cấp để trả lời các câu hỏi chuyên biệt cũng thế. Thay vì là một cuộc khảo sát dứt khoát và thấu đáo các đoạn khó hiểu của bản văn thánh, Tài liệu này trình bầy một diễn trình giải thích nhằm kích thích một suy tư sau này, trong cuộc đối thoại với các nhà giải thích bản văn thánh khác. Trong nỗ lực tìm kiếm chung này, con đường dẫn đến sự thật sẽ tự cho thấy nó khiêm nhường và khiêm tốn, nhưng đồng thời soi sáng, bao lâu nó còn là dấu ấn của việc lắng nghe cùng một Chúa Thánh Thần.


  1. “Ta Hằng Hữu” là dịch cụm từ “Je suis” (tiếng Pháp), “Ego Sum” (tiếng La Tinh) rất chỉnh trong lời Thiên Chúa nói với Môsê về danh tính của Người (Xh 3:14). Nhưng trong những kiểu nói khác, tiếng Việt phải dịch động từ “être” (Je suis, il est là “là”) như trong các kiểu trích trong đoạn này.

  2. Xem Commission Biblique Pontificale, Bible et Morale, Cité du Vatican, 2008, số 4.

Series Navigation<< LINH HỨNG VÀ CHÂN LÝ THÁNH KINH