1. Một nhận thức dần dần về đặc tính trung tâm của phẩm giá con người
10. Ngay từ thời Cổ đại1[18] Vì Tuyên ngôn này không nhằm mục đích soạn thảo một khảo luận đầy đủ về khái niệm phẩm giá, vì muốn ngắn gọn, nên chỉ có văn hoá Hy Lạp và Rôma cổ điển được đề cập ở đây, như một điểm tham chiếu cho suy tư triết học và thần học của Kitô giáo sơ khai., người ta đã tìm thấy một nhận thức đầu tiên về phẩm giá con người, vốn nằm trong viễn cảnh xã hội: mỗi con người được ban cho một phẩm giá đặc biệt, tùy theo hạng bậc của mình và trong một trật tự nào đó. Từ lĩnh vực xã hội, từ này chuyển sang mô tả những phẩm giá khác nhau của các sinh vật hiện diện trong vũ trụ. Theo quan điểm này, mọi sinh vật đều có “phẩm giá” riêng, tùy theo vị trí của chúng trong sự hài hoà của tổng thể. Chắc chắn, một số đỉnh cao của tư tưởng cổ đại đã bắt đầu thừa nhận một vị trí độc nhất dành cho con người, trong chừng mực con người được phú bẩm lý trí và do đó có khả năng đảm nhận trách nhiệm đối với bản thân và những sinh vật khác trên thế giới2[19] X. ad es. Cicéron, De Officiis 1, 105-106: “sed pertinet ad omnem officii quaestionem semper in promptu habere, quantum natura hominis pecudibus reliquisque beluis antecedat […] Atque etiam si considerare volumus, quae sit in natura excellentia et dignitas, intellegemus, quam sit turpe diffluere luxuria et delicate ac molliter vivere quamque honestum parce, continenter, severe, sobrie” (Scriptorum Latinorum Bibliotheca Oxoniensis, ed. M. Winterbottom, Oxford 1994, 43; ” Trong bất kỳ nghiên cứu nào liên quan đến đạo đức, điều quan trọng là phải ghi nhớ sự khác biệt sâu xa tồn tại giữa bản tính con người và bản tính của gia súc và những động vật khác […] Và nếu chúng ta muốn xem xét địa vị của con người trong bản tính và phẩm giá của nó, chúng ta sẽ hiểu rằng chẳng thích đáng tí nào khi để cho bản thân bị hư hỏng bởi sự xa hoa và sống buông thả, trái lại, thật là phù hợp với đạo đức lành mạnh khi sống giản dị, tiết dục, khổ chế, điều độ.” (Des devoirs, bản dịch của Ch. Apphun, Garnier, Paris, 1933)., nhưng chúng ta vẫn còn xa với một tư tưởng có khả năng thiết lập sự tôn trọng phẩm giá của mỗi con người, trong mọi hoàn cảnh.
Các viễn cảnh Thánh Kinh
11. Mạc Khải Thánh Kinh dạy rằng tất cả mọi người đều có một phẩm giá nội tại bởi vì họ được tạo dựng theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa: “Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy làm nên con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta”. […] Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1, 26-27). Nhân loại có một phẩm chất đặc thù, khiến nó không thể bị giảm thiểu thành vật chất thuần túy. “Hình ảnh” không xác định linh hồn hay những khả năng trí tuệ, nhưng xác định phẩm giá của người nam và người nữ. Cả hai, trong mối quan hệ bình đẳng và yêu thương nhau, hoàn thành chức năng đại diện Thiên Chúa trong thế giới và được mời gọi chăm sóc và nuôi dưỡng thế giới. Do đó, được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa có nghĩa là sở hữu trong chúng ta một giá trị thánh thiêng siêu vượt mọi sự phân biệt về giới tính, xã hội, chính trị, văn hoá và tôn giáo. Phẩm giá của chúng ta được ban cho chúng ta, nó không được đòi hỏi hay do công trạng. Mỗi con người đều được Thiên Chúa yêu thương và mong muốn vì chính nó và do đó, phẩm giá của họ là bất khả xâm phạm. Trong sách Xuất Hành, tâm điểm của Cựu Ước, Thiên Chúa tỏ ra là Đấng nghe tiếng kêu than của người nghèo, nhìn thấy nỗi khốn cùng của dân mình, chăm sóc những người