LINH HỨNG VÀ CHÂN LÝ THÁNH KINH (II)

Bài 2 / 2 trong loạt bài LINH HỨNG VÀ CHÂN LÝ THÁNH KINH

PHẦN THỨ HAI: CHỨNG TỪ CỦA CÁC TRƯỚC TÁC KINH THÁNH VỀ SỰ THẬT CỦA CHÍNH CHÚNG

62. Trong phần thứ hai của tài liệu này, chúng ta xem xét cách các trước tác Kinh Thánh làm chứng cho sự thật trong sứ điệp của chính chúng. Sau khi giới thiệu chủ đề này, chúng ta sẽ trình bày trong tiết đầu về cách các bản văn Cựu Ước, khi chuẩn bị mặc khải Tin Mừng (xem Dei Verbum {DV}, 3), trình bày ra sao sự thật được Thiên Chúa mặc khải; trong tiết hai, chúng ta sẽ trình bày cách các bản văn được chọn trong Tân Ước đề cập đến vấn đề sự thật được Chúa Giêsu Kitô mặc khải, Đấng dẫn dắt sự mặc khải thần thiêng đến chỗ nên trọn của nó (xem DV, 4).

1. Dẫn nhập

Khi đề cập đến chủ đề của phần thứ hai này, trước tiên chúng ta hãy xem xét cách Dei Verbum hiểu khái niệm sự thật Kinh Thánh, trước khi xác định sự nhấn mạnh theo chủ đề nào sẽ được dành ưu thế lúc khảo sát các bản văn Kinh thánh.

1.1 Sự thật Kinh Thánh theo Dei Verbum

63. Trong Kinh Thánh, sự thật của Lời Chúa được liên kết chặt chẽ với sự linh hứng của chúng: Thiên Chúa, Đấng lên tiếng, không thể lừa dối chính Người. Nhưng bất chấp việc tuyên bố về nguyên tắc này, nhiều cách diễn đạt các bản văn Kinh thánh quả tạo ra khó khăn. Các Giáo phụ đã ý thức được điều này, và ngay cả ngày nay, các vấn đề này vẫn tồn tại, như các cuộc thảo luận trong Công đồng Vatican II đã cho thấy. Các yếu tố sau đây có mục đích trình bày ý nghĩa của khái niệm “sự thật”, như Công đồng đã hiểu nó.

Các nhà thần học đã áp dụng vào Kinh Thánh khái niệm “không sai lầm” (inerrance). Nếu được hiểu theo nghĩa tuyệt đối của nó, thuật ngữ này có nghĩa: không thể có bất cứ sai lầm nào trong Kinh thánh. Nhưng với những khám phá đã dần dần được thực hiện trong lĩnh vực lịch sử, triết học và khoa học tự nhiên, và vì sự kiện áp dụng phương pháp phê bình lịch sử vào nghiên cứu Kinh thánh, các nhà chú giải đã phải công nhận rằng toàn bộ các bản văn tạo nên Kinh thánh không được phát biểu theo cách phù hợp với các đòi hỏi của khoa học đương thời, bởi vì các nhà soạn tác Kinh thánh tự phát biểu theo các giới hạn trong kiến thức bản thân, và hơn thế nữa, trong kiến thức của thời đại và nền văn hóa của họ. Công đồng Vatican II đã phải đối diện với vấn đề này lúc soạn thảo Hiến chế tín lý Dei Verbum.

Ở số 11 của Dei Verbum, chúng ta tìm thấy học thuyết truyền thống: “Giáo Hội, nhờ đức tin tông truyền, xác nhận rằng toàn bộ các sách Cựu Ước cũng như Tân Ước với tất cả các phần đoạn đều là Sách Thánh và được ghi vào quy điển Kinh Thánh, vì được viết ra dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần (xem Ga 20: 31; 2 Tm 3:16; 2 Pr 1: 19-21; 3: 15-16), chúng có Thiên Chúa là tác giả”. Hiến chế không đi sâu vào chi tiết các phương thức của linh hứng (xem Thông điệp của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII Providentissimus Deus), nhưng trong cùng số 11 này, Hiến chế nói: ” Vì mọi lời các tác giả được linh hứng, cũng gọi là thánh sử, đã viết ra là những điều được xác quyết bởi Chúa Thánh Thần, nên phải tuyên nhận rằng Kinh Thánh dạy ta cách chắc chắn, trung thành và không sai lầm về chân lý mà Thiên Chúa đã muốn Kinh Thánh ghi lại để cứu độ chúng ta. Bởi vậy ‘toàn bộ Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng và hữu dụng trong việc giảng giải, biện bác, sửa dạy, giáo dục để nên công chính: giúp cho người của Thiên Chúa trở nên toàn hảo và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành” (2 Tm 3:16-17: bản Hy Lạp).

Ủy ban Thần học đã loại bỏ biểu thức “sự thật cứu rỗi”, bằng cách du nhập một công thức dài hơn: “sự thật mà Thiên Chúa đã muốn Kinh Thánh ghi lại để cứu độ chúng ta ” (veritatem quam Deus nostrae salutis causa Litteris Sacris consignari voluit).Vì cùng Ủy ban Thần học này đã giải thích rằng câu chêm vào “để cứu độ” chúng ta có ý nói đến “sự thật”, điều này có nghĩa là: khi nói đến vấn đề “sự thật của Kinh thánh”, là có ý nói đến sự thật được sắp đặt để cứu rỗi chúng ta. Nhưng điều này không được diễn giải theo nghĩa một sự thật của Kinh thánh chỉ liên quan đến các phần Sách Thánh cần thiết cho đức tin và luân lý, loại bỏ các phần khác (một cách chính xác, biểu thức veritas salutaris của sơ đồ thứ tư không được duy trì để tránh cách giải thích như vậy). Biểu thức “sự thật mà Thiên Chúa đã muốn Thánh Kinh ghi lại để cứu độ chúng ta” đúng hơn có nghĩa là: các sách Kinh thánh, với tất cả các phần của chúng, bao lâu chúng được Chúa Thánh Thần linh hứng và có Thiên Chúa là tác giả, đều tìm cách truyền đạt sự thật bao lâu nó liên quan đến sự cứu rỗi của chúng ta, một điều, trong thực tế, vốn là mục đích Thiên Chúa tự mặc khải chính Người.

Để xác nhận luận điểm này, Dei Verbum trích dẫn, tại số 11, không những 2 Tm 3:16-17, mà còn, trong ghi chú 21, De Genesi ad litteram 2.9.20 và Epistula 82, 3 của Thánh Augustinô, các bản văn trong đó tác giả này loại bỏ khỏi giáo huấn Kinh thánh tất cả những gì không hữu ích cho sự cứu rỗi của chúng ta. Thánh Tôma, dựa trên trích dẫn thứ nhất của Thánh Augustinô, tuyên bố trong De Veritate q. 12, a. 2: Illa vero, quae ad salutem pertinere non possunt, sunt extranea a materia prophetae (“Tuy nhiên, những điều không liên quan đến sự cứu rỗi không thuộc về bản thể của lời tiên tri”).

64. Do đó, ở đây có ý nói đến việc hiểu biểu thức “sự thật cho sự cứu rỗi của chúng ta”, trong bối cảnh của Dei verbum. Chỉ hiểu thuật ngữ “sự thật” theo nghĩa phổ biến của nó là điều không đủ: khi nói đến sự thật Kitô giáo, ý niệm này được phong phú hóa bằng ý nghĩa Kinh thánh về sự thật, và hơn thế nữa bằng cách sử dụng nó của Công đồng trong các văn kiện khác. Trong Cựu Ước, chính Thiên Chúa là chân lý cao nhất, bởi tính không thay đổi trong các lựa chọn, các lời hứa và các hồng phúc của Người; các lời Người nói đều đúng sự thật, và đòi hỏi một sự không thay đổi giống hệt nhau trong việc tiếp nhận và đáp trả của con người, một đáp trả của trái tim cũng như một đáp trả của hành động (xem, thí dụ 2 Sm 7:28, Tv 3 &, 6). Sự thật là nền tảng của giao ước. Trong Tân Ước, chính Chúa Kitô là sự thật, vì Người là Amen nhập thể của mọi lời hứa của Thiên Chúa (xem 2 Cr 1:19-20), và vì Người là “đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14: 6), mặc khải Chúa Cha (xem Ga 1:18) và cho ta đường dẫn tới Người (x. Ga 14:6), Đấng là nguồn tối hậu của sự sống (x. Ga 5:26; 6:57). Chúa Thánh Thần mà Chúa Kitô ban là Thần chân lý (x. Ga 14:17; 15:24; 16:13), Đấng sẽ nâng đỡ chứng từ của các Tông Đồ (x. Ga 15:26-27) và sự vững vàng trong đáp trả đức tin của chúng ta. Do đó, sự thật có một chiều kích Ba Ngôi, nhưng chủ yếu là Kitô học, và Giáo hội, người công bố nó, là “trụ cột và chống đỡ sự thật” (1 Tm 3:15). Do đó, Chúa Kitô là Đấng mặc khải và là đối tượng của sự thật để cứu rỗi chúng ta, được Cựu Ước công bố: sự thật được tỏ hiện trong Tân Ước trong con người của Người, và trong Vương quốc, cả hiện tại lẫn cánh chung, mà Người đã công bố và khai mở. Do đó, khái niệm sự thật, theo cách hiểu của Công đồng Vatican II, có thể được giải thích trong bối cảnh Ba Ngôi, Kitô học và giáo hội này (xem Dei Verbum, các số 2, 7, 8, 19, 24; Gaudium et Spes số 3, Dignitatis humanae số 11): Người Con đích thân mặc khải Chúa Cha, và sự mặc khải của Người được Chúa Thánh Thần thông đạt và xác nhận và được truyền đạt cho Giáo hội.

1.2 Trọng tâm nghiên cứu của chúng ta về sự thật Kinh Thánh

65. Việc nghiên cứu của chúng ta về chủ đề “sự thật Kinh Thánh”, một nghiên cứu sẽ được thực hiện khởi đi từ một số bản văn Kinh thánh, sẽ dựa vào giáo huấn và sự hướng dẫn của Dei Verbum, như chúng ta vừa được xác định. Trước tiên chúng ta hãy trích dẫn các câu kết luận ở số 2 của Dei Verbum về sự mặc khải: ” nhờ mạc khải này, chân lý thâm sâu về Thiên Chúa cũng như về công cuộc cứu độ con người được bày tỏ cho chúng ta trong Chúa Kitô, Đấng vừa là trung gian vừa là sự viên mãn của toàn thể mạc khải” ( Xem Mt 11: 27; Ga 1:14,17; 14: 6; 17: 1-3; 2 Cr 3: 16 và 4: 6; Ep 1: 3-14).

Không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự thật nằm ở trung tâm của mặc khải, và do đó ở trung tâm của Kinh thánh, vốn là dụng cụ truyền tải mặc khải (xem DV các số 7-10), liên quan tới Thiên Chúa và sự cứu rỗi của con người. Và không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự viên mãn của sự thật này được tỏ lộ bởi và trong Chúa Kitô. Người đích thân là Lời của Thiên Chúa (x. Ga 1,1,14) xuất phát từ Thiên Chúa và mặc khải Thiên Chúa. Người không chỉ nói lên sự thật về Thiên Chúa, mà Người còn là sự thật về Thiên Chúa, Người là Đấng đã nói: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14:9; xem Ga 12:45). Sự xuất hiện của Chúa Con cũng mặc khải sự cứu rỗi của con người: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Người Con duy nhất của Người để bất cứ ai tin vào Người Con này sẽ không hư mất, nhưng sẽ được sự sống đời đời” (Ga 3: 16).

Do đó, sự chú ý trong nghiên cứu của chúng ta về sự thật của các trước tác Kinh thánh sẽ tập trung vào hai chủ đề liên quan chặt chẽ này: điều các trước tác nói về Thiên Chúa và điều chúng nói về dự án của Thiên Chúa nhằm cứu rỗi con người. Sự viên mãn của mặc khải và cứu rỗi được Chúa Kitô mang đến; nhưng sự xuất hiện của Người được chuẩn bị bằng một cuộc mặc khải thần thiêng lâu dài được các trước tác của Cựu Ước chứng thực. Do đó, điều thích đáng là phải chú ý đến điều các trước tác này khẳng định về Thiên Chúa và về sự cứu rỗi, vì biết rằng sự mặc khải trọn vẹn về điều chúng chứng thực đã được thực hiện trong con người và công trình của Chúa Kitô. Mặc khải không giới hạn ở kỳ hạn của nó: con đường dẫn đến nó và sự chuẩn bị cho nó tạo thành một phần thiết yếu của nó.

2. Chứng từ của các trích đoạn chọn lựa từ Cựu Ước

66. Trong rất nhiều các bản văn Kinh thánh, chúng ta chọn một số cuốn sách có lưu ý đến sự đa dạng trong các thể loại văn chương, và đến đặc điểm quyết định của chúng đối với chủ đề được bàn. Nhiều chủ đề trung tâm sẽ được nghiên cứu. Chúng liên quan đến Thiên Chúa và sự cứu rỗi, như đã được chứng thực trong các câu chuyện về sáng thế (St 1-2), mười giới răn, các sách lịch sử và các sách tiên tri, các Thánh vịnh, Diễm ca và các trước tác khôn ngoan. Mặc dù Cựu Ước là một sự chuẩn bị cho đỉnh cao mạc khải của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô, việc xem xét chiều rộng, sự đa dạng và phong phú của các bản văn của nó đã dẫn chúng ta đến chỗ nghiên cứu một số lượng lớn các đoạn văn Cựu Ước, nếu chúng ta so sánh độ lớn của chúng với các bản văn Tân Ước sẽ được nghiên cứu. Ý định của chúng ta ở đây là chứng tỏ cách các bản văn khác nhau đóng góp vào sự mặc khải của Thiên Chúa và sự cứu rỗi mà Người mang tới, và do đó giúp đào sâu việc thấu hiểu các khái niệm này.

2.1 Những câu chuyện về sáng thế (St 1-2)

67. Những trang đầu của Kinh thánh, tức các trang có những câu chuyện thường được gọi là “trình thuật sáng thế” (St 1-2), chứng thực đức tin vào một Thiên Chúa, Đấng là nguồn gốc và là kết thúc của mọi sự. Trong tư cách “những trình thuật sáng thế”, chúng không tìm cách chứng tỏ sự khởi đầu của thế giới và con người đã xẩy ra “cách” nào, nhưng chúng nói về Đấng Tạo Hóa và mối liên hệ của Người với sáng thế và với tạo vật. Người ta sẽ phạm các sai lầm nghiêm trọng khi đọc các câu chuyện cổ xưa này theo con mắt đương thời và coi chúng như các quả quyết về việc dựng nên thế giới và con người “cách nào”. Cần phải thách thức việc đọc như vậy để làm sáng tỏ một cách thỏa đáng hơn ý định của các bản văn Kinh thánh, và để tránh đưa các tuyên bố của chúng cạnh tranh với kiến thức khoa học tự nhiên của thời đại chúng ta. Điều này không mâu thuẫn với ý định của Kinh Thánh là truyền đạt sự thật, vì sự thật của các câu chuyện trong Kinh thánh về sáng thế liên quan đến sự gắn bó chặt chẽ, nặng ý nghĩa, về thế giới tạo dựng, như Thiên Chúa đã đặt để nó. Nhờ cấu trúc soạn thảo rất công phu của nó, trình thuật đầu tiên về nguồn gốc (St 1,1-2,4a) mô tả, không phải cách thế giới đã trở thành như thế nào, mà là tại sao và vì mục đích gì mà thế giới đã được tạo ra như nó hiện nay. Bằng một văn phong thi ca và dùng các hình ảnh đương thời của mình, tác giả của St 1,1-2,4a cho thấy: Thiên Chúa là nguồn gốc của vũ trụ và con người. Thiên Chúa Sáng Tạo, mà Kinh thánh nói đến, hướng về tạo vật để bước vào mối liên hệ với nó, đến nỗi cả cách tạo dựng ra nó, như đã được mô tả trong Kinh thánh, cũng nhấn mạnh đến mối liên hệ này. Khi tạo ra con người “theo hình ảnh của chính mình” và giao cho họ sứ mệnh chăm sóc sáng thế, Thiên Chúa biểu lộ ý muốn cứu độ nền tảng của Người.

Các yếu tố căn bản của sự hiện hữu nhân bản nằm ở tâm điểm câu chuyện ở St 1, đạt đến đỉnh cao trong lời khẳng định có tính nhân học rằng con người là “hình ảnh của Thiên Chúa”, nghĩa là phụ tá của Người trong việc sáng tạo. Theo câu chuyện, công việc đầu tiên của Thiên Chúa sáng tạo bao gồm việc tạo ra thời gian (xem St 1:3-5), được sắp đặt bởi sự xen kẽ ánh sáng và bóng tối. Câu chuyện không tìm cách mô tả một cách chính xác thời gian hệ ở điều gì. Khi phân chia các công trình sáng tạo khác nhau thành sáu ngày, Người không tìm cách khẳng định, như một sự thật của đức tin, rằng thế giới thực sự được hình thành trong sáu ngày, trong khi vào ngày thứ bảy, Chúa nghỉ ngơi. Đúng hơn, câu chuyện tìm cách cho thấy rằng có một trật tự và một mục đích trong việc sáng thế. Con người có thể và phải tự lồng mình vào trật tự này, để, qua diễn biến từ việc làm qua nghỉ ngơi, họ nhận ra rằng thời gian mà Thiên Chúa đã sắp đặt gúp họ tự hiểu về mình như một tạo vật mang nợ ơn mình hiện hữu nơi Đấng Tạo hóa.

Qua mọi công trình sáng tạo, chính ý nghĩa của toàn bộ sáng thế được triển khai và mục đích của nó được biểu lộ. Như đã nói, toàn bộ câu chuyện đều hướng về con người. Do đó, câu chuyện sáng thế không tìm cách đưa ra một định nghĩa vật lý về khái niệm không gian, mà là trình bày nó như một “không gian sống” của con người và chứng tỏ ý nghĩa của nó. Nhiệm vụ “khuất phục” trái đất (St 1:28) thực sự là một ẩn dụ nói lên trách nhiệm của con người đối với không gian sống của họ, vốn có chung giữa họ và các động vật và thực vật.

