Quang Minh – Nguồn: trithucvn.org
“Et in Arcadia ego” là một bức tranh của Nicolas Poussin, người được mệnh danh là cha đẻ của nền hội họa Pháp, người đã truyền cảm hứng cho những thế hệ họa sĩ Pháp tiếp theo như Jacques-Louis David, Jean-Auguste-Dominique Ingres hay Paul Cézanne. “Et in Arcadia ego” được đặt tại bảo tàng Louvre, Paris, Pháp, là một bức hoạ sâu xa, hàm chứa nhiều ẩn đố và dự ngôn về Chúa Cứu Thế, khiến nó trở thành một tác phẩm nổi tiếng trong giới hội hoạ.
Theo truyền thuyết, Arcadia là một chốn thiên đường thanh bình, cách biệt với thế giới trần tục. Các sinh mệnh của Arcadia luôn sống trong hạnh phúc và không hề biết đến cái chết. Bức “Et in Arcadia ego” của Nicolas Poussin tập trung mô tả bốn con dân của Arcadia, gồm có ba người chăn cừu và một phụ nữ. Họ đang đứng quanh một phiến đá có khắc dòng chữ “Et in Arcadia ego”, có nghĩa là “Thậm chí ở Arcadia, ta cũng hiện hữu”. Nếu chưa biết đến câu chuyện đằng sau bức hoạ, thì hẳn câu hỏi đầu tiên của người thưởng lãm tranh sẽ là: “Ai đã viết ra câu nói ấy?”
Trong văn hoá phương Tây, hình ảnh người chăn cừu thường tượng trưng cho những người có tín ngưỡng, hay những sinh mệnh trên Thiên đường. Vậy nên ba người chăn cừu trong tranh chính là những con dân của vùng đất Arcadia. Họ vừa nhìn vào dòng chữ khắc trên đá, vừa biểu lộ vẻ ngạc nhiên và bất ngờ, như thể chưa từng trải qua hay chứng kiến điều gì tương tự.
Nếu hỏi rằng ở cõi Thiên đường trường cửu ấy, điều các sinh mệnh chưa hề trải qua là gì, thì đáp án có lẽ chính là: “lão – bệnh – tử”. Vị Thần đã viết nên câu nói ấy chính là vị Thần của sự suy vong và tận diệt. Ông dường như đang muốn nói rằng: Thậm chí cả xứ Thiên đường Arcadia rồi cũng sẽ đi tới hồi kết!
Nói đến “lão – bệnh – tử” là nói đến sự đau thương, nhưng những người chăn cừu lại không hề biểu lộ ra cảm xúc đó, có chăng trên nét mặt họ chỉ là sự bất ngờ. Dường như những điều này là thứ gì đó quá xa lạ đối với họ. Ba người chăn cừu đều đang chờ đợi người phụ nữ đứng bên lên tiếng.
Mặc dù không mang phục sức hoa lệ, nhưng từ tư thái cao quý, sự trầm tĩnh của người phụ nữ cũng như thái độ của ba người chăn cừu, chúng ta có thể đoán được rằng đây chính là nữ Thần Arcadia. Là người cai quản Thiên đường hạnh phúc này, bà toát lên khí phách và trí tuệ hiếm có. Nhưng ngay cả nữ Thần Arcadia cũng chưa từng biết rằng xứ thiên đường này rồi sẽ đi đến điểm cuối, vậy nên bà trầm ngâm không nói lời nào.
“Thậm chí ở Arcadia, ta cũng hiện hữu”, nó như một dự ngôn rằng cái chết sẽ xuất hiện ở chốn thiên đường Arcadia. Lời dự ngôn đó đã xuất hiện từ bao giờ? Là ai đã khắc nó lên phiến đá này? Tại sao đến cả nữ Thần Arcadia cũng chưa hề biết đến điều đó? Và vì sao thiên đường, nơi cư ngụ của những linh hồn bất tử cũng lại xuất hiện cái chết? Tất cả những câu hỏi đó đã đưa “Et in Arcadia ego” trở thành một ẩn đố của hội hoạ Pháp.
Thật ra người phương Tây không chỉ biết đến Thiên đường như một chốn tịnh thổ, mà cũng biết rằng đã từng và sẽ có những xáo động lớn diễn ra tại nơi đây. Đó là truyền thuyết về trận chiến trên Thiên đường khi Lucifer dẫn đầu nhóm Thiên thần phản Chúa được mô tả sống động trong “Thiên đường đã mất” (Paradise Lost) của Milton. Đó cũng là những tiên tri trong sách Khải Huyền của Kinh Thánh về việc trong tương lai, một con rồng đỏ sẽ mê hoặc khiến các Thiên Thần đi theo nó. Con rồng đó sẽ gây ra nhiều tai hoạ, và khiến cho một phần ba số ngôi sao trên bầu trời rơi xuống mặt đất.