bé mọn nhất và những người bị áp bức (x. Xh 3, 7; 22, 20 -26). Người ta tìm thấy giáo huấn tương tự trong sách Đệ Nhị Luật (x. Đnl 12-26): ở đây, giáo huấn về các quyền lợi được biến thành một “bản tuyên ngôn” về phẩm giá con người, đặc biệt bênh vực ba nhóm người: trẻ mồ côi, goá phụ và người ngoại kiều. (x. Đnl 24, 17). Những giới luật xưa của sách Xuất Hành được nhắc lại và hiện tại hoá qua lời rao giảng của các ngôn sứ, những người đại diện cho lương tâm phê bình của dân Israel. Toàn bộ các chương của các ngôn sứ Amos, Hôsê, Isaia, Mikha và Giêrêmia đều tố cáo sự bất công. Amos cay đắng chỉ trích sự đàn áp người nghèo, việc không công nhận bất kỳ phẩm giá cơ bản nào của con người đối với những người bị thiệt thòi nhất (x. Am 2, 7; 4, 1; 5, 11-12). Isaia tuyên bố tai hoạ chống lại những kẻ chà đạp các quyền lợi của người nghèo, phủ nhận mọi công lý của họ: “Khốn thay những kẻ đặt ra các luật lệ bất công, những kẻ viết nên các chỉ thị áp bức, để cản người yếu hèn hưởng công lý!” (Is 10, 1-2). Giáo huấn ngôn sứ này được lấy lại trong văn chương khôn ngoan. Sách Huấn ca so sánh sự áp bức người nghèo với tội giết người: “Cướp phương tiện sống của kẻ khác là giết người; đoạt lương của người làm thuê là gây đổ máu” (Hc 34, 22). Trong các Thánh Vịnh, mối quan hệ tôn giáo với Thiên Chúa bao hàm việc bảo vệ những người yếu đuối và thiếu thốn: “Hãy bênh quyền lợi kẻ mồ côi, người hèn mọn; minh oan cho người khốn khổ, kẻ bần cùng, giải phóng ai hèn mọn, ai nghèo túng, cứu khỏi nanh vuốt bọn ác nhân” (Tv 82, 3-4).
12. Chúa Giêsu sinh ra và lớn lên trong những điều kiện khiêm tốn và đã mạc khải phẩm giá của những người nghèo khổ và những người lao động3[20] Xem thánh Phaolô VI, Lời của Đức Thánh Cha nhân chuyến viếng thăm Vương cung thánh đường Truyền Tin ở Nadarét (5/1/1964): AAS 56 (1964), 166-170.. Trong suốt sứ vụ của mình, Chúa Giêsu khẳng định giá trị và phẩm giá của tất cả những ai mang hình ảnh của Thiên Chúa, bất kể địa vị xã hội và hoàn cảnh bên ngoài của họ. Chúa Giêsu đã phá bỏ các rào cản văn hoá và tôn giáo, phục hồi phẩm giá cho những người bị loại bỏ hoặc bị coi là bên lề xã hội: người thu thuế (x. Mt 9, 10-11), phụ nữ (x. Ga 4, 1-42), trẻ em (x. Mc 10, 14-15), người phong cùi (x. Mt 8, 2-3), người bệnh (x. Mc 1, 29-34), người ngoại kiều (x. Mt 25, 35), goá phụ (x. Lc 7, 11-15). Người chữa lành, nuôi dưỡng, bảo vệ, giải phóng, cứu rỗi. Người được mô tả như một mục tử quan tâm đến duy chỉ một con chiên lạc (x. Mt 18, 12-14). Người tự đồng hoá với những người anh em hèn mọn nhất của mình: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40). Theo ngôn ngữ Thánh Kinh, “những người bé nhỏ” không chỉ là những trẻ em theo độ tuổi, mà còn là những môn đệ yếu đuối, những người tầm thường nhất, những người bị loại trừ, bị áp bức, bị gạt sang một bên, người nghèo, người bị gạt ra ngoài lề xã hội, người dốt nát, người bệnh tật, người bị hạ thấp bởi các nhóm thống trị. Chúa Kitô vinh hiển sẽ xét xử theo tình yêu đối với người lân cận, hệ tại việc đã giúp đỡ những người đói, khát, khách lạ, trần truồng, bệnh tật, tù đày, những người mà Người tự đồng hóa (x. Mt 25, 34-36). Đối với Chúa Giêsu, việc thiện được làm cho mọi người, bất kể mối liên hệ huyết thống hay tôn giáo, là tiêu chuẩn phán xét duy nhất. Thánh Phaolô Tông đồ, khi viết cho giáo đoàn Galát, đã khẳng định rằng mọi Kitô hữu phải cư xử theo những đòi hỏi về phẩm giá và tôn trọng quyền lợi của mọi người (x. Rm 13, 8-10), phù hợp với điều răn mới về đức ái. (x. 1 Cr 13, 1-13).