Hai câu chuyện về nguồn gốc (St 1:1-2,4a; St 2: 4b-25) giới thiệu toàn bộ Qui điển Kinh thánh Do Thái, và cả Kinh thánh Kitô giáo nữa. Sử dụng những hình ảnh khác nhau, chúng tìm cách phát biểu cùng một sự thật: thế giới tạo dựng là một ơn ban của Thiên Chúa và là dự án của Người nhắm phúc lợi của con người (xem St 2:18), như đã được chứng tỏ bởi việc sử dụng thường xuyên tĩnh từ “tốt” (xem St 1: 4-31). Vì thế, nhân loại được định vị trong một “liên hệ sáng thế” với Thiên Chúa: ơn ban nguyên thủy và nhưng không của Tạo hóa kêu gọi đáp trả của con người.

2.2 Mười Điều Răn (Xh 20:2-17 và Đnl 5:6-21)

68. Hai bản Mười Điều Răn của Xh 20:2-17 và Đnl 5:6-21 giới thiệu các bộ sưu tập lập pháp khác nhau được tập hợp lại, một mặt, trong các sách Xuất hành, Lêvi và Dân số (xem Xh 19: 1-Ds 10:10) và mặt khác, trong sách Đệ nhị luật (xem Dt 12-26). Các bản văn này có hình thức một diễn từ của Chúa (GIAVÊ), ngỏ với Israel hoặc ở ngôi thứ nhất hoặc qua trung gian Môsê. Hình thức văn chương này mang lại cho các bản văn này một tư thế thẩm quyền rất mạnh mẽ. Các bản Mười Điều Răn đặt thành tương quan bản tóm tắt đức tin của Israel (Xh 20,2 = Đnl 5,6) – có nhắc đến những câu chuyện Xuất hành – và mặt khác, tập hợp các quy định về văn hóa và đạo đức. Hai bản Mười Điều Răn có nhiều điểm chung với nhau, và, đồng thời, mỗi bản đều có một đặc điểm thần học chuyên biệt: trong khi bản Mười Điều Răn của Xh 20 chủ yếu triển khai một nền thần học về sáng thế, thì bản Mười Điều Răn của Đnl 5 chủ yếu nhấn mạnh đến nền thần học cứu rỗi.

Nhờ cấu thành các tổng hợp thần học rất công phu, hai bản Mười Điều Răn có thể được coi như “các bản tóm tắt” kinh Tôra, và cung cấp các chìa khóa thần học cho phép ta giải thích chúng cách chính xác.

a. Cấu trúc văn chương của hai bản Mười Điều Răn

Việc trình bầy các bản Mười Điều Răn (Xh 20,2 = Đnl 5,6) định nghĩa Thiên Chúa (GIAVÊ) như Thiên Chúa Cứu thế trong lịch sử: Thiên Chúa của Israel tự làm cho mình được biết đến bằng công trình cứu rỗi mà Người thực hiện cho dân Người. Bài trình bày có tính thuật chuyện này về Thiên Chúa của Israel như vị cứu tinh dân Người đã tóm tắt toàn bộ phần thứ nhất của sách Xuất hành: công thức tự xưng mình của Chúa trong Xh 3:14 – “Ta là Đấng Ta là/sẽ là” – dẫn nhập một câu chuyện dài về việc giải phóng Israel (xem Xh 4-14). Chúa mặc khải căn tính thực sự của Người bằng cách mang đến cho dân Người ơn cứu rỗi. Do đó, ơn của Thiên Chúa tạo nền tảng cho các quy định lập pháp được tập hợp trong các bản Mười Điều Răn. Ơn của Thiên Chúa này bao gồm việc giải phóng ban cho Israel, giải thoát khỏi ách nô lệ ở Ai Cập. Các luật của các bản Mười Điều Răn lần lượt nói lên các phương thức Israel đáp trả hồng ơn của Thiên Chúa: Israel, được Thiên Chúa giải phóng, giờ đây, phải bước vào con đường tự do này, bằng cách từ bỏ các ngẫu tượng và sự ác (về điểm này, xin xem Ủy ban Kinh thánh Giáo hoàng, Kinh thánh và Luân lý: Các Gốc rễ Kinh thánh của hành động Kitô hữu, 2008, số 20).

Phần đầu tiên của bản văn trình bày các điều cấm liên quan đến việc thờ ngẫu tượng, tạo hình ảnh, và mời gọi tuân giữ một chủ nghĩa độc thần nghiêm ngặt (xem Xh 20:3-7 = Đnl 5:7-11). Từ bỏ các ngẫu tượng dẫn đến việc chấp nhận một sự thờ phượng độc quyền dành riêng cho Chúa và chấp nhận một giao ước dứt khoát với Người: Chúa là vị cứu tinh duy nhất của dân, là Thiên Chúa duy nhất đích thực.

Hai Điều Răn tích cực của Mười Điều Răn liên quan đến ngày Sabát và việc kính trọng cha mẹ (xem Xh 20:8-12 và Đnl 5:12-16). Ngày Sabát có thể được định nghĩa là “cung thánh của Thiên Chúa” trong thời gian và lịch sử. Qua việc tôn trọng ngày Sabát, Israel chứng tỏ rằng chỉ có Chúa mới có thể mang lại ý nghĩa cho lịch sử của con người.

Phần cuối của bản văn bản Mười Điều Răn liên quan đến việc thiết lập mối tương quan đúng đắn với người lân cận (xem Xh 20:13-17 và Đnl 5:17-21). Sự kiện từ bỏ bất cứ dự án cướp bóc hay thèm muốn nào đối với người lân cận là điều kiện không thể miễn chước để xây dựng một cộng đồng thực sự, và làm chứng cho khả thể chiến thắng của tình yêu huynh đệ đối với bạo lực.

b. Bình luận và các hệ luận thần học

69. Các bản Mười Điều Răn đề xuất cho Israel một con đường để tuân phục Luật được Thiên Chúa mặc khải tại Sinai (Hôrép). Dự án của Thiên Chúa kêu gọi đáp ứng của con người, trong bối cảnh một giao ước (xem Xh 24:7-8, Đnl 5:2-3).

Trong Tôra, các lề luật tiếp theo sau Mười Điều Răn, triển khai nội dung của nó. Việc cấm thờ ngẫu tượng là chủ đề quán xuyến (leitmotiv) của Đệ Nhị luật, trong khi lời kêu gọi sống cuộc sống huynh đệ được khai triển trong Luật thánh thiêng (Lv 17-26) và lên tuyệt đỉnh ở lời mời gọi yêu người lân cận, nghĩa là, không những các thành viên của cộng đồng Israel, mà cả người xa lạ thường trú nữa (xem Lv 19:18.34).

Các bản Mười Điều Răn cho thấy cách Thiên Chúa Tạo Hóa cũng tỏ mình ra như một vị cứu tinh trong lịch sử và mời tất cả các thành viên của cộng đồng, đến lươt họ, tham gia luận lý học cứu rỗi này bằng cách thực thi một nền đạo đức cộng đồng đòi hỏi khắt khe. Giao ước với Thiên Chúa Tạo Hóa và Cứu Tinh dẫn các tín hữu đến chỗ “sống phù hợp với sự thật”.

Các bản Mười Điều Răn cung cấp một chìa khóa giải thích toàn bộ Tôra, và có thể nói, tạo nên một “giáo lý” cho cộng đồng Israel. Giáo lý này cho phép người Do Thái khẳng định đức tin của họ vào một Thiên Chúa đích thực duy nhất, bằng cách giáp mặt với những thách thức của lịch sử và tham gia vào đời sống cộng đồng huynh đệ, bằng cách từ bỏ các chiến lược quyền lực và bạo lực. Nói cách khác, các bản Mười Điều Răn kết hợp sự khẳng định một sự thật liên quan đến chính Thiên Chúa (Người là Đấng Tạo Dựng và Cứu Tinh), và một sự thật liên quan đến các phương thức của một cuộc sống công chính và ngay thẳng. Mối tương quan của Israel với Thiên Chúa xem ra không thể tách rời khỏi mối tương quan với người lân cận, đó là nơi tuyệt hảo để biểu lộ việc các tín hữu tuân theo sự thật đã được mặc khải.

2.3 Các sách lịch sử

70. Việc trình bày lịch sử Israel, như được các sách Kinh Thánh đề cập, đặc biệt là những cuốn sách “lịch sử” (Giôsuê, Thủ Lãnh, 1-2 Samuen, 1-2 Vua, 1-2 Sử Biên, Étra, Nơkhemi; 1-2 Macabê), không tạo thành một phép chép sử theo nghĩa hiện đại, hiểu như một ghi chép các sự kiện trong quá khứ theo thứ tự thời gian (chronique), càng khách quan càng tốt. Bất cứ nỗ lực giải thích nào đối với các câu chuyện lịch sử trong Kinh thánh theo quan điểm như vậy sẽ gặp nguy cơ đọc các bản văn một cách xa lạ đối với ý hướng của chúng, và không thu thập được đầy đủ ý nghĩa của chúng.

Việc trình bày của Kinh Thánh về lịch sử phát triển hài hòa trên nền tảng của thần học về sáng thế, nghĩa là, như đã được trình bầy trong các trang đầu tiên của Kinh thánh (xem số 67 ở trên), bao lâu lịch sử cho phép ta làm chứng cho kinh nghiệm về Thiên Chúa, và trong điều này cho thấy rằng chính Người hành động bằng cách cứu con người bên trong chính lịch sử (xem Gs 24). Do đó, phép chép sử của Kinh Thánh tìm cách cho thấy rằng ý chí cứu độ của Thiên Chúa có ý nghĩa hoàn toàn được sắp đặt vì lợi ích của nhân loại.

Các trình thuật lịch sử của Kinh Thánh không chỉ cho thấy các biến cố tích cực của lịch sử. Trái lại, chúng còn cho thấy, giữa các biến cố mâu thuẫn của con người, Thiên Chúa biểu lộ ý định không ngừng của Người ra sao để thể hiện việc cứu rỗi nhân loại. Theo cách này, lịch sử Kinh thánh (xem Tl 6:36; 2 Sm 22:28) mặc khải Người như “Vị cứu tinh”.

Mặt khác, sự thân mật của Thiên Chúa với con người, do các câu chuyện Kinh Thánh chứng thực, được trình bày như một lịch sử giao ước, bắt đầu là giao ước với Nôê, vì toàn nhân loại, tiếp theo là các giao ước có liên quan đến lịch sử Israel. Giao ước, mà Thiên Chúa cung ứng cho dân của Người, trong con người của Ápraham, và sau đó là giao ước được long trọng ký với Israel tại Núi Sinai, liên tục bị người dân vi phạm xuyên suốt lịch sử của họ, đến nỗi đặc điểm dứt khoát của nó duy nhất nối kết với việc trung thành với chính Thiên Chúa.

Do đó, chương trình thần học của phép chép sử Kinh thánh có thể được định nghĩa trước hết như là thần – học theo nghĩa đen của từ ngữ – diễn ngôn về Thiên Chúa, tìm cách biểu lộ sự trung tín của Thiên Chúa trong tương quan của Người với con người. Điều này được xác nhận trong việc loan báo một giao ước mới trong Grm 31: 31. Đó là giao ước của Thiên Chúa, Đấng, suốt trong lịch sử, đã dẫn dắt dân Người đến sự cứu rỗi bên cạnh Người và với Người.

2.4 Các sách tiên tri

71. Lời tiên tri trong Kinh Thánh chứng thực một cách đáng chú ý đặc biệt đối với việc Thiên Chúa tự mặc khải Người ra, vì lời nhân bản của các Tiên tri hoàn toàn trùng khớp với Lời của Thiên Chúa: “Chúa phán như thế” là một công thức điển hình của lối văn chương này. Đặc điểm chủ yếu của việc mặc khải này là nó can thiệp vào giữa lịch sử con người, các biến cố mà niên đại có thể kiểm chứng được, trong những lời lẽ được ngỏ cùng các nhân vật cụ thể, được nói ra bởi các tác nhân nhân bản mà tên, nguồn gốc và thời đại thường được biết đến. Kế sách vĩnh cửu của Thiên Chúa trong việc thiết lập với nhân loại một giao ước tình yêu (xem Dei Verbum 2) được các Tiên tri hiểu biết (xem Am 3: 7), và được các ngài công bố cho Israel và mọi quốc gia, để sự thật chân chính của Thiên Chúa và của lịch sử được biểu lộ cho mọi người.

Một số đặc điểm đặc trưng có thể được ấn định bên trong các lời lẽ tiên tri, rất phong phú và là các dấu chỉ sự khôn ngoan vô hạn của Thiên Chúa. Các đặc điểm này làm ta có thể vẽ ra khuôn mặt của Thiên Chúa chân thật và đóng góp vào sự gắn bó nhất trí của đức tin.

a. Thiên Chúa trung thành

Các tiên tri tiếp nối nhau trong lịch sử, theo lời hứa của Chúa: “Ta sẽ khiến một tiên tri trỗi dậy giữa anh em của chúng, một tiên tri như ngươi; Ta sẽ đặt lời nói của Ta vào miệng nó và nó sẽ nói với họ tất cả những điều Ta sẽ truyền cho nó”(Đnl 18:18). Trong một sự kế tục tiên tri, đặc sủng của Môsê (xem Đnl 18:15) được truyền đến những người, đến lượt họ, trở thành chứng nhân cho lòng trung tín của Thiên Chúa đối với giao ước của Người (xem Is 38:18-19; 49:7), chứng nhân cho lòng nhân từ trải dài qua hàng ngàn thế hệ (xem Xh 34:7, Đnl 5:10; 7:9; Grm 32:18). Thiên Chúa là nguồn gốc của phận người, người Cha mà từ đó sự sống phát sinh, không từ bỏ (xem Is 41:17, Hs 11:8) không quên các tạo vật của Người (xem Is 44:21; 54:10; Grm 31:20): “Một người phụ nữ có thể nào quên đứa con của mình không, không còn sự dịu dàng âu yếm đứa con trai của lòng dạ mình nữa không? Ngay cả khi người mẹ ấy quên nó đi nữa, Ta cũng sẽ không quên con” (Is 49:15).

Các Tiên tri, được Chúa không mệt mỏi gửi đến (xem, Grm 7:13.25; 11:7; 25:3-4, v.v.), là tiếng nói, có thẩm quyền, nhắc nhớ sự hiện diện vĩnh viễn của Thiên Chúa đích thực trong lịch sử nhân loại đầy những điều bất ngờ (xem Is 41:10; 43:5; Grm 30:11). Các ngài tuyên bố: “Ngài sẽ bày tỏ lòng thành tín cho Giacóp, và tình thương cho Ápraham, như đã thề với tổ phụ chúng con từ thuở trước” (Mk 7:20).

Do đó, sự thật của Chúa có thể so sánh với sự thật của Núi Đá (xem Is 26:4), hoàn toàn đáng tin cậy (xem Đnl 32,4); Đấng kiên định với các lời nói của mình, sẽ giữ vững (xem Is 7:9), mà không sợ bị mất (xem Hs 14:10).

b. Thiên Chúa công chính

72. Khi tự mặc khải, Thiên Chúa trung thành đòi sự trung thành, Thiên Chúa thánh thiện đòi người tham dự vào giao ước của Người phải nên thánh, như chính Người là Đấng thánh (xem Lv 19:2), Thiên Chúa công chính yêu cầu mỗi người bước đi trên con đường được lề luật vẽ lối (xem Đnl 6:25). Trong quá trình lịch sử, các Tiên tri là những người người loan báo công lý hoàn hảo, nền công lý được Thiên Chúa thực hiện (xem Is 30:18; 45:21, Grm 9:3; 12:1, Xp 3:5) và Người yêu cầu con người đem ra thực hành (xem Is 1:17p; 5:7; 26:2; Edkz 18:5-18, Am 5:24). Không những các ngài trình bầy các chỉ thị của Chúa, bằng cách mang lại ý nghĩa cho chúng, mà các ngài còn can đảm tố cáo mọi thứ đi chệch ra ngoài con đường sự thiện, bất luận là cá nhân hay quốc gia. Bằng cách này, các ngài kêu gọi phải hoán cải, đe dọa một hình phạt chính đáng cho những tội ác đã phạm và công bố thảm họa không thể tránh cho những người, trong sự đồi trụy của họ, không muốn lắng nghe những lời cảnh báo của Thiên Chúa (xem Is 30:12). 14: Grm 6:19; 7:13-15).

Chính ở đây, sự thật của lời tiên tri được biểu lộ, đối lập với sự an ủi dễ dàng của các tiên tri giả – những người không quan tâm đến các đòi hỏi đạo đức chính đáng của Lề Luật – công bố hòa bình, ngay lúc mối đe dọa của thanh gươm công lý đang bay lượn (xem Grm 6:14; 23:17; Edk 13:10), lừa dối dân bằng những lời hứa hão huyền (xem Is 9:14-15; Grm 27:14; 29:8-9; Am 9:10, Dcr 10:2), và do đó làm lợi cho sự bền bỉ của gian ác. “Các ngôn sứ có trước tôi và ông từ ngàn xưa đã tuyên sấm về nhiều xứ sở và vương quốc hùng mạnh, là sẽ có chiến tranh, tai ương và ôn dịch” (Grm 28: 8): Do đó, Lời chân chính của Chúa khẳng định rằng sự gian ác của thế gian được tiết lộ trong lịch sử bởi Thiên Chúa công chính, đặc biệt bởi sự đau khổ liên hệ với các biện pháp chế tài mà Người áp đặt. Do đó, việc vượt qua sự sỉ nhục và cái chết được các tiên tri giải thích như một thứ kỷ luật cần thiết để tạo điều kiện cho việc nhìn nhận tội lỗi (x. Grm 2:19) và sự chuẩn bị khiêm tốn của hối nhân để chờ đợi ơn tha thứ (x. Ge 2:12-14).

c. Thiên Chúa thương xót

73. Phần lớn các văn chương tiên tri chấp nhận một giọng điệu đe dọa, chẳng hạn như lời của Giôna nói với Ninivê (xem Gn 3: 4), hoặc công bố bất hạnh “chống lại mọi xác thịt” (Edk 21:9), tuyên bố không những sự sụp đổ của vương quốc Israel (x. Grm 5,31, Hs 10:15; Am 8:2), nhưng đàng khác, cũng gợi lên ngày tận cùng của thế giới (xem Grm 4:23-26; 45:4, Edk: 7:2-6, Đn 8:17). Viễn cảnh thảm khốc này có thể dẫn ta nghĩ đến việc cho rằng Chúa không trung thành với lời hứa của Người: “Lúc đó, tôi nói, ‘À! Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa tôi, quả thực, Ngài đã đánh lừa dân này và cả Giêrusalem nữa khi nói rằng: ‘các ngươi sẽ có hòa bình trong khi lưỡi kiếm đã kề tận cổ họng’ (Grm 4:10); ” Nào đâu tình thương nồng nhiệt và hùng khí dũng mãnh! nào đâu những rạo rực của lòng Ngài? Chẳng lẽ Ngài không còn động lòng thương con nữa?” (Is 63:15).