Chúng ta đều biết rằng, trong văn hóa cổ xưa ở cả phương Đông lẫn phương Tây, các vì tinh tú là một hình ảnh tượng trưng của các vị Thần, ví như Thần Jupiter đối ứng với sao Mộc, thần Helios đối ứng với Mặt trời, hay Nam Tào – Bắc Đẩu tinh quân coi giữ các chòm sao Nam Đẩu – Bắc Đẩu. Ngoài ra, các vì sao cũng được coi như một hình tượng phản ánh những thế giới của chư Thần. Vậy thì một phần ba số ngôi sao trên bầu trời rơi xuống mặt đất chẳng phải là những phần khác nhau của Thiên giới đang bị hủy diệt sao?
Quay lại phương Đông, ngoài quy luật “sinh – lão – bệnh – tử” của con người ra, Phật giáo còn đề cập đến quy luật “thành – trụ – hoại – diệt” của vũ trụ. Đó chính là vũ trụ cũng có vòng tuần hoàn của nó, từ khi sơ khai là “thành”, phát triển đầy đủ phong phú là “trụ”, xuống dốc là “hoại”, còn tiêu vong là “diệt”. Nếu như vũ trụ đi đến cuối cùng rồi, thì liệu thế giới của Chư Phật, hay Thiên đường của Chư Thần có còn tồn tại?
Đứng từ góc độ của khoa học mà nói, sự tồn tại của Trái đất, của một tinh cầu, một dải ngân hà, hay thậm chí là toàn vũ trụ dường như kéo dài rất lâu, với con người mà nói, thì là gần như vô tận. Nhưng khi con người bắt đầu khám phá được những điều ở cách trái đất hàng chục vạn năm ánh sáng thì chúng ta đã bàng hoàng khi chứng kiến cảnh những thiên thể xa xăm giải thể… Nếu như vũ trụ mênh mông không kể xiết này có điểm xuất phát là từ vụ nổ Big Bang như khoa học ngày nay giả thiết, thì đâu là điểm kết thúc của nó?
“Thậm chí ở Arcadia, ta cũng hiện hữu” – Dường như một quy luật cao hơn về vũ trụ đã được ẩn ý nói tới thông qua bức tranh của Nicolas Poussin. Suy luận tới đây, tư tưởng của người xem tranh như được mở ra, rộng lớn tới vô tận…
Trong tín ngưỡng của cả phương Đông lẫn phương Tây, các tín đồ vẫn luôn mong ngóng một điều kỳ diệu, đó chính là truyền thuyết về Cứu Thế Chủ hay Sáng Thế Chủ. Tương truyền rằng ở vào thời khắc mạt thế cuối cùng thì một vị Thần toàn năng sẽ xuất hiện, giải cứu vũ trụ trong cơn nguy khốn “hoại – diệt” (Cứu Thế Chủ), thẩm phán và ban cho vạn vật được cứu rỗi sinh mệnh mới (Sáng Thế Chủ). Đó chính là hình tượng của Messiah trong tín ngưỡng phương Tây, Phật Di Lặc (Maitreya) trong Phật giáo phương Đông, hay chân nhân Lý Hoằng trong Đạo giáo. Sự hiện hữu của những truyền thuyết giống nhau đến kỳ lạ đó khiến người ta không khỏi thắc mắc rằng, liệu các Ngài phải chăng là một?
Cũng có một số học giả cho rằng, hình tượng Chúa Cứu Thế (từ Chủ và Chúa là giống nhau, ví dụ Chủ Nhật thực chất là Chúa Nhật) thực chất còn bắt nguồn từ một tín ngưỡng cổ xưa trong một vùng rộng lớn bao gồm Tây Á, Bắc Phi, Tiểu Á, lưu vực Lưỡng Hà, Ai Cập và thậm chí còn xa hơn thế.
Di Lặc, trong tiếng Sanskrit gọi là “Maitreya”, tiếng Pali gọi là “Metteya”. Vị Thần, Thiên Chúa mà người Tây phương chờ đợi gọi là “Messiah” trong tiếng Anh và bắt nguồn từ chữ “Masiah” trong tiếng Hebrew (có lúc viết thành “Mashiach”). Tân Ước coi Chúa Giêsu (Đấng Cứu) tương đồng với Messiah (Đấng được sức dầu) của Do Thái giáo. Theo kinh Phật ghi lại, Di Lặc là Phật hiệu của “Vạn vương chi Vương”. Trong Thiên Chúa giáo thì gọi Chúa Cứu Thế là “Lord of Lords”. Hai xưng hiệu này đều có ý nghĩa tương đồng, chính là vị Thần toàn năng có vị trí tối cao.
Điều đáng suy ngẫm là dù bất đồng về tên gọi của Ngài, nhưng các tôn giáo đều đồng ý rằng dưới sự phán xét của Ngài, chỉ có những người bảo trì được sự thiện lương, lòng chính nghĩa, hay tín ngưỡng chân chính trong thời kỳ mạt thế bại hoại mới có hy vọng được cứu vớt.