Những phát triển trong tư tưởng Kitô giáo
13. Tiếp đến, sự phát triển tư tưởng Kitô giáo đã kích thích và đi kèm với sự tiến bộ trong suy tư của con người về chủ đề phẩm giá. Nhân chủng học Kitô giáo cổ điển, dựa trên truyền thống vĩ đại của các Giáo phụ, đã nhấn mạnh đến học thuyết về con người được tạo dựng theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa và đến vai trò đặc biệt của nó trong công trình tạo dựng4[21] Trong số vô số tài liệu tham khảo, chẳng hạn xem thánh Clêmentê thành Rôma, 1 Clem. 33, 4s: PG 1, 273; Théophile d’Antioche, Ad Aut. Tôi, 4: PG 6, 1029; thánh Clêmentê thành Alexandria, Strom. III, 42, 5-6: PG 8, 1145; Ibidem, VI, 72, 2: PG 9, 293; thánh Irênê thành Lyon, Adv. Haer. V, 6, 1: PG 7, 1137-1138; Origen, De princ. III, 6.1: PG 11, 333; thánh Augustinô, De Gen. ad litt. VI, 12: PL 34, 348. De Trin. XIV, 8, 11: PL 42, 1044-1045.. Tư tưởng Kitô giáo thời trung cổ, khi xem xét một cách có phê bình di sản của tư tưởng triết học cổ đại, đã đi đến một tổng hợp về khái niệm nhân vị, thừa nhận trong đó nền tảng siêu hình về phẩm giá của nó, như được chứng thực bằng những lời sau đây của thánh Tôma Aquinô: “Nhân vị biểu thị những gì hoàn hảo nhất trong mọi bản tính: tức là, những gì tồn tại trong một bản tính có lý trí”5[22] Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae, I, q. 29, a. 3, resp. : ” persona significat id, quod est perfectissimum in tota natura, scilicet subsistens in rationali natura.”. Phẩm giá hữu thể này, trong sự biểu hiện ưu việt của nó qua hành động tự do của con người, sau đó đã được nhấn mạnh đặc biệt bởi chủ thuyết nhân bản Kitô giáo thời Phục hưng6[23] Chỉ cần nghĩ đến Jean Pic de la Mirandola và bản văn nổi tiếng của ông Oratio de hominis dignitate (1486).. Ngay cả trong tầm nhìn của các nhà tư tưởng hiện đại, chẳng hạn như Descartes và Kant, những người cũng đặt vấn đề về một số nền tảng của nhân học Kitô giáo truyền thống, những vang vọng của Mạc Khải vẫn có thể được cảm nhận một cách mạnh mẽ. Dựa trên một số suy tư triết học gần đây hơn về cương vị của chủ thể tính lý thuyết và thực hành, suy tư Kitô giáo đã nhấn mạnh hơn nữa chiều sâu của khái niệm phẩm giá, đạt đến một viễn cảnh độc đáo trong thế kỷ XX, chẳng hạn như với chủ thuyết nhân vị. Viễn cảnh này không chỉ lấy lại vấn đề chủ thể tính, mà còn đào sâu nó theo chiều hướng liên chủ thể và các mối quan hệ gắn kết các nhân vị với nhau7[24] Đối với một nhà tư tưởng người Do Thái như E. Levinas (1906-1995), con người được đánh giá cao bởi sự tự do của mình ở chỗ họ nhận ra mình có trách nhiệm vô hạn đối với người khác.. Đề xuất nhân học Kitô giáo đương đại cũng đã được làm phong phú nhờ tư tưởng nảy sinh từ cách tiếp cận cuối cùng này8[25] Một số nhà tư tưởng lớn của Kitô giáo trong thế kỷ XIX và XX, như thánh J.H. Newman, Chân phước A. Rosmini, J. Maritain, E. Mounier, K. Rahner, H.U. von Balthasar, và những người khác, đã thành công trong việc đề nghị một tầm nhìn về con người có thể đối thoại một cách hợp thức với các dòng tư tưởng đầu thế kỷ XXI của chúng ta, bất kể nguồn cảm hứng của họ là gì, ngay cả hậu hiện đại..