Với lời than thở đã trở thành lời cầu nguyện của một dân tộc lưu vong này, tiếng nói của các vị tiên tri, những vị công bố sự an ủi cho Israel (xem Is 40:1) đáp lại rằng: Điều có thể hiểu như một biến cố cuối cùng được quyền năng của Đấng Tạo Dựng biến đổi thành một khởi đầu mới (xem Grm 31:22; Edk 37:1tt., Hs 2:16-17). Điều rõ ràng là một thất bại đã trở thành nền tảng của một thực tại kỳ diệu, vì tội lỗi, kẻ đã tạo ra thảm họa, dứt khoát được tha thứ bởi lòng thương xót của Chúa Cha (xem Grm 31:34; Edk 16:63, Hs 14:5; Mk 7:19).

Một số tiên tri công bố một bước ngoặt triệt để trong lịch sử Israel (xem Grm 30:3.18; 31:23; Edk 16:53, Ge 4:1; Am 9:14, Xp 3:20) và trong lịch sử thế giới, vì các ngài tiên đoán trời mới và đất mới (xem Is 65:17; 66:22, Grm 31: 22). Biến cố Thiên Chúa tha thứ, đi kèm với vô số những ơn thiêng liêng chưa từng nghe thấy (xem Grm 31:33-34; Edk 36:27, Hs 2:21-22; Ge 3:1-2), và làm cho hiển thị bởi sự phục hồi toàn dân cách phi thường, được tái lập dưới các hình thức định chế hoàn hảo (xem Is 54:1-3; 62:1-3, Grm 30:18-21, Hs 14:5-9), vì công bố khác đi, sự xuất hiện của chiều kích dứt khoát trong lịch sử không thể dự đoán hoặc tưởng tượng bởi tâm trí con người: “Bây giờ – Chúa nói qua Isaia – Ta làm cho ngươi nghe thấy những điều mới lạ, bí mật, chưa được ngươi biết. Chính bây giờ chúng được tạo ra chứ không cách đây lâu; trước ngày đó, ngươi đã không nghe thấy chúng; vì vậy ngươi không thể nói, ‘có, tôi đã biết chúng!” (Is 48:6-7). Chúa mặc khải, qua trung gian các Tiên tri, các dự án của Người, vô cùng vượt trội so với những gì các tạo vật có thể quan niệm (xem Is 55:8-9); và chính nhờ việc biểu lộ hữu hiệu của ân sủng, mà Thiên Chúa đã làm cho chúng ta biết đến sự hoàn hảo của chân lý Người, làm cho ý nghĩa của lịch sử nên hoàn hảo.

Lời hứa hẹn này đúng sự thật vì nó đã tự thực hiện (xem Đnl 18:22; Is 14:24; 45:23; 48:3; Grm 1:12; 28:9): “Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó “(Is 55:10-11). Từ biến cố độc đáo và định vị trong lịch sử phát sinh ra một giao ước vĩnh cửu (xem Is 55:3; Grm 32:40; Edk 16:60). Từ đó tuôn ra lời ca ngợi, hiệu quả cuối cùng của ơn cứu rỗi “Lạy Chúa, Chúa là Thiên Chúa của con, con hiển dương Chúa, con tạ ơn Danh Chúa, vì Chúa đã thực hiện các dự án và kỳ công, chắc chắn và bền vững từ lâu đời” (Is 25:1).

Những người tin vào Chúa Kitô sẽ nhận ra rằng họ là “con cái” của các tiên tri và của lời hứa (xem Cv 3:25), những người nhận được lời an ủi cứu rỗi (Cv 13:26): trong Lễ Vượt qua của Chúa Giêsu, khi thờ lạy Người, họ sẽ thấy sự biểu lộ trọn vẹn lòng trung tín của Thiên Chúa, Đấng công chính và hay thương xót.

2.5 Các Thánh vịnh

74. Những lời cầu nguyện của các Thánh vịnh giả thiết và phát biểu một sự thật thiết yếu về Thiên Chúa và ơn cứu rỗi: Thiên Chúa không phải là một nguyên lý tuyệt đối vô ngã, nhưng là một người biết lắng nghe và đáp lại. Mọi người Israel đều biết rằng họ có thể hướng về Người trong mọi tình huống của cuộc hiện sinh: trong niềm vui và trong nỗi đau. Thiên Chúa tự mặc khải Người ra như một Thiên Chúa hiện diện (xem Xh 3:14), Đấng biết người đang cầu nguyện và dành cho họ một sự quan tâm thực sự và nhưng không.

Trong số các đặc điểm khác nhau được các Thánh vịnh gán cho Thiên Chúa, chúng ta giữ lại hai: Thiên Chúa tự mặc khải Người như (a) Đấng toàn năng và bảo vệ, và (b) Thiên Chúa của công chính sẽ biến kẻ tội lỗi thành người công chính. Do đó, Thiên Chúa luôn xuất hiện như một Đấng cứu rỗi con người.

a. Thiên Chúa toàn năng: Thánh vịnh 46

Sự hiện diện và hành động của Thiên Chúa được mô tả như một mô hình trong Thánh vịnh 46, và trong một câu: “Người ở cùng chúng ta, Chúa tể vũ trụ” (Tv 46:8.12). Thọat đầu, ở giữa và ở cuối Thánh vịnh, sự hiện diện của Thiên Chúa đã được nhấn mạnh – Thiên Chúa là “cho chúng ta” (Tv 46:2) và “với chúng ta” (Tv 46: 8.12). Người thống trị thiên nhiên bằng sức mạnh của Người (Tv 46:2.7), Người bảo vệ Israel và tạo ra hòa bình (x. Tv 46:8-12).

Quyền năng của Thiên Chúa thống trị thiên nhiên: Thiên Chúa là Đấng tạo dựng

Đối đầu với những xáo trộn của vũ trụ, dân của giao ước vẫn thanh thản: “Thiên Chúa là nơi ta ẩn náu, là sức mạnh của ta. Người luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ khi ta phải ngặt nghèo. Nên dầu cho địa cầu chuyển động, núi đồi có sập xuống biển sâu, dầu cho sóng biển ầm ầm sôi sục, núi đồi có lảo đảo khi thuỷ triều dâng, ta cũng chẳng sợ gì” (Tv 46,2-4). Thiên Chúa thống trị các sức mạnh của hỗn mang. Và ngay cả khi những sức mạnh này làm suy yếu sự ổn định của Zion, thành thánh cũng “không thể lay chuyển” (Tv 46:6a), vì “Chúa đứng đó” (Ps 46:6a), và “khi buổi mai tái sinh, Chúa giúp nó”(Tv 46:6b).

Quyền năng của Thiên Chúa bảo vệ dân Người và tạo ra hòa bình: Thiên Chúa là vị cứu tinh

Lời khẳng định “Ngài ở cùng chúng ta, Chúa tể vũ trụ” xuất hiện như một lời đáp lại tiếng kêu đau khổ của những người bị bao vây bởi kẻ thù: “Dám xin Ngài đứng lên phù giúp, lấy tình thương cứu chuộc dân Ngài” (Tv 44:27). Thiên Chúa được tuyên xưng là “nơi ẩn náu, là sức mạnh” (Tv 46,2) và “thành lũy” (Tv 46:8.12) để minh họa quyền năng Người dùng bảo vệ các tín hữu tập trung tại Zion. Tất cả được mời gọi nhìn nhận Người: “Hãy đến và xem các hành vi của Chúa” (Tv 46:9). Sau đó, Thánh vịnh cho biết rõ những hành vi này là gì: “Người chấm dứt chiến tranh trên toàn cõi thế, cung tên bẻ gẫy, gươm giáo đập tan, còn khiên thuẫn thì quăng vào lửa” (Tv 46:10). Chính Chúa nói với các tín hữu: “Dừng tay lại : Hãy biết Ta đây là Thiên Chúa! Ta thống trị muôn dân, thống trị địa cầu”(Tv 46:11). Những kẻ thù phải ngừng chiến đấu, nhìn nhận Chúa và sự uy nghi phổ quát của Người, Đấng đang thống trị mọi quốc gia và cả trái đất. Sự can thiệp mạnh mẽ của Thiên Chúa ủng hộ Zion mang một ý nghĩa phổ quát: Người mang lại hòa bình không những cho kinh thành Thiên Chúa (câu 5), mà còn cho mọi quốc gia, cho tất cả trái đất (xem câu 11).

b. Thiên Chúa của công lý: Thánh vịnh 51

75. Trong Thánh vịnh 51, việc xưng tội được kết hợp với lời khẩn cầu. Điểm nhấn căn bản của Thánh vịnh – được nhấn mạnh ở giữa phần thứ nhất và phần thứ hai của bản văn – liên quan đến công lý của Thiên Chúa: ” Như vậy, Ngài thật công bằng khi tuyên án, liêm chính khi xét xử” (Tv 51 , 6); “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa Cứu độ của con, hãy giải thoát con khỏi dòng máu đổ, và miệng lưỡi con sẽ tung hô công lý của Ngài” (Tv 51,16, xem câu 21). Công lý cứu độ của Thiên Chúa hoạt động trong con người tội lỗi, không những bằng cách vô hiệu hóa các lỗi lầm của họ và thanh tẩy họ, mà còn bằng cách công chính hóa và biến đổi họ. Tất cả hành động này của Thiên Chúa công chính xuất phát từ tình yêu của Người, Đấng là trung tín và hay thương xót.

Thiên Chúa của công lý yêu người tội lỗi

Thiên Chúa, được thúc đẩy bởi tình yêu của Người, công chính hóa các tội nhân. Thánh vịnh bắt đầu bằng lời khẩn cầu: ” Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm” (Tv 51:3). Người cầu nguyện cầu khẩn tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa.

Hạn từ đầu tiên, “tình yêu” (hesed), là một trong những thuật ngữ căn bản – rất thường gặp trong Cựu Ước, đặc biệt trong các Thánh vịnh – của nền thần học Thánh vịnh và giao ước: nó chỉ thái độ của Thiên Chúa, một thái độ ngụ ý lòng tốt, sự hào phóng, lòng trung thành của Người với người cầu nguyện.

Trong các Thánh vịnh, tình yêu này thường được trình bầy như thể đó là một nhân vị: “Lòng thành tín và yêu thương của Ngài sẽ giữ gìn con mãi” (Tv 40:12). Thiên Chúa gửi nó xuống từ thiên đàng (xem Tv 57:4; xem 61:8; 85:11; 89:15) để nó đồng hành với tín hữu, đi theo họ như một người bạn (Tv 23:6), bảo bọc (xem Tv 32:10) và làm họ thỏa thuê (Tv 90:14). Tình yêu của Thiên Chúa quan trọng hơn chính sự sống: “tình yêu của Ngài giá trị hơn sự sống” (Tv 63:4; Tv 42:9; 62:13). Tình yêu của Thiên Chúa sẽ không bị lấy khỏi người tội lỗi, bất chấp tội lỗi của họ (xem Tv 77:9), vì Thiên Chúa yêu họ như một người cha. Tình yêu này sẽ khêu gợi công lý của Thiên Chúa – biện minh cho tội nhân.

Hạn từ thứ hai – lòng thương xót (rehem – xem Tv 40:12; 69:17, v.v.) thường được tìm thấy trong bối cảnh sám hối (xem Tv 25:6; 79:8), và thường được sử dụng ở số nhiều (rahamim). Nó gợi lên “lòng dạ” người mẹ, biểu tượng nguyên mẫu của tình yêu bản năng và triệt để. Thiên Chúa được trình bày như gắn bó với con người nhân bản, thậm chí hơn cả một người mẹ gắn bó với chính con trai của mình (Is 49:15). Đây là lý do tại sao Thánh vịnh gia tuyên bố: ” Phần Ngài, muôn lạy Chúa, Ngài là Thiên Chúa nhân hậu từ bi, Ngài chậm giận, lại giàu tình thương và sự thật” (Tv 86:15).

Trong thực tế, hai thuật ngữ, theo một cách nào đó, vì mô tả hai phương thức của tình yêu Thiên Chúa (cha và mẹ), nên rất gần gũi nhau: “Lạy Chúa, xin nhớ lại nghĩa nặng với ân sâu Ngài đã từng biểu lộ từ muôn thuở muôn đời” (Tv. 25:6, xem 103:13). Thiên Chúa yêu con người – ngay cả khi họ là một tội nhân – giống như một người mẹ yêu con trai mình, bằng một tình yêu không phải là thành quả của công đức, nhưng hoàn toàn nhưng không, một tình yêu tạo thành một yêu cầu nội thẳm của trái tim. Đồng thời; Thiên Chúa yêu con người như một người cha, bằng một tình yêu rộng lượng và trung tín. Hai chiều kích trong tình yêu của Thiên Chúa, được phần đầu của Thánh vịnh 51 nhắc nhớ, đại diện cho hai hệ luận của công lý Người, mang lại lợi ích cho tội nhân. Thiên Chúa, Đấng yêu thương và hay thương xót (Tv 51:3.20) đồng thời là một Thiên Chúa phán xét (Tv 51:6.16).

Công lý của Thiên Chúa “công chính hóa”, nghĩa là biến đổi tội nhân thành người công chính (Tv 51:6.16)

76. Tự hướng về tội nhân, Thiên Chúa thiết lập với họ một mối quan hệ năng động và sâu sắc, thuộc trật tự công lý. Diễn trình này tự triển khai trong một số giai đoạn:

lòng cảm thương hay yêu thương thương xót: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con” (Tv 51:3). Chính động từ “trở nên nhân từ – hanan” (Tv 4:2; 6:3, v.v.) đã được sử dụng ở đây, chỉ sự lắng lo đầy nhân từ của đấng tối cao đối với bề tôi của mình. Người nổi loạn chống lại Thiên Chúa và người trở nên gớm ghiếc dưới mắt Người xin được tìm thấy lòng cảm thương của Người. Nó sẽ cứu họ khỏi sự khốn cùng sâu xa nhất của nó, đó là tội lỗi.

Giáo huấn nội tâm: ” Nhưng Ngài yêu thích tâm hồn chân thật, dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan”(Tv 51: 8). Thiên Chúa hành động trong lương tâm của tội nhân, vốn bị tối tăm bởi tội lỗi, và đặt trong đó ánh sáng của sự thật, khiến phải thừa nhận tội lỗi và sự rạng sáng của đức khôn ngoan Người, mở mắt để thấy tác phong ngay chính.

Phán quyết của ân sủng, điều đem lại tha thứ. Tội nhân, bị giam hãm dưới sự thống trị của tội lỗi, nhìn nhận: “Ngài thật công bằng khi tuyên án, liêm chính khi xét xử” (Tv 51: 6). Tiếp theo các lời kêu cầu của họ: “xóa”, “rửa”, “thanh tẩy” (câu 3-4, được lặp lại trong các câu 9 và 11), là một niềm hy vọng mạnh mẽ: ” Xin ngoảnh mặt đừng nhìn bao tội lỗi và xoá bỏ hết mọi lỗi lầm” (Tv 51:11). Được giải thoát khỏi sự hiện diện đầy ám ảnh của tội lỗi, họ khẩn cầu: “Xin cho con được nghe tiếng reo mừng hoan hỷ” (Tv 51:10, xem Is 66:14).

Tạo vật mới: tội nhân kêu cầu Thiên Chúa ban một sáng tạo mới – “Lạy Thiên Chúa của con, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng” (Tv 51:12). Sau lời kêu cầu thiết yếu này, người cầu nguyện ba lần khẩn cầu để nhận được một tinh thần: một tinh thần “được đổi mới”; sự hiện diện của ” thần khí thánh của Ngài”; một “tinh thần quảng đại” (cc.12.13.14). Họ kêu cầu một sự đổi mới nội tâm và vĩnh viễn, mà vì nó sự hiện diện của Thần Trí Thiên Chúa, từ đó “niềm vui được cứu rỗi” phát sinh (Tv 51:14) có tính quyết định.

Khuyến khích làm chứng: được đổi mới bởi Thiên Chúa, con người muốn thông đạt niềm hy vọng của chính mình cho những người cần đến nó: “đường lối Ngài, con sẽ dạy cho những người tội lỗi” (Tv 51:15). Trên hết, họ muốn mang đến cho những người này sự khôn ngoan đã được Thiên Chúa dạy dỗ họ ở bên trong.

Mở cửa bước vào niềm vui và ca ngợi: hối nhân đã được đổi mới trong nội tâm cảm thấy tràn ngập niềm vui, và muốn bày tỏ điều đó trong lời ca ngợi của mình: “Con sẽ tung hô Ngài công chính. Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài” (Tv 51:16-17, xem Tv 35:28; 71:24).

Trong những câu cuối cùng, song đối giữa “công lý của Ngài” và “ngợi khen Ngài” giúp ta kết luận rằng Thiên Chúa, trong đức công lý của Người, không làm ta sợ hãi; trái lại, chính Thiên Chúa – Đấng vốn có cả tình yêu của người cha và tình yêu của người mẹ – là “nguyên nhân” duy nhất thực hiện việc công chính hóa người có tội, nghĩa là sáng tạo hạnh phúc mới cho họ, giải thoát họ khỏi sự áp bức của tội lỗi.

2.6 Diễm Ca

77. Điều đáng ngạc nhiên là sách Diễm Ca đã được hoan nghênh trong Kinh Thánh tiếng Do Thái (trong số năm cuốn sách); bởi vì nội dung của nó hoàn toàn chuyên biệt. Được công nhận là một bản văn linh hứng và được lồng vào Qui điển Kitô Giáo, nó đã dẫn đến một sự giải thích Kitô học độc đáo. Diễm Ca là một bài thơ ca ngợi tình yêu hôn nhân, một tình yêu đầy những kinh nghiệm nhân bản, nghĩa là một tình yêu hệ ở việc tìm kiếm lẫn nhau và hiệp thông bản thân giữa người đàn ông và người đàn bà. Việc tìm kiếm và hiệp thông này mang lại một sự năng động gây ấn tượng, gần như vô giới hạn, có sức hiển dung hai tạo vật nhân bản – một chàng chăn cừu và một nàng con gái trẻ – thành một vị vua và hoàng hậu, thành một cặp vợ chồng hoàng gia. Diễm Ca tôn vinh tình yêu nhân bản một cách đầy thi ca, một tình yêu thực sự trong chiều kích cơ thể của nó, và đồng thời trong chiều kích tinh thần. Nó làm như vậy một cách cởi mở đối với chiều kích huyền nhiệm hơn, và thần học hơn. Bản văn này có một đặc điểm “đa nghĩa” (polysémie) nào đó: thêm vào ý nghĩa thứ nhất của tình yêu nhân bản, ta thấy nhiều ý nghĩa khác, bắt nguồn từ ý nghĩa vợ chồng này, có thể nói, vốn là biểu tượng của tất cả các hình thức khác của tình yêu.

Trong số những ý nghĩa bổ sung này, ý nghĩa đầu tiên liên quan đến tình yêu của Thiên Chúa đối với mọi con người nhân bản. Bài thơ này, dựa trên lời khẳng định rằng Thiên Chúa tạo nên con người “giống hình ảnh Người” (St 1:27), ca ngợi tình yêu nồng nàn của một người đàn ông và một người đàn bà như hình ảnh của tình yêu say mê và bản vị của Thiên Chúa. Tình yêu của Thiên Chúa đối với mọi tạo vật nhân bản (xem Kn 11:26) mang mọi đặc điểm của tình yêu nam giới (người phối ngẫu, người chồng và người cha), đồng thời, của tình yêu nữ giới (người phối ngẫu, người vợ và người mẹ).

Tình yêu đích thực của con người là một biểu tượng mà qua trung gian của nó, Đấng tạo dựng tự mặc khải Người cho con người như là Thiên Chúa Tình yêu (xem 1 Ga 4:7.8.16). Với sự giúp đỡ của nhiều biểu tượng, sách này giúp chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa là nguồn của tình yêu nhân bản: Người tạo ra nó, nuôi dưỡng nó, làm cho nó phát triển và ban cho nó sức mạnh để tìm kiếm người khác, để sống với anh ta (cô ta), và cuối cùng với gia đình hoặc cộng đồng, trong một hiệp thông hoàn hảo. Đó là lý do tại sao mọi tình yêu của con người (được xem xét cho chính nó, chứ không chỉ là một ẩn dụ) chứa hạt giống và sự năng động thần thánh. Từ sự kiện này, người nào biết và sống tình yêu có thể khám phá và biết được Thiên Chúa. Hơn nữa, qua trung gian tình yêu nhân bản, người đàn ông và người đàn bà nhận được ảnh hưởng của chính tình yêu của Thiên Chúa (xem 1 Ga 4:17). Khi ở lại trong tình yêu, chúng ta bước vào hiệp thông với Thiên Chúa (xem 1 Ga 4,12).

Ý nghĩa thứ hai cần xem xét liên quan đến tình yêu của Thiên Chúa đối với dân giao ước (xem Hs 1-3, Edk 16, 23, Is 5:1-7, 62:5, Grm 2-3). Tình yêu này của Thiên Chúa tìm thấy một sự hiện thực hóa mới và đạt đến sự thành toàn của nó trong tình yêu của Chúa Kitô dành cho Giáo hội. Chúa Kitô tự ví Người hoặc được trình bày trong những hoàn cảnh khác nhau như người chồng (xin xem Mc 2:19; Ga 3:29; 2 Cr 11:2; Eph 5:25.29; Kh 19:7.9; 21:2.9). và Giáo hội được trình bầy như vị hôn thê (xem Kh 19:7.9), trở thành nàng dâu trong bối cảnh hoàn tất cánh chung (xem Kh 21:9). Tình yêu của Chúa Kitô đối với Giáo hội quan trọng và căn bản đối với sự cứu rỗi của con người đến nỗi Tin Mừng Gioan trình bày sự can thiệp của Chúa Giêsu trong đám cưới Cana như khởi đầu của các dấu lạ của Người (xem Ga 2: 11), của mọi hoạt động của Người. Chúa Giêsu tự mặc khải như người phối ngẫu đích thực (xem Ga 3:29), người ban cho mọi người rượu ngon dư thừa, và do đó mặc khải tình yêu mà Người sẽ ban cho “đến cùng” (x. Ga 13:1 xem Ga 10:11.15; 15:13; 17:23.26).

2.7 Các sách khôn ngoan

78. Các sách khôn ngoan cũng đưa ra ánh sáng nhiều đặc điểm của Thiên Chúa Tạo Hóa, diễn tả Người như một Thiên Chúa thương xót và khôn dò. Tạo hóa Xuất hiện như một Thiên Chúa thương xót, Đấng quên hết tội lỗi của con người trong viễn cảnh hoán cải của họ. Mặt khác, Người mầu nhiệm và không tài nào hiểu thấu, khiến con người nhìn nhận các giới hạn tạo vật của mình, bằng lòng bước đi một cách trung thành, vì biết mình không thể khám phá hết những gì Người hoàn thành trong lịch sử. Trong chương này, chúng ta nhấn mạnh các đặc điểm nhờ đó nền văn học khôn ngoan tìm cách minh họa rằng Thiên Chúa là sự thật chân thực: nền văn học này tìm cách dẫn con người đến một việc gắn bó với đức tin vào Chúa và tìm cách khơi dậy trong họ sự kính sợ Chúa, nghĩa là, một sự kính trọng sâu sắc, ý thức được khoảng cách mênh mông hiện hữu giữa Đấng Tạo Hóa và các tạo vật của Người (xem Gv 3:10-14).

2.7.1 Sách Khôn ngoan và Huấn Ca: Lòng từ tâm của Thiên Chúa

a. Sách Khôn ngoan

79. Lòng từ tâm của Thiên Chúa, tự phát biểu cách riêng trong câu Kn 11:15-12.27, qua trung gian nghịch lý của “tai ương” giáng xuống người Ai Cập, và biểu lộ chiều kích sư phạm trong các hình phạt của Thiên Chúa. Thiên Chúa giao ước, chúa tể của sáng thế (xem Kn 16:24-29; 19:6-21), can thiệp liên tiếp vào lịch sử cứu độ, Người chăm sóc dân Người như tất cả đều là “công chính “(xem Kn 3:1-4.19); Chính Người là Đấng ban thưởng và trừng phạt (xem Kn 4:20-5:23; 11:1-5), đối xử với mỗi con người một cách khoan dung để dẫn họ đến sự hoán cải (x. Kn 12:9-18; Rm 2:3-4; 2 Pr 3:9) và để dạy người công chính biết phán xét một cách khoan hồng (xem Kn 12:19-22).

Sau khi nhắc nhớ rằng vào thời Xuất hành, Thiên Chúa đã trừng phạt một cách vừa phải các kẻ thù của dân Người, tác giả giải thích các lý do của cách hành xử đó: “Quả vậy, Chúa toàn năng, từ chất thể không hình không dạng, đã ra tay tạo dựng vũ hoàn” (Kn 11:17); “Nhưng Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải” (Kn11:23; Tv 103:8-12; 130:3-4; Is 34:6-7).

Sự chừng mực đối với Ai Cập (x. Kn 11:15-12.2) không phải là dấu hiệu của sự yếu đuối; trái lại, Thiên Chúa đã hành động như vậy vì lòng thương xót của Người đối với mọi người, và vì Người muốn dẫn dắt con người đến sự hoán cải, ngõ hầu, khi từ bỏ sự gian ác, họ vươn tới niềm tin vào Người: “Vì thế, những ai sa ngã, Chúa sửa dạy từ từ. Chúa cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ họ đã phạm tội gì, để họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa” (Kn. 12:2). Sự toàn năng của Thiên Chúa không được biểu lộ trong sức mạnh của Người, nhưng trái lại, trong lòng thương xót của Người. Quyền năng của Thiên Chúa không phải là nguồn phán xét, mà là nguồn tha thứ (xem Hc 18:7-12, Rm 2:4). Chính sự toàn năng của Thiên Chúa đã thúc đẩy lòng thương xót của Người. Lòng thương xót của Thiên Chúa cũng được biểu lộ trong cách Người trừng phạt cư dân của xứ sở (xem Kn 12: 8): Người đối xử với họ bằng lòng nhân từ và khoan hồng (xem Kn 11:26), bởi vì họ là những con người mỏng dòn (xem Tv 78:39). Nếu Thiên Chúa đã sử dụng sự khoan dung trong hình phạt của Người và tha thứ cho họ, thì đó không phải là sự bất lực, cũng không phải vì Người không biết tội ác của họ (xem Kn 12:11). Tác giả không dừng lại ở đó, và phơi bày ở đây một trong những suy tư đẹp đẽ nhất của Cựu Ước: “Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên… Chúa xử khoan dung với mọi loài, vì mọi loài đều là của Chúa, Đấng dung tha mọi sinh vật” (Kn 11:24.26). Thiên Chúa không thể không yêu những gì chính Người đã tạo nên, vì thần trí bất diệt của Người ngự trong tất cả mọi sự (xem Kn 1:7; 12:1). Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sự để được cứu rỗi, Người thương xót mọi người vì muốn họ hoán cải và Người không muốn phá hủy bất cứ thứ gì Người đã tạo ra (xem Kn 11:26).

Tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ ngay trong cái chết sớm của người công chính. Người yêu người công chính vì nhân đức của họ, vì cuộc sống không tì vết của họ (Kn 4: 9), và Người rút họ ra khỏi thế giới độc ác này, để họ khỏi bị thối nát: ” Người công chính đẹp lòng Thiên Chúa, nên được Thiên Chúa yêu thương. Và họ sống giữa những kẻ tội lỗi, nên được Thiên Chúa dời đi nơi khác” (Kn 4:10; xem St 5:24; Huấn ca 44:16; Dt 11:5).

Tình yêu của Chúa dành cho các tạo vật của Người không phải là một tình yêu tĩnh tụ mà là một tình yêu năng động được bộc lộ bằng hành động. Sự kiện các tạo vật hiện diện và tiếp tục hiện diện trong hiện hữu, và được duy trì như hữu thể đa dạng, hoạt động, là bằng chứng hữu hình nhất về tình yêu của Thiên Chúa trong hành động.

b. Sách Huấn Ca

80. Ben Sira, cũng vậy, có ý thức cao nhất về ý nghĩa sự vĩ đại của Thiên Chúa, toàn năng và hay thương xót. Ông nói về Thiên Chúa một cách đầy cảm xúc, phấn khởi và kính sợ. Thiên Chúa là toàn năng và, trong sự quan phòng của Người, Người ban cho người chép sự khôn ngoan (xem Hc 37:21; 39:6), và thành công mà nó mang lại (xem Hc 10:5). Nó cũng mang lại sự giàu có cho người nghèo (xem Hc 11:12-13.21). Cũng chính từ Người mà có bản án tử hình dành cho mọi người (xem Hc 41:4). Ngoài sự vĩ đại của Thiên Chúa, lòng thương xót của Người đã được nhấn mạnh: “Ai đo lường được Người mạnh mẽ quyền năng đến đâu? Ai dám kể ra lòng thương xót của Người?” (Hc 18:5). Vì sự mỏng dòn của tạo vật, được tạo thành từ thịt từ máu, từ đất từ tro, nên Thiên Chúa đã khoan dung với con người, đổ tràn trên “mọi tạo vật” (Hc 18:13; xem Kn 11:21-12:18; Tv 145:9) lòng thương xót của Người (xem Hc 18:10). Sự khoan dung này của Thiên Chúa không nên dẫn đến việc giải trách nhiệm cho con người, nhưng đúng hơn, là một lời mời gọi hoán cải: “Hãy trở về với Đức Chúa và từ bỏ tội lỗi, hãy cầu khẩn trước nhan Người và giảm bớt dịp tội. Hãy đoạn tuyệt với gian ác, trở về cùng Đấng Tối Cao, và cực lực gớm ghét mọi điều ghê tởm” (Hc 17:25-26).

2.7.2 Sách Gióp và Sách Giảng viên: Đặc tính khôn dò của Thiên Chúa

a. Sách Gióp

81. Sách Gióp – được đóng khung bằng một lời mở đầu kép (G 1:1-2:13) và một đoạn kết kép (G 42:7-17) – là một cuộc đối thoại dài, qua đó, bắt đầu từ một Thiên Chúa rõ ràng “được biết”, người ta vươn tới sự mặc khải về một Thiên Chúa không lường trước được và rất huyền bí.

Gióp đã rất mong mỏi sự hiện diện của Chúa (x. G 9:32-35; 13:22-24; 16:19-22; 23:3-5; 30:20), ông cũng đã yêu cầu một câu trả lời (x. G. 31:35), vì ông muốn thảo luận nguyên nhân của nó một cách trực tiếp với Người. Nhưng quả là một sai lầm khi tự đối đầu với Thiên Chúa, bằng cách đối xử với Người ngang hàng. Thử thách cách hành động của Thiên Chúa, bằng cách yêu cầu Người giải thích các phán đoán của Người, Gióp, theo một cách nào đó, đã tự biến mình thành người ngang hàng với Đấng Tạo Hóa của ông. Nhưng ông ta không thể đạt đến chiều cao vô tận của Đấng toàn năng, mà sự hoàn hảo mà tâm trí con người không thể với tới được (xem G 11:7). Để diễn tả hùng hồn và thi vị sự siêu việt thần thiêng vượt qua mọi hiểu biết của con người, thiên đàng, Shéol (tử giới), trái đất và biển khơi được trình bày như những biểu tượng chiều cao, chiều sâu, chiều dài và chiều rộng vũ trụ, bị sự bao la của Thiên Chúa vượt qua (xem G 11:8-9). Độ sâu của mầu nhiệm Thiên Chúa khiến con người ra ngu muội và bất lực (xem Am 9: 1-4; Grm 23:24; Đnl 30:11-14; Eph 3:18-21). Thực thế, các hữu thể nhân bản được ban cho sự hiểu biết trực giác về các giới hạn của sự vĩ đại nhân bản. Các tiên tri đã chỉ trích dữ dội “những người tự cho mình khôn ngoan, những người tự cho mình thông minh” (Is 5:21; xem Is 10:13; 19:12; 29:14; Grm 8:89: 9:22-23, Edk 28).

Mặc dù Thiên Chúa không đáp ứng bất cứ kêu cầu nào của Gióp, tuy nhiên, Người vẫn có một diễn từ tuyệt vời trong các chương 38-41 của sách. Trong một cuộc thần hiện vĩ đại được đánh dấu bởi một cơn bão, cuối cùng, Người lên tiếng, không phải để trả lời những người đã góp tiếng, mà là đưa Gióp vào một loại thẩm vấn, để dẫn ông vào mầu nhiệm về bản vị của Người. Trong diễn từ của Người, rất nhiều câu hỏi nhanh chóng nối tiếp nhau, đôi khi đi kèm với những mô tả lớn lao. Thiên Chúa làm cho Gióp hiểu được sự thiếu hiểu biết của ông, các giới hạn của tạo vật, trong khi sự khôn ngoan của Đấng Tạo hóa không hề biết bất cứ giới hạn nào (xem G 28). Cùng một lời khẳng định ấy đã làm cơ sở cho mọi câu hỏi của Chúa: Thiên Chúa hiện diện trong sáng thế của Người, trong sự đa dạng vô tận của nó, vẫn là một mầu nhiệm đối với con người. Các tiêu chuẩn phán đoán phàm nhân không thỏa đáng khi nói đến việc tự đo lường mình với các mầu nhiệm của sáng thế.

Gióp đã biết Chúa bằng các việc “nghe nói” (G 42,5), theo mô hình truyền thống của một nền thần học dựa trên nguyên tắc cứng ngắc của thưởng phạt. Sau diễn từ dài của Thiên Chúa, ông thấu hiểu Thiên Chúa một cách thỏa đáng hơn. Ở cuối cuộc đụng đầu với Người, ông thú nhận: “Con biết rằng việc gì Ngài cũng làm được, không có gì Ngài đã định trước mà lại không thành tựu. Ai là kẻ dám dùng những lời thiếu khôn ngoan hiểu biết để làm cho kế hoạch của Ngài không còn được rõ ràng minh bạch?” (G 42:2-3). Gióp đã tìm thấy vị trí của mình, và có thể khám phá ra sự vĩ đại của Thiên Chúa và việc không thể vươn tới sự toàn năng của Người. Cuộc gặp gỡ của ông với Thiên Chúa đã cho ông thấy sự phù phiếm trong cao ngạo dự kiến một vụ kiện chống lại Thiên Chúa của ông, ông vẫn là một người đau khổ, nhưng không con cao ngạo nữa. Vào cuối cuốn sách, ông tự rút lui và coi bản thân như tro bụi, và do đó, trở nên chân thực và nhân bản hơn (xem G 42:6).