Thời hiện tại
14. Ngày nay, thuật ngữ “phẩm giá” chủ yếu được dùng để nhấn mạnh tính cách độc nhất của nhân vị, bất khả sánh với các sinh vật khác trong vũ trụ. Từ viễn cảnh này, chúng ta hiểu cách thức mà thuật ngữ phẩm giá được sử dụng trong Tuyên ngôn của Liên hợp quốc năm 1948, trong đó nói về “phẩm giá gắn liền với tất cả các thành viên trong gia đình nhân loại và các quyền bình đẳng và bất khả tước bỏ của họ”. Chỉ có đặc tính bất khả tước bỏ này của phẩm giá con người mới cho phép nói về nhân quyền9[26] Đây là lý do tại sao “Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền […] ngầm gợi ý rằng nguồn gốc của các quyền con người bất khả tước bỏ nằm ở phẩm giá của mỗi nhân vị”: Ủy ban Thần học Quốc tế, Tìm kiếm một nền đạo đức phổ quát. Cái nhìn mới về luật tự nhiên (2009), số 115..
15. Để làm rõ hơn khái niệm phẩm giá, điều quan trọng là phải nhấn mạnh rằng phẩm giá không được những người khác ban cho nhân vị, dựa trên một số năng khiếu và phẩm chất, đến độ nó có thể bị rút lại. Nếu phẩm giá được những người khác ban cho nhân vị, thì nó sẽ được ban cách có điều kiện và có thể bị tước bỏ, và như thế chính ý nghĩa của phẩm giá (mặc dù rất đáng được tôn trọng) sẽ có nguy cơ bị xoá bỏ. Trong thực tế, phẩm giá là nội tại của nhân vị, nó không được ban cho một cách hậu nghiệm, nó có trước bất kỳ sự thừa nhận nào và không thể bị mất đi. Vì vậy, tất cả mọi người đều có phẩm giá nội tại như nhau, cho dù họ có khả năng thể hiện nó một cách thích đáng hay không.
16. Đây là lý do tại sao Công đồng Vatican II nói về “phẩm giá cao quý của nhân vị, vượt trên mọi sự và các quyền và nghĩa vụ của nó là phổ quát và bất khả xâm phạm”10[27] Công đồng Vatican II, Hiến chế Gaudium et spes (7/12/1965), số 26: AAS 58 (1966), 1046; toàn bộ chương đầu tiên của phần đầu tiên của Hiến chế các số 11-22) được dành bàn về “Phẩm giá của nhân vị”.. Như những lời đầu tiên của Tuyên ngôn Dignitatis humanae của Công đồng nhắc lại, “phẩm giá của nhân vị là đối tượng của một nhận thức sâu sắc hơn bao giờ hết; ngày càng có nhiều người đòi hỏi cho con người khả năng hành động theo những lựa chọn riêng của mình và hoàn toàn tự do chịu trách nhiệm; không phải dưới áp lực của sự ép buộc, nhưng được hướng dẫn bởi ý thức về bổn phận của mình”11[28] Công đồng Vatican II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae (7/12/1965), số 1: AAS 58 (1966), 929.. Quyền tự do tư tưởng và lương tâm này, cả cá nhân lẫn tập thể, dựa trên sự nhìn nhận nhân phẩm “như được Lời Chúa và chính lý trí cho biết”12[29] Ibidem, số 2: AAS 58 (1966), 931.. Chính huấn quyền của Giáo hội đã ngày càng suy tư chín chắn hơn về ý nghĩa của phẩm giá này, cũng như những đòi hỏi và ngụ ý liên quan đến nó, khi nhận ra rằng phẩm giá của mỗi con người là như vậy trong mọi hoàn cảnh.