Gióp hiểu rằng con người không thể biết được các kế sách của Thiên Chúa, nhưng ông cũng hiểu rằng mắt ông đã nhìn thấy chính Thiên Chúa, qua công trình Người thực hiện trên thế giới (xem G 42:5). Nhìn vũ trụ và loài người bằng con mắt của Thiên Chúa, ông có thể nhìn nhận lỗi lầm liên quan đến tầm nhìn của chính mình về sự vật, và sự kiện mình đã đi quá xa; đó là lý do tại sao ông tuyên bố: “con xin rút lại” (G 42:6a). Đối với Gióp, sự khôn ngoan bây giờ hệ ở việc thú nhận rằng Thiên Chúa có thể được nhìn nhận là công chính mà không được hiểu đầy đủ. Con người có thể cam kết mãi trung thành với Người mà không biết “từ đầu đến cuối” (Gv 3:11) ý nghĩa của những gì Thiên Chúa đã làm. Thiên Chúa mãi là một mầu nhiệm khôn dò đối với các hữu thể nhân bản.

b. Sách Giảng viên

82. Một cách chậm hơn, tác giả sách này khai triển suy tư về chủ đề đặc tính khôn dò trong việc làm của Thiên Chúa. Hành động theo quan điểm của bậc hiền nhân (xem Gv 8:16-17), Ông bắt đầu tìm kiếm ý nghĩa của cuộc sống, thông qua những điều ông được thấy trong thực tại của thế giới, trên trái đất và “dưới ánh mặt trời”. Bậc hiền nhân muốn hiểu ý nghĩa của sự bận bịu đến chóng mặt của con người trên trái đất (Gv 8:16), nên ông nhận xét: “Đứng trước mọi công trình của Thiên Chúa, con người không thể hiểu được những công trình được thực hiện dưới ánh mặt trời […]. Ngay cả khi bậc hiền nhân quả quyết đã biết, ông cũng không thể khám phá ra (Gv 8:17, xem G 42:3). Không ai có thể thay đổi những gì Thiên Chúa đã làm trong thời gian của Người (xem Gv 1:15; 3:1-8.14; 6:10; 7:13). Thiên Chúa đã ngăn cản con người biết công việc của Người (xem Gv 7:13-14, xem G 9:2-4). Giảng Viên 11:5 tiếp tục chủ đề này: công trình của Thiên Chúa được mô tả ở đây như không thể nào hiểu thấu và được so sánh với mầu nhiệm thai nghén trong bụng mẹ. Con người ngu dốt ý nghĩa của cuộc sống, nhưng, trong thánh ý Thiên Chúa, mọi sự được tạo dựng đều có không gian và thời gian riêng của nó (xem Gv 3:11). Bí nhiệm trong việc làm của Thiên Chúa là điều không thể với tới, không thể dò thấu và không thể hiểu thấu được đối với người đi tìm ý nghĩa dựa trên kinh nghiệm của chính mình. Giống như chính Thiên Chúa, công trình của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, vẫn là một mầu nhiệm khôn dò đối với các hữu thể nhân bản.

Kết luận

83. Chứng từ của Khôn ngoan Kinh thánh làm sáng tỏ sự thật của Thiên Chúa, được mô tả như một Thiên Chúa giầu lòng thương xót; đồng thời, Người được trình bầy như một mầu nhiệm khôn dò đối với các hữu thể nhân bản. Lòng từ tâm của Thiên Chúa dẫn con người đến việc hoán cải và đức tin, trong khi tính cách khôn dò của Thiên Chúa khiến họ nhìn nhận sự vĩ đại của Đấng Tạo Hóa và các giới hạn của chính họ, và dẫn họ đến chỗ “kính sợ Chúa” và tuân giữ các lệnh truyền của Người.

Chúng ta hãy lưu ý rằng cách đề cập đến chủ đề “sự thật về Thiên Chúa”, một mặt, trong sách Khôn ngoan và sách Huấn ca, và mặt khác trong sách Gióp và sách Giảng viên, hoàn toàn khác nhau. Theo hai sách đầu tiên, sự thật có thể đạt tới bằng lý trí và / hoặc bằng hiểu biết Tôra, trong khi sách Gióp và sách của Giảng viên nhấn mạnh đến việc con người không có khả năng hiểu được mầu nhiệm Thiên Chúa và công việc Người làm: Chỉ còn lại niềm tin vào Thiên Chúa của các tín hữu, mặc dù họ không hiểu luận lý của các biến cố trên thế giới.

Tân Ước thay đổi chân trời suy tư và cho thấy rằng sự thật vượt ra ngoài sự thấu hiểu mà sự Khôn ngoan của Israel vốn có ở đấy: nó được tỏ hiện đầy đủ trong con người của Chúa Kitô.

3. Chứng từ của các bản văn Tân Ước

84. Trong Tân Ước, có thể phân biệt theo thể loại văn học chuyên biệt của chúng, các Tin Mừng, các thư của các Tông đồ, và cuối cùng là Sách Khải Huyền. Sự phân loại này xác định việc chúng ta trình bày vấn đề “sự thật” như các sách này đề cập đến nó.

3.1 Các sách Tin mừng

Trong số các sách của Kinh thánh Kitô giáo, địa vị trổi vượt dành cho các sách Tin Mừng, được coi như những chứng từ bằng văn bản về sự mặc khải thần thiêng ở đỉnh cao của nó. Thực thế, chúng ta tìm thấy ở đó sự chứng thực cho việc tự tỏ mình ra của Thiên Chúa qua Con của Người, Đấng, nhờ trở thành phàm nhân, đã sống, chịu đau khổ và chết, và nhờ sự phục sinh của Người đã nâng nhân tính của chúng ta lên vinh quang thần thiêng. Hiến chế Dei Verbum quả quyết: “Sự thật sâu xa […] về Thiên Chúa và sự cứu rỗi con người rạng sáng cho chúng ta trong Chúa Kitô” (DV, số 2). Hiến chế rút tỉa hậu quả của lời quả quyết này: “Giữa tất cả các sách Kinh thánh, ngay cả những sách trong Tân Ước, các sách Tin mừng, đều có một ưu thế xứng đáng, bao lâu chúng tạo nên chứng từ trổi vượt về cuộc sống và về học lý của Lời Nhập thể, vị Cứu tinh của chúng ta” (DV:18). Cùng bản văn của công đồng này hỗ trợ nguồn gốc Tông đồ của bốn sách Tin Mừng: các Tông đồ, với tư cách là “nhân chứng tận mắt và những người phục vụ Lời Chúa” (Lc 1:2), cũng như các môn đệ của các ngài, nối kết Giáo hội với chính Chúa Kitô, bằng lời chứng viết của các sách Tin mừng.

Hơn nữa, Dei Verbum xác nhận tính cách lịch sử của các sách Tin Mừng: chúng “trung thành truyền đạt những gì Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, trong cuộc đời của Người giữa những con người, thực sự đã làm và dạy vì sự cứu rỗi vĩnh cửu của họ” (DV, 19). Sau đó, Hiến chế mô tả diễn trình dẫn đến việc soạn thảo bốn sách Tin Mừng: những sách này không tạo thành một tác phẩm tượng trưng, thần thoại hay thi ca phát xuất từ các tác giả ẩn danh, nhưng chúng đại diện cho một trình thuật đáng tin cậy các biến cố trong cuộc đời và thừa tác vụ của Chúa Giêsu. Sẽ là một sai lầm khi tìm kiếm một sự tương ứng chính xác giữa từng chi tiết của bản văn và một biến cố đặc thù này nọ, vì viễn cảnh như vậy không tương ứng với bản chất cũng như dự án của các Tin mừng. Tuy nhiên, các nhân tố khác nhau có thể sửa đổi các tường thuật và thiết lập sự khác biệt giữa chúng không ngăn cản việc trình bày các biến cố cách xứng đáng. Đôi khi người ta sai lầm duy trì giả thuyết cho rằng có sự gián đoạn giữa Chúa Giêsu, và các truyền thống có nhắc đến Người, hoặc sự thiếu quan tâm đối với bản văn để trình bày nó một cách thỏa đáng, hoặc việc nó không có khả năng làm điều đó. Trái lại, các sách Tin mừng cho phép nối kết chúng ta một cách trung thực với Chúa Giêsu đích thật.

3.2 Các Tin Mừng nhất lãm

85. Bây giờ, đầu tiên, trong các Tin mừng nhất lãm và sau đó trong Tin mừng Gioan, chúng ta hãy xem xét Chúa Kitô đã tiết lộ sự thật nào về Thiên Chúa và về sự cứu rỗi con người. Hiển nhiên, ta không thể trình bày đầy đủ vấn đề ở đây, mà chỉ có thể đề cập một loạt các nhận xét quan trọng để thấu hiểu nó.

a. Sự thật về Chúa

Theo Mt 11:27 (x. Lc 10:22), Chúa Giêsu khẳng định: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho”. Chúa Giêsu chứng thực một mối liên hệ tuyệt đối và một hiểu biết hỗ tương giữa chính Người và Thiên Chúa. Thiên Chúa biết Chúa Giêsu như Con của chính Người (xem Mt 3:17; 17:5; Lc 3:22; 9:35) và Chúa Giêsu biết Thiên Chúa như Cha của chính Người, Đấng mà Người có mối liên hệ hoàn toàn độc đáo. Sự hiểu biết này về Chúa Cha là nền tảng của việc Chúa Giêsu có khả năng mặc khải Thiên Chúa và làm ta biết được khuôn mặt thật của Người. Và sự mặc khải của Người về Thiên Chúa như Cha luôn ngụ ý muốn nói đến sự mặc khải về chính Người như Chúa Con. Các yếu tố này đặt nền tảng cho nhiệm vụ chính của sứ mệnh Người: là mặc khải Thiên Chúa. Lời nói của Chúa Giêsu, và cả công trình của Người, và toàn bộ hành trình của Người đều mặc khải Thiên Chúa, và đòi phải liên tục chú ý đến sự mặc khải này.

Trong Tin Mừng Mátthêu, Chúa Giêsu mặc khải cho các thính giả của Người Thiên Chúa như Cha một cách đặc biệt rõ ràng. Sự mặc khải này xuất hiện đặc biệt trong Bài giảng trên núi (xem Mt 5-7). Chúa Giêsu cho các thính giả của Người biết rằng Cha của họ biết họ cần những gì trước khi họ kêu cầu (xem Mt 6:8) và dạy họ quay về với Thiên Chúa bằng cách gọi Người là “Cha của chúng con ở trên trời”(Mt 6:9). Người dạy họ về sự quan tâm lo lắng của Chúa Cha, một quan tâm khiến cho mối quan tâm của con người trở nên thừa thãi (xem Mt 6:25-34). Chúa Cha, Đấng mà các ơn phúc được ban cho cả người tốt lẫn người xấu, là mô hình của mọi hành động: “Do đó, các con cũng hãy hoàn hảo như Cha trên trời của các con là Đấng hoàn hảo” (Mt 5:48). Chúa Giêsu khẳng định rằng chỉ có ai thực hiện “ý muốn của Cha Ta ở trên trời” (Mt 7:21) mới ở trên đường công chính, và sẽ tránh khỏi thảm họa cuối cùng (xem Mt 7:24-27). Các thính giả của Chúa Giêsu là “ánh sáng thế gian” (Mt 5:14), và có bổn phận làm cho người ta biết Chúa Cha bằng những việc tốt lành của họ, để người ta “tôn vinh” Cha “ở trên trời” (Mt 5:16). Khi mặc khải Chúa Cha, Chúa Giêsu cũng giao phó sứ mệnh làm người ta biết Chúa Cha.

Trong Tin mừng Luca, Chúa Giêsu, khi mặc khải Chúa Cha, trước nhất, đã nhấn mạnh đến lòng thương xót của Người đối với các tội nhân. Ngài minh họa một cách tuyệt vời lòng thương xót của Thiên Chúa trong câu chuyện dụ ngôn về người cha có hai con trai và chào đón một cách hân hoan và đầy thương xót đứa con đã hư mất, bằng cách, mặt khác, cố gắng thuyết phục người con vẫn ở nhà (x. Lc 15:11-32). Chúa Giêsu giải thích và biện minh, với sự giúp đỡ của dụ ngôn này, thái độ của Người đối với tội nhân (x. Lc 15:1-10). Trong phần kết của câu chuyện liên quan đến người thu thuế Giakêu, Người khẳng định: “Thực thế, Con Người đến tìm và cứu lấy những gì đã hư mất” (Lc 19:10). Do đó, Người trình bày chính tâm điểm sứ mệnh của Người và biểu lộ ý muốn và hành động của Chúa Cha.

Cách Thánh Máccô mô tả buổi đầu thừa tác vụ công khai của Chúa Giêsu đầy đủ ý nghĩa và chương trình: “Sau khi ông Gioan bị nộp, Chúa Giêsu đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói: ‘Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy hối cải và tin vào Tin Mừng’”(Mc 1: 14-15). Nội dung lời loan báo của Chúa Giêsu là “Tin Mừng của Thiên Chúa”, Tin mừng nói về Thiên Chúa và đến từ Thiên Chúa. Chúa Giêsu đến như Đấng mặc khải Thiên Chúa, và việc mặc khải của Người là Tin mừng. Người tuyên bố rằng Nước Thiên Chúa đã gần kề. Thực tại của “Vương quốc Thiên Chúa” là tâm điểm lời rao giảng của Chúa Giêsu trong Tin mừng nhất lãm. Lời rao giảng này cho thấy chủ quyền vương đế của Thiên Chúa, mối quan tâm mục tử của Người đối với con người, sự can thiệp tích cực và mạnh mẽ của Người vào lịch sử loài người. Trong suốt thừa tác vụ và bằng tất cả hành động của Người, Chúa Giêsu giải thích và phân tích sự thật này về Thiên Chúa.

b. Sự thật về ơn cứu rỗi con người

86. Con người là một tạo vật của Thiên Chúa mà với họ, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đại diện cho một mô hình mẫu mực về lòng biết ơn, vâng phục và cởi mở, đối diện với Chúa Cha, vốn là nền tảng của mọi ơn cứu rỗi.

Việc chữa lành bệnh tật và việc giải thoát những người bị quỷ ám là một phần chủ yếu trong thừa tác vụ của Chúa Giêsu. Thánh Mátthêu đặt cùng một bản tóm tắt này ở phần đầu (Mt 4:23) và phần cuối (Mt 9:35) trình thuật về buổi khởi đầu thừa tác vụ của Chúa Giêsu (xem Mt 5:1-9.34). Trong bản tóm tắt này, hai hành động của Chúa Giêsu được đề cập: việc loan báo Tin Mừng Nước Trời và việc chữa lành “mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân” (Mt 4:23). Trong hành động này của Chúa Giêsu, cùng một lúc cho thấy cả sự tật nguyền lẫn các nhu cầu của con người, và sự đại lượng và quyền năng của Chúa Giêsu trong việc vượt qua nỗi khốn khổ này. Đấng loan báo Nước Thiên Chúa mang lại sự cứu rỗi đầy hiệu lực cho cơ thể, và biểu lộ lòng từ bi của Thiên Chúa đối với tạo vật đau khổ của Người, cũng như ý chí muốn cứu vớt họ của Người. Hành động này của Chúa Giêsu được chào đón một cách nhiệt tình. Do đó, Thánh Mátthêu phát biểu như sau: ” Thiên hạ đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền: những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt ; và Người đã chữa họ” (Mt 4:24). Trong nhiều câu chuyện, rõ ràng Chúa Giêsu không áp đặt sự chữa lành; Người giả định phải có đức tin nơi những người đến với Người (xem Mt 8:10; 9:22.28; 15:28). Tường thuật về chuyến viếng thăm Nadarét của Người kết thúc bằng lời nhận xét: “Và Người không làm được nhiều phép lạ ở đó, vì họ thiếu đức tin” (Mt 13:58).

Các vụ chữa lành là có thật và có ý nghĩa, nhưng chúng không phải là mục tiêu của thừa tác vụ Chúa Giêsu. Ngay cả trước khi sinh ra, thiên thần đã giải thích cho Thánh Giuse ý nghĩa tên của Chúa Giêsu:

“Ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1:21). Nỗi khốn khổ lớn nhất của con người không phải là bệnh tật, mà là tội lỗi, nghĩa là mối liên hệ với Thiên Chúa và với người lân cận đã sụp đổ và tan vỡ. Con người không còn khả năng thoát khỏi tình trạng khốn khổ này, họ cần một vị cứu tinh quyền năng, Đấng hòa giải họ với Thiên Chúa. Tên “Giêsu” có nghĩa là “Chúa cứu rỗi”. Trong ngôi vị Con của Người là Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã gửi đến Đấng Cứu Chúa của Israel và của toàn thể nhân loại. Chúa Giêsu đến gần những người tội lỗi, không phải với tư cách là một thẩm phán, nhưng là một thầy thuốc nhân từ, tìm cách chữa lành cho họ và kêu gọi họ hoán cải (xem Mt 9:12-13). Người hiến “mạng sống Người làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28; Mc 10:45). Máu của Người là “máu giao ước, đổ ra để chuộc tội lỗi” (Mt 26:28). Sự hy sinh đời sống Người đã đóng ấn cho một giao ước mới và dứt khoát giữa Thiên Chúa, Israel và toàn thể nhân loại; Người phê chuẩn sự hòa giải của Thiên Chúa với loài người. Đó là một hồng ân nhưng không của Thiên Chúa. Chấp nhận lời mời để được cứu rỗi, hoặc từ chối nó và đánh mất chính mình, chỉ phụ thuộc vào quyết định tự do của con người (x. Mt 22:1-13; 25:1-13.14-30).

Tin Mừng Luca đã mạnh dạn mô tả sự cứu rỗi qua trung gian Chúa Con hệ ở việc gì. Khi Chúa Giêsu sinh ra, một thiên thần của Chúa công bố: “Nầy, tôi loan báo cho anh em […] một niềm vui lớn: […] một Đấng Cứu Rỗi được sinh ra cho anh em là Chúa Kitô” (Lc 2:10-11). Sau đó, tác giả Tin Mừng mô tả toàn bộ công trình và hành trình của Chúa Giêsu cho đến khi Người chịu đóng đinh. Câu chuyện đóng đinh được tiếp theo bởi nhiều sự sỉ nhục mà vị cứu tinh và Chúa Kitô phải chịu, Đấng không tự cứu lấy mình (xem Lc 23:35-39). Nhưng ở phần cuối câu chuyện, một trong hai kẻ bất lương bị đóng đinh cùng với Người (Lc 23:33) đã ăn năn vì những hành động xấu xa của mình và bày tỏ niềm tin vào Chúa Giêsu và vào Nước Thiên Chúa mà Người công bố (xem Lc 23:40-42). Và Chúa Giêsu trả lời anh ta: “Quả thực, Ta nói với con, hôm nay, con sẽ ở Thiên đàng với Ta” (Lc 23:43). Chúa Giêsu hứa cho người bất lương ăn năn hối cải sự viên mãn của ơn cứu rỗi, hiệp thông tức khắc với Thiên Chúa, Đấng bao gồm sự tha thứ tội lỗi và việc vượt qua cái chết. Các lần hiện ra của Chúa Giêsu Phục sinh (Lc 24: 1-53) nhấn mạnh và xác nhận sự kiện này: Chúa Kitô đã đi vào vinh quang của Người (x.Lc 24:26), và Người là Đấng Cứu Rỗi, có khả năng ban ơn cứu rỗi mà Người đã hứa với người bất lương cùng bị đóng đinh.

Chúng ta hãy nhấn mạnh một lần nữa đặc tính phổ quát của ơn cứu rỗi được Đức Giêsu mặc khải và thực hiện. Sứ mệnh của Người được ngỏ trước hết với dân tộc Israel (xem Mt 15:24; xem Mt 10:6), nhưng nó có ý định dành cho mọi dân tộc. Tin Mừng của Người được loan báo khắp thế giới (xem Mt 2:14; 26:13; xem Mc 14: 9), và các môn đệ của Người được sai đến mọi dân tộc (x. Mt 28:19; x. Lc 24:47). Thiên Chúa đã sai Chúa Giêsu đến như Cứu Chúa của nhân loại.

3.3. Tin Mừng Gioan

87. Trong Tin Mừng Gioan, chúng ta tìm thấy một mối liên hệ chặt chẽ giữa sự thật về Thiên Chúa và sự thật liên quan đến sự cứu rỗi của con người. Do đó, trong Ga 3:16: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Thiên Chúa sai Con của Người xuống thế gian để cứu vớt loài người, nhưng khi sai Con đi, Người làm cho chính Người được biết đến, qua việc mặc khải mối liên hệ của Người với Con của Người và tình yêu của Người dành cho thế giới. Từ đó, đối với con người, phát sinh một mối tương quan sâu sắc giữa việc họ hiểu biết về Thiên Chúa và sự cứu rỗi của họ. Do đó, Chúa Giêsu mô tả cuộc sống vĩnh cửu, trong đó có sự cứu rỗi trọn vẹn: “Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô ” (Ga 17:3). Đấng trung gian là Chúa Giêsu, Lời Thiên Chúa và Con Thiên Chúa thành xác thịt (x. Ga 1:14). Người mặc khải Chúa Cha (x. Ga 1,18) và đem sự cứu rỗi đến cho loài người; còn hơn thế nữa, khi mặc khải Chúa Cha, Người mặc khải ơn cứu rỗi. Chúng ta sẽ xem xét vai trò của Chúa Giêsu trong ba khía cạnh: mối liên hệ của Chúa Cha và Chúa Con, mối liên hệ của Chúa Con Cứu thế với con người, việc con người vươn tới sự cứu rỗi.

a. Mối liên hệ của Chúa Cha và Chúa Con

88. Đặc điểm căn bản nhất của mối liên hệ giữa Chúa Cha và Chúa Con là sự hợp nhất hoàn hảo của các ngài: “Cha Ta và Ta, chúng Ta là MỘT” (Ga 10: 30); “Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha” (Ga 10:38, xem Ga 17:21.23). Đặc điểm của sự kết hợp này là việc hiểu biết nhau một cách mật thiết và là một tình yêu hoàn hảo: “Cha biết Ta và Ta biết Cha” (Ga 10:15). Chúa Cha yêu Chúa Con (cf Ga 3:35; 5:20; 10:17; 15:9; 17:23.24.26) và Chúa Con yêu Chúa Cha (x. Ga 14:31).

Chúng ta hãy lưu ý ngay rằng sự kết hợp, tình yêu và hiểu biết nhau vốn đặc trưng cho mối liên hệ giữa Chúa Cha và Chúa Con này tạo nền tảng và mô hình cho mối liên hệ giữa Chúa Con và con người. Chúa Giêsu cầu nguyện và xin Chúa Cha: “để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17:21; xem Ga 22-23). Tự trình bày Người như mục tử nhân lành, Chúa Giêsu tuyên bố: “Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha” (Ga 10:14-15). Cùng một cách này, liên quan đến tình yêu, cùng một sự so sánh đã thành hình: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy […] Đây là điều răn của Thầy : anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em “(Ga 15:9.12, xem Ga 13:34). Tình yêu của Chúa Con xuất phát từ tình yêu của Chúa Cha và tình yêu của các môn đệ phải bắt nguồn từ tình yêu mà họ đã nhận được từ Chúa Con, và phải phản ánh phẩm chất và cường độ của nó. Nguồn gốc của mọi sự luôn là Chúa Cha. Những gì Chúa Con truyền đạt đều phát xuất từ Chúa Cha và làm ta biết Chúa Cha: đó không chỉ là một ơn phúc của Chúa Cha, mà là sự thật về Chúa Cha, một sự thật trở thành mô hình cho hành động của con người.

Sự kết hợp hoàn hảo giữa Chúa Cha và Chúa Con không có nghĩa một bản sắc các vai trò. Chúa Con là người nhận được mọi sự từ Chúa Cha: đặc biệt, Chúa Giêsu quả quyết nhận được từ Chúa Cha sự sống, việc làm và lời nói: “Quả thật, Chúa Cha có sự sống nơi mình thế nào, thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy”(Ga 5:26, xem Ga 6:57). Chúa Con cũng phụ thuộc vào Chúa Cha về các việc làm: Chúa Con tự mình không thể làm được gì, Người chỉ làm những gì Người thấy Chúa Cha làm “(Ga 5:19). Nhiều lần, Chúa Giêsu quả quyết rằng giáo lý và lời nói của Người đến từ Chúa Cha: “Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật ; còn tôi, tôi nói lại cho thế gian những điều tôi đã nghe Người nói […] Chúa Cha đã dạy tôi thế nào, thì tôi nói như vậy” (Ga 8:26.28; cf 7:16). Chúa Giêsu kết thúc mọi hoạt động công khai của Người bằng câu tuyên bố này: “Không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì. Và tôi biết: mệnh lệnh của Người là sự sống đời đời. Vậy, những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi”(Ga 12:49-50).

Xu hướng cứu độ của sự phụ thuộc của Chúa Con vào Chúa Cha là điều hiển nhiên. Trong sức mạnh của sự sống mà Người có trong chính mình, Chúa Con, theo ý muốn của Chúa Cha, đã làm cho kẻ chết sống lại vào ngày cuối cùng (x. Ga 6: 39-40). Những lời Người nghe được từ Chúa Cha tạo thành học lý mà Chúa Giêsu truyền đạt cho con người (x. Ga 7:16; 17:8.14). Các việc làm mà Người học được từ Chúa Cha là trung tâm hoạt động của Người, và, được Tin Mừng viết ra và truyền đạt, chúng tạo thành nền tảng của đức tin nơi các thế hệ tương lai (xem Ga 20: 30-31). Như vậy, rõ ràng là chúng ta không thể bàn đến mối liên hệ vốn hợp nhất Chúa Cha và Chúa Con mà không xem xét ý nghĩa của nó đối với sự cứu rỗi của con người: mối liên hệ của Chúa Cha và Chúa Con có một giá trị cứu rỗi của riêng nó.

Cho đến nay, chúng ta đã thấy không thể tách Chúa Cha ra khỏi Chúa Con, cũng không thể tách mối liên hệ qua lại của các Ngài khỏi công việc cứu độ của Chúa Con. Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu không nói về Chúa Cha mà lại không nói đến Chúa Con, và mặt khác, Người không nói đến sự cứu rỗi của con người mà lại không nói đến mối liên hệ chặt chẽ kết hợp Chúa Cha và Chúa Con. Người tuyên bố: “Ai thấy Tôi là thấy Chúa Cha” (Ga 14:9; xem Ga 12:45), mặt khác: “ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết”(Ga 6:40). Do đó, sự thật về Thiên Chúa và sự thật về sự cứu rỗi của con người có liên quan mật thiết với nhau.

b. Mối liên hệ của Chúa Con Cứu thế với con người

89. Bằng cách ghi nhớ những gì chúng ta đã lưu ý, bây giờ chúng ta hãy tìm kiếm trong Tin Mừng Gioan những điều có liên quan đến công việc cứu độ của Chúa Con, và do đó, sự cứu rỗi của con người. Thánh Gioan Tẩy Giả trình bày Chúa Giêsu bằng những lời sau đây, trong lần xuất hiện công khai đầu tiên: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian” (Ga 1:29; cf Ga 1:36; Mt 1:21). Người Samaria hiểu rằng “Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (Ga 4:42). Mặt khác, việc nâng Chúa Giêsu lên thập giá có tính nền tảng đối với công việc cứu độ của Người. Cuối cùng, trong lời khẳng định long trọng của Người “TÔI HẰNG HỮU”, Chúa Giêsu tiết lộ một cách trổi vượt toàn bộ các khía cạnh của viễn ảnh cứu độ.

Trong cuộc đối thoại với Nicôđêmô, Chúa Giêsu từng tuyên bố: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”(Ga 3:14-15). Người cũng tuyên bố: ” Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga 8:28)[1]; nghĩa là, con người sẽ hiểu căn tính thực sự của Người, như sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúa Giêsu cũng nói về việc giương cao Người lên thập giá: “tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12:32). Người sẽ là “hạt lúa mì rơi xuống đất”, khi chết đi sẽ “sinh nhiều hoa trái” (Ga 12:24). Sự giương cao Người lên thập giá đồng thời là sự tôn vinh của Người (x. Ga 12:23.28; 17:1.5), nghĩa là sự mặc khải trọn vẹn về tình yêu của Người dành cho Chúa Cha, được bày tỏ trong việc vâng phục của Người đối với thánh ý Chúa Cha, Đấng đã sai Người (x. Ga 14:31; x. Ga 4:34), và cả tình yêu vô tận được Chúa Cha làm chứng, khi sai Con của Người và giao phó cho Người việc cứu rỗi thế giới (x. Ga. 3:16). Chấp nhận giờ đã định của Chúa Cha, Chúa Giêsu đẩy tình yêu của Người dành cho những kẻ thuộc về Người cho đến cực điểm, “đến cùng” (Ga 13:1). Lời cuối cùng của Người, trước cái chết của Người trên thập giá là: “Thế là đã hoàn tất!” (Ga 19:30). Khi chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã hoàn thành công việc mà Chúa Cha giao phó cho Người để cứu rỗi con người. Người mặc khải, không những bằng lời nói, mà cả bằng hành động, tình yêu của Người và tình yêu của Chúa Cha dành cho loài người.

Được Chúa Cha sai đến và nhận mọi sự từ Chúa Cha, Chúa Giêsu cho thấy một cách đặc biệt ý nghĩa cứu độ của chính con người mình trong những biểu thức khởi đầu bằng công thức “Tôi hằng hữu”. Với công thức này – nên được hiểu theo ánh sáng mặc khải Thiên Chúa từng ngỏ với Môsê “Ta là Đấng Hằng Hữu” (Xh 3:14), Chúa Giêsu phát biểu sự kiện này: Thiên Chúa Cha hiện diện trong con người của Người, và Người làm cho hiệu quả cứu rỗi của sự hiện diện này trở nên hiển thị. Chúa Giêsu sử dụng thành ngữ “Tôi hằng hữu” ba lần, không có bất cứ bổ ngữ nào: khi Người đi trên mặt nước (xem Ga 6:20) (*); nói đến lúc Người được giương cao trên thập giá (x. Ga 8:28) và trong lời khẳng định long trọng: “Thật, tôi bảo thật các ông : trước khi có ông Ápraham, thì tôi, Tôi Hằng Hữu” (Ga 8:58). Trong mọi trường hợp, Người khẳng định sự hiện diện cứu rỗi của mình, đặt cơ sở trên sự kết hợp hoàn hảo của Người với Chúa Cha. Trong bảy lần khác, biểu thức “Tôi hằng hữu” được xác định bởi bổ ngữ nhằm giới thiệu các thực tại căn bản của đời người. Ở đây chúng ta chỉ có thể chỉ ra một cách ngắn gọn ý nghĩa của những lời lẽ này.

Biểu thức đầu tiên, Chúa Giêsu nói: “Ta là (*) bánh ban sự sống” (Ga 6:35.48.51). Chúng ta hãy thêm ngay rằng chữ “sự sống” được sử dụng trong hai diễn từ khác (x. Ga 11:25; 14:6), và hoàn toàn hiện diện trong mọi người. Cuộc sống trần gian là sự thiện căn bản, nền tảng của mọi sự thiện khác. Chúa Giêsu mặc khải rằng sự sống vĩnh cửu, một sự sống hệ ở việc kết hợp mạnh mẽ và trọn vẹn hơn với Thiên Chúa (Ga 17:3), và là sự thiện cao cả nhất, và là sự hoàn hảo của ơn cứu rỗi. Lời của Chúa Giêsu nói trên bánh mì mang theo ba quả quyết kép:

1.Cơm bánh giữ cho anh em sống trên trái đất. Từ Thầy, anh em nhận được sự sống đời đời.

2.Anh em phụ thuộc cơm bánh như của nuôi để có thể sống; không cơm bánh, sự sống không thể có. Anh em phụ thuộc vào Thầy để có cuộc sống vĩnh cửu; anh em tự mình không thể có được cuộc sống này.

3.Để có thể sống, anh em phải ăn cơm bánh. Ai không ăn sẽ chết. Để có cuộc sống vĩnh cửu, anh em phải tin vào Thầy. Ai không tin sẽ hư mất.

Các lời lẽ khác Chúa Giêsu dùng để định nghĩa chính bản chất của con người của Người được sắp xếp giống hệt với cách vừa được mô tả, và mang một nội dung cứu rỗi. Chúng thường được liên kết với một trong những dấu lạ Người thực hiện, và nằm bên trong các giáo huấn bao quát hơn. Bối cảnh làm rõ ý nghĩa của nó.

Biểu thức thứ hai: “Tôi là (*) ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8:12; x. 9:5; 12:35). Việc lần mò trong bóng tối, không có ánh sáng, là một điều cực kỳ nguy hiểm. Chúa Giêsu biết hạn từ đích thực (x. Ga 8:14): Chúa Cha. Người đi đúng đường, và chỉ đường này cho các môn đệ. Khi tuyên bố: “Ta là (*) cửa” (Ga 10:7.9), Chúa Giêsu khẳng định Người cho phép ta tiếp cận đoàn chiên (Ga 10: 7): các mục tử đích thực của dân Chúa độc đáo là những người mà Chúa Giêsu ở đã ủy nhiệm chăm sóc đoàn chiên và là những người hành động nhân danh Người (x. Ga 21:15-17). Chúa Giêsu cũng là cửa cho đoàn chiên: chỉ nhờ trung gian của Người mà tín hữu tìm được của ăn ngon lành và dồi dào, vì Người mang lại sự sống dồi dào (Ga 10:10). Lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Tôi, tôi là mục tử nhân lành” (Ga 10:11.14) thuộc cùng một thể văn dụ ngôn. Nó nhấn mạnh tới mối quan tâm sâu sắc của Chúa Giêsu đối với những kẻ thuộc về Người, đó là mối quan tâm đến có thể hy sinh mạng sống của chính mình, và có đặc điểm ở sự thân quen hỗ tương (xem Ga 10:14-18).

Biểu thức thứ ba: lời quả quyết “Ta là (*) sự sống lại và  (*) sự sống” (Ga 11:25) nói lên vai trò của Chúa Giêsu trong việc vượt qua cái chết. Người ta có thể so sánh nó với kiểu nói: “Tôi là Đường, là Sự thật và là Sự sống; không ai đến với Chúa Cha mà không qua tôi “(Ga 14:6). Biểu thức này xác định một cách tổng hợp vai trò của Chúa Giêsu trong việc đến với Thiên Chúa Cha, Đấng là nguồn duy nhất của cứu rỗi và sự sống. Nó nói lên vai trò của nó trong việc làm ta bước vào mối liên hệ với Chúa Cha, biết Chúa Cha, tham dự vào sự sống của Chúa Cha.

Biểu thức cuối cùng: “Thầy, Thầy là (*) cây nho và các con là cành” (Ga 15:5; xem Ga 15:1). Nó tóm tắt cách nào đó mối liên hệ giữa Chúa Giêsu và loài người: các cành chỉ có thể sống và sinh hoa trái nếu chúng vẫn còn trên cây nho. Câu quả quyết này dẫn đến câu hỏi sau đây: con người phải làm gì để duy trì sự hiệp nhất với Chúa Giêsu?

c. Con người tiếp cận ơn cứu rỗi 

90. Với hình ảnh cây nho, Chúa Giêsu đề cập đến hai phương thức kết hiệp với Người (các lời nói và tình yêu của Người): “Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em…” (Ga 15:7); ” Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy ” (Ga 15:9). Các lời lẽ của Chúa Giêsu là toàn bộ sự mặc khải được Người mang tới. Chúng có nguồn gốc từ Chúa Cha (xem Ga 14:10; 17:8) và ở trong người chào đón chúng, khi tin vào Chúa Giêsu (x. Ga 12:44-50). Đó chính là tâm điểm của đức tin: ” Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga 14:11). Ở lại trong tình yêu của Chúa Giêsu sau đó sẽ dẫn đến việc tiếp nhận Người một cách biết ơn và hoàn toàn tin tưởng vào Người, nhưng cũng phải tuân theo các giới răn của Người: “Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương các con” (Ga 15:12; xem 13:34). Tin vào Chúa Giêsu, vào các lời nói và tình yêu của Người, và yêu thương người khác tạo đường giúp ta ở trong Người, duy trì sự kết hiệp với Người, Đấng vốn là sự sống, nghĩa là nguồn gốc của mọi sự sống và ơn cứu rỗi (xem 1 Ga 3:23).

Chính trong bối cảnh xuất hiện công thức “Tôi hằng hữu” lần cuối cùng, Chúa Giêsu tuyên bố: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15:15). Có thể liên kết mối liên hệ của Người với các môn đệ và mối liên hệ của Người với Chúa Cha; mối liên hệ này có bản chất hoàn toàn bản thân, quen thuộc và thân ái. Ở lại trong mối liên hệ này với Chúa Giêsu tạo nên sự sống đời đời, tức ơn cứu rỗi được Chúa Giêsu mặc khải. Khi kết thúc lời cầu nguyện tuyệt vời của Người với Chúa Cha, Chúa Giêsu cho thấy với cường độ nào Người vốn mong muốn sự kết hợp này: từ “Con cầu xin” (Ga 17:9.15.20), Người bước sang một công thức chưa từng có trong số ít “Con muốn”, khi nói ” Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành”(Ga 17:24).

Như thế, sự kiện việc mặc khải của Thiên Chúa có mục tiêu chính là Thiên Chúa và sự cứu rỗi của con người (xem Dei Verbum, số 2), xem ra hoàn toàn rõ ràng trong Tin Mừng Gioan.

(*) “Ta Hằng Hữu” là dịch cụm từ “Je suis” (tiếng Pháp), “Ego Sum” (tiếng La Tinh) rất chỉnh trong lời Thiên Chúa nói với Môsê về danh tính của Người (Xh 3:14). Nhưng trong những kiểu nói khác, tiếng Việt phải dịch động từ “être” (Je suis, il est là “là”) như trong các kiểu trích trong đoạn này.

3.4. Các thư của Thánh Tông đồ Phaolô

91. Các trước tác của Thánh Phaolô là trước tác cổ nhất của Tân Ước. Chúng đề cập đến sự thật mà Thiên Chúa đã mặc khải cho Israel, và là sự thật, qua việc sai Con Thiên Chúa đến, đã được đem đến hoàn tất của nó, và được công bố vượt ra ngoài ranh giới của dân được chọn, đến nỗi không còn “Do Thái hay Hy Lạp “(Ga 3,28) nữa. Không giống như các Tin mừng, là các sách thẩy đều có sau các thư của ngài, Thánh Phaolô không xem xét quá khứ cho bằng củng cố cuộc sống hiện tại và tương lai trong Chúa Kitô của các cộng đồng Kitô giáo, do ngài hoặc người khác sáng lập, nhưng tất cả đều hợp nhất trong cùng một đáp ứng đức tin và tình yêu.

Các yếu tố lịch sử có thể được các thư của Thánh Phaolô khởi xuất rất hạn chế. Người ta cũng có thể thấy các tước hiệu được các tin mừng gia gán cho Chúa Giêsu trần thế (thầy, giáo sĩ [rabbi], tiên tri, con vua Đavít, Con người) không có mặt trong các trước tác của ngài; trong khi các tước hiệu trực tiếp chỉ đặc điểm của Đấng Phục sinh được sử dụng, như tước hiệu “Chúa” (Pl 2:11), và nhiều tước hiệu khác; Chúa Kitô (với khuynh hướng sử dụng thuật ngữ này như tên riêng của Chúa Giêsu, (xem Rm 5:6.8, v.v.); Con Thiên Chúa (Rm 1:4; Ga 4:4, v.v …); hình ảnh Thiên Chúa (xem 2 Cr 4:4). Cái chết và sự phục sinh của Chúa, và các hiệu quả cứu độ của chúng, tập chú hầu như chuyên nhất vào quan tâm bản thân và mục vụ của Thánh Phaolô. Ngài sống “trong đức tin vào Con Thiên Chúa”, Đấng yêu ngài “và hiến mạng” vì ngài (Gl 2:20). Đó là lý do tại sao ngài đã chiến đấu mãnh liệt chống lại tất cả những ai xuyên tạc “sự thật của Tin Mừng” này (Ga 2:5) và thậm chí chống đối cả Thánh Phêrô (xem Gl 2:11). Một cách nào đó, Thánh Phaolô bắt đầu công trình của ngài ở chỗ các Tin mừng kết thúc.

Chúng ta sẽ trình bầy chứng từ của Thánh Phaolô về Thiên Chúa và sự cứu rỗi trong bốn phần sau đây: a. Thánh Phaolô được hưởng sự mặc khải về chính ơn gọi của ngài và Truyền thống của Giáo hội; b. Thiên Chúa tự mặc khải mình trong Chúa Kitô bị đóng đinh và phục sinh; c. Ơn cứu rỗi được tiếp nhận và sống trong Giáo hội, Nhiệm thể Chúa Kitô; d. Sự viên mãn của ơn cứu rỗi hệ ở sự phục sinh của Chúa Kitô.

a. Thánh Phaolô được hưởng sự mặc khải về chính ơn gọi của ngài và Truyền thống của Giáo hội

92. Liên kết ơn gọi đặc thù của mình với những gì đã được rao giảng và sống trong Giáo hội – một Giáo hội mà trước đây ngài đã khủng bố dữ dội (1 Cr 15:9; Gl 1:13; Pl 3:6) – Thánh Phaolô đặt mình vào thế tiếp nối với truyền thống như với đức tin chung của các Giáo Hội. Ý thức mình được thừa hưởng một cuộc thông đạt độc đáo và đích thân về sự thật của Tin Mừng (x. Gl 1:11-17; 1 Cr 15:8), Thánh Phaolô vẫn cảm thấy sự cần thiết phải liên kết nó với tất cả các cộng đồng Kitô giáo khác. Mối liên hệ của Thánh Phaolô với những người tin vào Chúa Kitô không chỉ là mối liên hệ của một người cha cho đi (1 Cr 4:15; Gl 4:19), mà còn là và trên hết là mối liên hệ của một người mắc nợ những người đi trước đã chìa bàn tay nắm lấy tay ngài (xem Gl 2:9). Giữa thời Chúa Giêsu và hoạt động tông đồ của Thánh Phaolô là khoảng hai mươi năm sinh hoạt của một Giáo hội đang phát triển ở Giêrusalem, Samaria, Đamát và Antiôkia của Syria. Chính trong thời kỳ này, đức tin vào Chúa Giêsu đã được củng cố một cách luôn sâu sắc hơn trong tinh thần và trong tâm hồn các Kitô hữu tiên khởi, với đặc điểm một bản sắc tin tưởng độc đáo được cấu trúc nhanh chóng và nhận được sự soi sáng liên tiếp. Thánh Phaolô chịu ơn đối với các phát triển tín lý do các Giáo hội đầu tiên mang đến. Do đó, sau khi mạnh mẽ nhấn mạnh rằng Ơn gọi đã được Chúa Kitô trực tiếp mặc khải cho ngài đã đủ để chứng thực Tin Mừng của ngài, không cần phải chờ đợi sự chấp thuận của các Tông đồ trước ngài (xem Gl 1:11-17). Ngài cảm thấy không kém cấp bách phải liên kết sự mặc khải mà ngài đã nhận được với di sản chung bằng cách gặp Thánh Phêrô (xem Gl 1:18) và trình bày lời rao giảng của mình, để không “vì sợ rằng tôi ngược xuôi, và đã ngược xuôi vô ích”(Gl 2:2). Cùng một cách như vậy, để nhấn mạnh ưu thế công việc Tông đồ của mình (“tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác” 1Cr 15:10), Thánh Phaolô vội vã tuyên bố: “Dù tôi hay các vị khác rao giảng, thì chúng tôi đều rao giảng như thế, và anh em đã tin như vậy”(1 Cr 15:11).

Đó là lý do tại sao ngài bác bỏ bất cứ hình thức ly khai địa phương nào, một điều sẽ dẫn đến việc tự tách rời khỏi các giáo hội khác và ngài hỏi người Côrintô: ” Lời Thiên Chúa có phát xuất từ anh em không? Hay lời ấy chỉ đến với một mình anh em mà thôi? “(1 Cr 14:36). Có rất nhiều sự chia rẽ trong Giáo hội này!: các nhóm nhỏ xíu cũng tự xưng có những cá tính giáo hội khác nhau một cách đầy bút chiến (xem 1 Cr 1-4); các cử hành “kiểu duy ưu tuyển” (elitiste) Bữa tiệc của Chúa (1 Cr 11:11-34); ghen đua vì các đặc sủng nổi bật nhất (xem 1 Cr 12-14). Một tình huống như vậy giải thích tầm rộng rãi của lời chào đầu tiên của Thánh Phaolô: “Kính gửi Hội Thánh của Thiên Chúa ở Cô-rin-tô, những người đã được hiến thánh trong Đức Kitô Giêsu, được kêu gọi làm dân thánh, cùng với tất cả những ai ở bất cứ nơi nào kêu cầu danh Chúa của chúng ta, Đức Giê-su Ki-tô, là Chúa của họ và của chúng ta”. (1 Cr 1:2). Nói cho chính xác, cộng đồng này, vốn bị đe dọa gặp rất nhiều nguy cơ tan rã, được Thánh Phaolô khuyên nhủ phải luôn ghi nhớ nhiều yếu tố hợp nhất: Chúa Kitô không thể chia cắt được (x. 1Cr 1:13); phép rửa trong một Chúa Thánh Thần duy nhất (x. 1Cr 12:13); Bí tích Thánh Thể (x. 1 Cr 10:14-17; 11:23-24); tình yêu (xem 1 Cr 8:1; 13:16,24).

b. Thiên Chúa tự mặc khải trong Chúa Kitô bị đóng đinh và sống lại

93. Cái chết trên thập giá của Con Thiên Chúa là tâm điểm của sự thật mặc khải, được Thánh Phaolô công bố (1Cr 2:1-2). Nó là “ngôn ngữ của thập giá” (1 Cr 1:18), chống lại sự cao ngạo của người Do Thái và người Hy Lạp (1 Cr 1:22-23). Đối với sự kiêu căng của người Hy Lạp, tự hào về “sự khôn ngoan” của họ, Thánh Phaolô phản chứng bằng “sự điên rồ” của thập giá (1 Cr 1:23). Thánh Phaolô cũng phản ứng đối với chủ nghĩa pháp lý của người Galát: không thể thêm gì cho Chúa Kitô, ngay cả Lề Luật mà Thiên Chúa đã ban hành như một yếu tố chuẩn bị và được Chúa Kitô đem đến hoàn thành và được vượt qua.

Thật vậy, thật đáng ngạc nhiên khi Thánh Phaolô, để đáp lại sự bảo đảm mà người Côrintô đã làm chứng, không dùng đến lý lẽ phục sinh, một điều tương ứng hoàn toàn với tai tiếng liên quan đến thập giá. Mặc dù phục sinh có một tầm quan trọng độc đáo trong Tin Mừng của ngài (việc rao giảng và đức tin sẽ vô ích nếu không có sự phục sinh: 1 Cr 15:14), trái với đầu óc hiếu thắng của người Côrintô, Thánh Phaolô muốn nhắc nhở rằng không ai đến được Phục sinh, mà không đi qua đồi Gôngôtha. Ở đây, cần lưu ý rằng, khi đề cập đến Đấng chịu đóng đinh, ngài sử dụng phân từ hoàn hảo (participle parfait: estauromenos: 1 Cr 1:23; 2:2; Gl 3:1), như thế có ý nói, cho đến ngày hôm nay, Chúa Kitô, mặc dù được tôn vinh, vẫn tiếp tục là người chịu đóng đinh. Do đó, hiển nhiên Thiên Chúa tự biểu lộ chính Người bằng tai tiếng thập giá của Chúa Kitô, tự mặc khải như vị Thiên Chúa của ơn thánh, cho thấy sự ưa thích của Người đối với kẻ yếu, kẻ tội lỗi, những người bị cách xa. Người hiện diện và hành động ở nơi người ta không thể tưởng tượng được: trong Chúa Giêsu thành Nadarét, bị kết án tử hình trên thập giá.

Nhưng “sự chết không có quyền lực đối với Người” (Rm 6: 9). Ở đây chúng ta phải lưu ý một lần nữa rằng Thánh Phaolô không bao giờ trình bày phục sinh mà không nói tới thập giá. Có một sự đồng nhất tuyệt đối giữa Đấng chịu đóng đinh và Đấng sống lại, điều đó có nghĩa là không có sự gián đoạn liên tục nào giữa Đấng “tự hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” và là Đấng Người “đã siêu tôn và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2:8-9.11) đó là “Chúa”. Nếu người ta chỉ nhìn vào Đấng chịu đóng đinh, thì không có sự khác biệt nào giữa Chúa Giêsu và hai kẻ bất lương cùng bị kết án với Người, cũng không có bất cứ khác biệt nào giữa Người và anh hùng Spartacus cũng bị đóng đinh. Mặt khác, nếu người ta chỉ xem xét sự phục sinh, họ sẽ gặp một tôn giáo trừu tượng, tha hóa (aliénante), quên đi con đường (thánh giá) mà trước tiên họ phải bước đi trước khi đạt đến vinh quang. Dù sao, chính một mình cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô, Đấng đã chiến thắng sự chết, đã làm cho Thánh Phaolô hiểu cách thức nhờ đó Đấng chịu đóng đinh đã trở thành Đấng đem lại sự sống. Điều này sở dĩ đã trở thành khả hữu, một mặt vì kinh nghiệm bản thân của Thánh Tông đồ (x. Gl 1:15-16; 1 Cr 9:1; 15:8) và mặt khác vì sự trung gian của Giáo hội (x. 1Cr: 11:23; 15:3: “Tôi đã truyền điều này cho anh em, điều mà chính tôi đã nhận được”).

c. Ơn cứu rỗi được tiếp nhận và sống trong Giáo hội, Nhiệm thể Chúa Kitô

94. Sự hòa hợp đặc biệt của các cộng đồng Kitô giáo và sự hiệp nhất của họ vượt ra ngoài sự đa dạng đã khiến Thánh Phaolô sử dụng siêu ẩn dụ “thân thể” để đào sâu các mầu nhiệm của Giáo hội Chúa Kitô. Ngài đề cập đến một chủ đề mà, trong Tân Ước, chỉ có Thánh Phaolô mới bàn đến (xem 1 Cr 12:12-27; Rm 12:4-5). Chủ đề này đã được khai triển đáng kể trong thư gửi tín hữu Côlôxê (xem Cl 1:18.22.24; 2:9-19) và trong thư gửi tín hữu Êphêsô (xem Eph 2:15-16: 4:4.12-16; 5: 28-33), một thư mà đối với nhiều người phát xuất từ “trường phái Phaolô” sau này.

Nói về các Kitô hữu như “Nhiệm thể Chúa Kitô”, Thánh Phaolô vượt xa sự so sánh đơn giản: các chi thể của Chúa Kitô, cùng với Người, tạo thành một thực tại duy nhất; Giáo hội là một thân thể “trong Người”. Giáo Hội không phải là kết quả của việc các cá nhân cộng lại, cũng không phải là việc các hợp tác của họ cộng lại, vì Giáo Hội có trước sự tích hợp từng mỗi chi thể lập thành Giáo Hội. Đó là lý do tại sao, Giáo hội không phải là một điều gì đó trung lập (hen – số “một” trung tính) – mà là một thực tại có bản vị (heis – số “một” nam tính): “Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà ; nhưng tất cả anh em chỉ là một (heis) trong Chúa Giêsu Kitô” ( Gl 3:28).

Do đó, đoạn này dạy rằng “Tất cả chúng ta […] đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể” (1 Cr 12:13). Tất cả diễn ra như thể Thánh Phaolô, khi công bố sử dụng ẩn dụ này, đã nhấn mạnh nguồn gốc ban đầu của sự hợp nhất này: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người”(1 Cr 12:4-6). Ở đây, Thánh Phaolô nhấn mạnh rằng các khác biệt, được hài hòa trong bối cảnh hợp nhất của Giáo hội, cũng phản ảnh sự hợp nhất nguyên ủy của Thiên Chúa mà từ đó chúng bắt nguồn. Lời chúc lành cuối cùng ở 2 Cr 13:13 cũng làm ngài hiểu: ” Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, đầy tình thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần”. Những lời chúc lành này của Thánh Phaolô không bắt đầu với Thiên Chúa Cha, nhưng với Chúa Giêsu Kitô, vì một mình Người dẫn chúng ta vào mầu nhiệm Ba Ngôi (Rm 8: 39). Cuối cùng, chúng ta hãy lưu ý tới sứ mệnh của Chúa Thánh Thần: tạo ra sự hiệp thông, theo nghĩa Người có vai trò thực hiện công trình cứu rỗi qua các thế kỷ: “để nhờ Đức Giê-su Ki-tô, các dân ngoại cũng được hưởng phúc lành dành cho ông Ápraham, và để nhờ đức tin, chúng ta nhận được ơn Thiên Chúa đã hứa tức là Thần Khí” (Gl 3:14). Do đó, tất cả đã chịu “phép rửa” bởi cùng một Thần Khí (1 Cr 12:13) và tạo thành một cộng đồng huynh đệ, đa dạng, nhưng nhất trí. Hồng phúc hợp nhất vô giá này, một hồng phúc, cuối cùng, đã chiếm ưu thế so với sự chia rẽ cũ giữa “Người Do Thái và người Hy Lạp” (Rm 10:12; 1 Cr 1:24; 12:13; Gl 3:28), buộc ta phải “sống một cuộc sống mới “(Rm 6:4),”cuộc sống của Thần Khí” (Rm 7:6), để nếu “ai ở trong Chúa Kitô đều là thụ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi”(2 Cr 5:17).

d. Sự viên mãn của ơn cứu rỗi hệ ở sự phục sinh của Chúa Kitô

95. Sự kết hợp với Chúa Kitô, mang ra sống với các Kitô hữu khác trong Nhiệm thể Chúa Kitô, là Giáo hội, không giới hạn vào cuộc sống trần gian. Trái lại, Thánh Phaolô nói: ” Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1 Cr 15:19). Trong chương dài nhất trong tất cả các thư của ngài (1 Cr 15: 1-5), ngài tìm cách đặt cơ sở và giải thích sự phục sinh của các Kitô hữu, một sự phục sinh vốn phát xuất từ sự phục sinh của Chúa Kitô. Ngài mạnh mẽ quả quyết rằng: “Chúa Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu… mọi người nhờ liên đới với Chúa Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống” (1 Cr 15:20.22). Đức tin vào sự phục sinh với Chúa Kitô, trong sự hiệp thông vĩnh cửu với Người và với Chúa Cha, tạo nên nền tảng và chân trời của lời rao giảng của Thánh Phaolô. Đức tin này ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống trần gian hiện tại, khiến nó có thể chịu đựng những khó khăn và nỗi đau buồn, vì biết rằng nỗi đau “trong Chúa” nỗi đau mà người ta chấp nhận “không vô ích” (1Cr 15:58). Trong lá thư cổ xưa nhất của mình, Thánh Tông đồ giải thích cho người Texalônica: “Những người đã an giấc trong Chúa Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Chúa Giêsu” (1 Tx 4:14); “hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng” (1 Tx 4:13).

Thánh Phaolô không đưa ra mô tả nào về cuộc sống này, nhưng chỉ đơn giản quả quyết: “Chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi” (1 Tx 4:17, xem 2 Cr 5:8). Ngài nhận ra trong đức tin và hy vọng này một sức mạnh to lớn có sức khuyến khích và an ủi, và, ở cuối đoạn văn, ngài nói với các Kitô hữu của Texalônica: “Vậy anh em hãy dùng những lời ấy mà an ủi nhau” (1 Th 4:18). Trở lại với viễn cảnh cái chết của chính mình, Thánh Phaolô nói: “Ao ước của tôi là ra đi để được ở với Chúa Kitô, điều này tốt hơn bội phần” (Pl 1:23). Do đó, sự viên mãn của ơn cứu rỗi có thể được hiểu như sự kiện được ở với Chúa Kitô, Đấng vốn ở với Chúa Cha, nghĩa là, sống hiệp thông trong cuộc sống hoàn hảo và dứt khoát với Người, và, trong Người với mọi chi thể của nhiệm thể Người (x. 1 Cr 15:28; xem Ga 17:3.24).

3.5. Sách Khải Huyền

a. Dẫn nhập: một sự thật được mặc khải, chuyên biệt và linh hứng

96. Sự thật được mặc khải, chứa đựng trong thông điệp của Sách Khải Huyền, được gọi là “sự mặc khải của Chúa Giêsu Kitô, mà Thiên Chúa đã giao phó cho Người” (Kh 1:1). Trong bản văn của sách Khải huyền, sự thật được mặc khải này, do Thiên Chúa Cha ban cho Chúa Giêsu Kitô, dần dần được xác định như một sáng kiến, một dự án sáng tạo và cứu rỗi, phát sinh trong nội thẳm Thiên Chúa, sau đó được thể hiện ở bên ngoài Người, ở bình diện con người. Chính Thiên Chúa, cũng như Chúa Giêsu Kitô, Lời linh hứng của Thiên Chúa, đã can dự vào việc thể hiện dự án này. Chúng ta có thể đặt tên chính xác cho chính đối tượng của dự án sáng tạo và cứu rỗi này: đó là Vương quốc của Thiên Chúa, một vuơng quốc, được Thiên Chúa thai nghén, bao trùm toàn bộ vũ trụ được tạo dựng và triển khai trong lịch sử của con người qua trung gian của Chúa Kitô và của các Kitô hữu, đến độ, nhờ được Lời Chúa Kitô thúc đẩy và mang vác, đã đạt tới đỉnh cao cánh chung của nó trong cảnh tuyệt diệu của Giêrusalem mới (xem Kh 2: 1-22.5).

Việc triển khai Vương quốc Thiên Chúa trong lịch sử được thực hiện một cách biện chứng: có một sự chống đối triệt để, trở thành một cuộc đấu tranh khốc liệt, giữa một mặt, “hệ thống của Chúa Kitô”, hợp nhất Chúa Giêsu Kitô và những người theo Người, và, mặt khác, “hệ thống tà ác trần gian, được Quỷ dữ truyền cảm hứng và thúc đẩy, nhằm mục đích thực hiện một “phản vương quốc”thực sự, chống lại Vương quốc của Thiên Chúa. Cuối cùng, cuộc đấu tranh kết thúc với sự biến mất dứt khoát của tất cả các phe phái xấu xa, và với sự thể hiện đầy đủ Nước Thiên Chúa trong bối cảnh dứt khoát của một “trời mới” và một “đất mới” (Ap 21:1), khi một tiếng nói từ ngai vàng long trọng tuyên bố: “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,3-4) . Đó là phần trình bày đẹp nhất về Nước Thiên Chúa đã được thể hiện.

Tuy nhiên, ý nghĩa sâu sắc mà tác giả sách Khải Huyền nói về con người cụ thể nói chung, và một cách đặc biệt hơn, về những khó khăn khủng khiếp mà các Kitô hữu gặp phải khi đối diện với sự thù địch của “hệ thống trần gian”, thúc đẩy ngài nhấn mạnh đến sự chắc chắn của mình đối với việc thể hiện trọn vẹn Vương quốc Thiên Chúa. Vương quốc này sẽ được hiện thực hóa trên trái đất, trong không gian của con người, với tất cả sự viên mãn đã được nghĩ tới ở bình diện thần thiêng, là bình diện cao nhất.

Do đó, sách đề cập đến Vương quyền của Thiên Chúa, được xem xét, một mặt, theo quan điểm hoàn toàn hoàn cầu, và mặt khác, được thấu hiểu trong việc thể hiện cụ thể của nó. Hai khía cạnh, kết hợp với nhau, cộng thành một bức tranh hấp dẫn và thống nhất về Vương quốc Thiên Chúa và sự ngự đến của nó. Sự thật được mặc khải cách riêng cho sách Khải huyền hệ ở chính điều đó, điều mà bây giờ chúng ta đề cập một cách chi tiết.

b. Sự thật nói chung: Vương quốc của Thiên Chúa được thể hiện bởi một dự án sáng tạo và cứu rỗi

97. Sự xuất hiện đầu tiên của hạn từ “vương quốc” mà chúng ta tìm thấy ở phần đầu của cuốn sách nằm trong bối cảnh được soi sáng: hướng về Chúa Giêsu Kitô bị đóng đinh và Phục sinh, Đấng mà họ tri nhận sự hiện diện, cộng đoàn phụng vụ, trong một động tác biết ơn và đầy cảm xúc, bày tỏ lời cảm tạ về những hồng ân nhận được từ Người: “Với Đấng đã yêu mến chúng ta, Đấng đã lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người : kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời. Amen” (Kh 1:5-6).

Được kết hợp bởi tình yêu của Chúa Giêsu Kitô, các Kitô hữu nhận ra Người đã lập mình thành thành viên của Vương quốc Thiên Chúa trong Chúa Kitô. Đó là một vương quốc đang phát triển và đang trở thành, chưa hoàn thành, nhưng đã được thiết lập: giữa Kitô hữu và Chúa Giêsu Kitô có một mối liên kết tương hỗ của tình yêu, hệ quả của một trách nhiệm tư tế của các Kitô hữu, một trách nhiệm làm họ trở thành các người trung gian giữa Thiên Chúa, Chúa Kitô và thực tại con người.

Nhưng trước tuyên bố này của cộng đoàn phụng vụ, chúng ta thấy một việc nhắc đến Vương quốc với ý nghĩa ngược lại: ban phúc lành Chúa Ba Ngôi cho cộng đoàn, Thánh Gioan nói thêm “Từ Chúa Giêsu Kitô, Chứng Nhân trung thành, là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết trỗi dậy, là Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian” (Kh 1:5). Bên cạnh Thiên Chúa và Chúa Kitô, xuất hiện một thực tại đối nghịch: “các vua chúa trần gian”, những người sách Khải huyền (xem Kh 6:15; 17:2; 18:3.9; 19:19) coi là các trung tâm quyền lực đặc trưng của “hệ thống trần thế”, đối nghịch với Vương quốc Thiên Chúa. Giữa các Kitô hữu, những người vốn đã thuộc về Vương quốc Thiên Chúa và chống lại sự ác, có một sự đối nghịch sẽ dẫn họ đến việc chia sẻ và đồng hành, trong tư cách các linh mục, cuộc chiến vinh thắng của Chúa Kitô-Chiên Con (x. Kh 5:6-10).

Sự phát triển của Vương quốc Thiên Chúa trong lịch sử thực sự là trách nhiệm của Chúa Kitô Chiên Con. Được trình bày trang trọng như ” Chiên Con ” – một thuật ngữ xuất phát từ Tin Mừng thứ tư (xem Ga 1:29.36) -, Người liên kết vào khả năng “xóa bỏ tội trần gian” (xem Ga 1:29), sức mạnh cho phép đánh bại và tiêu diệt sự ác do Ma Quỷ thực hiện, và một cách tích cực hơn, ý muốn chia sẻ với mọi người muốn thuộc về Người Chúa Thánh Thần, Đấng mà Người vốn mang theo (xem Kh 5:6). Chúa Cha đã long trọng trao phó cho Người toàn bộ dự án sáng tạo và cứu độ của Vương quốc (x. Kh 5: 7). Người sẽ là người hướng dẫn cho tất cả những ai mà Người đã lập thành các thành viên của Vương quốc, và là những người đã trở thành các linh mục trung gian. Cường độ của tình yêu kết hợp Chúa Giêsu Kitô và các Kitô hữu gắn bó với Người trong việc xuất hiện triều đại của Người, đang phát triển và gia tăng bao lâu sự hợp tác của họ được thực hiện.

Tác giả sách Khải huyền tìm cách làm nổi bật cường độ và phẩm chất của tình yêu này, bằng cách so sánh nó với trải nghiệm nhân bản về tình yêu của hai người đã đính hôn. Do đó, qua Chúa Giêsu Kitô, giữa những người tham gia Vương quốc của Người, một mối quan hệ hỗ tương được thiết lập đầy tính tươi mát, triệt để, mạnh mẽ và dịu dàng của một “mối tình đầu” Kh 2:4-5), một tình yêu “Nhiệt thành” (Kh 3:19). Chúa Giêsu Kitô đòi hỏi tình yêu này một cách tuyệt đối (xem Kh 2,4-5). Do đó, người ta hiểu rằng Vương quốc của Thiên Chúa mà Người được mời gọi xây dựng sẽ phải là một vương quốc của tình yêu.

Sức mạnh của tình yêu kết hợp Chúa Giêsu và các người thuộc về Người phát triển như một hệ quả của việc họ can dự vào việc chiến thắng sự ác, và trong việc thiết lập điều tốt, một can dự tìm kiếm hiệu năng lớn nhất, cho phép các Kitô hữu, trong tình yêu họ chia sẻ với Chúa Giêsu Kitô, từ hứa hôn bước qua hôn nhân. Chuyển cuộc xung đột giữa “hệ thống của Chúa Kitô” và “hệ thống của trần gian” từ bình diện hiện tại sang bình diện hoàn thành sau cùng của nó, tác giả thoáng thấy, một cách hết sức vui mừng, việc thể hiện đầy đủ của Vương quốc Thiên Chúa và nhận ra tiếng nói từ trời nói với ngài rằng: “Bây giờ đây là ơn cứu rỗi, quyền năng và triều đại của Thiên Chúa chúng ta, đây là quyền năng của Đấng Kitô của Người! “( Kh 12:10). Mặc dù mạnh mẽ cảnh báo về áp lực tàn bạo của sự ác – và nói minh nhiên về nó – sách Khải huyền nhấn mạnh vào vấn đề tích cực này của lịch sử. Ý nghĩ về việc Vương quyền của Thiên Chúa đã được thể hiện làm mê lòng tác giả, nên ở một trong những bài tụng ca đẹp đẽ nhất của mình (Kh 19:1-9), tác giả thốt lên một cách phấn khởi: “Halêluia! Đức Chúa là Thiên Chúa Toàn Năng đã lên ngôi hiển trị. Nào ta hãy vui mừng hoan hỷ dâng Chúa lời tôn vinh, vì nay đã tới ngày cử hành hôn lễ Con Chiên, và Hiền Thê của Người đã trang điểm sẵn sàng, nàng đã được mặc áo vải gai sáng chói và tinh tuyền” (Kh 19: 6-8). Nhờ “những hành động chính đáng” thực hiện trong khung cảnh hợp tác của họ với Chúa Kitô, các Kitô hữu được mô tả như vị hôn thê tự chế tác trang phục cưới của mình. “Đám cưới của Chiên Con” sẽ được thể hiện khi, trong sức mạnh của sự cam kết chung giữa Chúa Kitô và những ai thuộc về Người, mọi sự ác trên thế giới sẽ bị tiêu diệt, và tất cả những ai làm điều ác sẽ bị tiêu diệt. Lúc đó, sự cam kết của Chúa Giêsu Kitô và của những kẻ thuộc về Người đã được truyền đạt đến mọi người sự mới mẻ của Chúa Kitô. Và các Kitô hữu, nhờ được Thiên Chúa chuẩn bị, sẽ yêu mến Chúa Giêsu Kitô như Chúa Giêsu Kitô đã yêu và đang yêu mến họ. “Vị hôn thê” sẽ trở thành “cô dâu”.

Đó là điều kỳ diệu của Giêrusalem mới, của triều đại Thiên Chúa từ nay đã được thể hiện. Không còn tham gia vào việc chuẩn bị để Nước Thiên Chúa xuất hiện nữa, các Kitô hữu sẽ tham gia đầy đủ vào việc xuất hiện này và sẽ vui hưởng nó trong tính toàn bộ của nó. Điều này được phát biểu trong phần kết luận tuyệt vời của sách (xem Kh 22:1-5). Trên quảng trường trung tâm của Giêrusalem mới là ngai vàng độc nhất, đó là “ngai vàng của Thiên Chúa và của Chiên Con” (Kh 22:1c). Từ ngai vàng tuôn ra “một dòng sông sáng chói như pha lê” (Kh 22:1ab), biểu tượng của Chúa Thánh Thần. Dòng sông chảy, tạo ra và phát triển “cây sự sống” (Kh 22:2c), không còn như một cây đơn độc (xem Kh 2:7 và St 2:9; 3:22.24), nhưng “giữa hai nhánh của dòng sông “( Kh 22:2b) như một khu rừng sự sống. Vì có sự can dự chung của Thiên Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, người ta có thể dám sử dụng kiểu nói “sự tràn ngập ba ngôi” – “sự tràn ngập ba ngôi” của sự sống và tình yêu đến vô cùng, tràn đến con người. Và con người, hạnh phúc vì được thuộc về Vương quốc cách trọn vẹn, và do đó, có thể yêu thương không giới hạn, sẽ không còn “cần đèn đuốc hay ánh sáng mặt trời, vì Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ chiếu sáng trên họ, và họ sẽ hiển trị đến muôn thuở muôn đời”( Kh 22:5). Do đó dự án lớn về Vương quốc Thiên Chúa đã được trình bày như thế.

c. Đào sâu sự thật như một toàn bộ, qua trung gian những gì “đúng sự thật” (véridique)

98. Sự thật được sách Khải huyền mặc khải – liên quan đến Triều đại Thiên Chúa – được tái duyệt và đào sâu mỗi lần xuất hiện hạn từ “đúng sự thật – alèthinos của Hy ngữ”. Những lần xuất hiện này liên hệ đến sự thật được mặc khải về Triều đại Thiên Chúa, minh họa và nhấn mạnh sự gắn bó vốn hiện hữu giữa dự án được coi là “từ bên trong” của chính Thiên Chúa, trong nội thẳm thần thiêng, và việc thể hiện nó “ở bên ngoài” Thiên Chúa, trong lịch sử cụ thể của con người. Chính ở đây, niềm hy vọng của con người được phát sinh. Bất chấp áp lực của sự ác, “Triều đại của Thiên Chúa chúng ta” và “quyền năng của Đấng Kitô của Người” (Kh 12:10), thay vì tạo ra một giấc mơ dần tan, sẽ xuất hiện trong thực tại theo nghĩa hẹp của nó.

Đặc tính “đúng sự thực” của Thiên Chúa Cha

Lần đầu tiên trong bốn lần xuất hiện nối kết tĩnh từ ” đúng sự thực” vào Thiên Chúa Cha liên quan đến Người một cách đích danh. Các vị tử đạo, từ nay được tiếp xúc trực tiếp với Thiên Chúa, nhận thấy sự hiện diện dai dẳng của sự ác trên thế giới, nên đã ngỏ với Thiên Chúa một lời cầu trọng yếu, đầy cảm xúc, lớn tiếng kêu lên rằng: “Lạy Chúa chí thánh và chân thật, cho đến bao giờ Ngài còn trì hoãn, không xét xử và không bắt những người sống trên mặt đất phải đền nợ máu chúng con” (Kh 6:10-11). Các vị tử đạo, nhìn thẳng vào mặt Thiên Chúa, nhận thấy nơi Người sự toàn năng tuyệt đối khiến Người trở thành “tối cao” của mọi loài; họ thấy Thiên Chúa “thánh thiện”, và như vậy, hoàn toàn chống lại sự ác, dẫn một cách không thể cưỡng lại đến việc loại bỏ nó; họ thấy Thiên Chúa “chân thật”, với sự gắn bó tuyệt đối giữa tất cả những gì Người là trong chính Người và hành động của Người trong lịch sử, và, vì bối rối, họ hỏi cho đến bao giờ hành động của Người sẽ diễn ra. Thiên Chúa đáp lại bằng cách trấn an họ: chiến thắng của Người trước sự ác nhất định sẽ xảy ra, nhưng sẽ được thể hiện dần dần, theo kế hoạch của Người. Trong khi chờ đợi, các vị tử đạo được hưởng lợi ngay lập tức nhờ việc tham gia trực tiếp vào sự phục sinh của Chúa Kitô, được tượng trưng bởi chiếc “áo trắng” (Kh 6:11), được trao cho họ.

Điều chúng ta vừa thấy được xác nhận và làm cho minh nhiên bởi sự kiện này: tĩnh từ “đúng sự thật” được nối kết với các hành động cụ thể qua đó Thiên Chúa theo đuổi dự án của Người trong lịch sử. Đây có ý nói đến những “con đường” (Kh 15:3) và cả “những phán quyết” (xem Kh 16:7; 19:2), là những điều, khi đặt trong mối tương quan với Thiên Chúa và số phận con người, với điều kiện chúng “đúng sự thật”, bảo đảm sự gắn bó nhất quán giữa Thiên Chúa trong chính Người và toàn bộ hành động của Người.

Đặc tính “đúng sự thật” của Chúa Giêsu

99. Liên quan đến hồng ân của Chúa Giêsu Kitô dành cho loài người, vốn là đặc tính của dự án Vương quốc Thiên Chúa, thuật ngữ ” đúng sự thật / chân thật” được sử dụng ba lần (Kh 3:14; 19:9), cho phép một sự thấu hiểu rõ hơn về những gì là chính Vương quốc, và việc nó sẽ đến.

Lần đầu tiên trong số những lần xẩy ra này định nghĩa Chúa Giêsu như “Đấng Thánh, Đấng chân thật – alèthinos” (Kh 3:7), như thế đặt Người ngang hàng với Chúa Cha, Đấng mà các vị tử đạo đã kêu cầu: ” Chúa chí thánh và chân thật” (Kh 6:10). Là một “Đấng thánh”, Chúa Giêsu, giống như Chúa Cha, có sự viên mãn của thiên tính. Khi Chúa Cha và Chúa Giêsu đi vào lịch sử của con người, cả hai đều đáng được gọi bằng tước hiệu “chân thật”, theo nghĩa, như đã được đề cập ở trên, một sự tương ứng hoàn hảo giữa thiên tính của các vị và sự can dự của các vị vào lịch sử. Theo dự án thần thiêng vĩ đại, các mối liên hệ của các vị với con người không thể bị coi như thuộc về trình độ “thấp hơn”.

Hướng mắt nhìn lên Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã dấn thân cho con người, một khía cạnh khác trong sự hiện diện cụ thể của Người trong lịch sử có thể được đưa ra ánh sáng: đó là chứng từ của Chúa Cha mà Người là người mang theo. Trong tư cách “Lời hằng sống”, Người thấy Chúa Cha trực tiếp trong chiều kích vô tận của Người, như “Lời nhập thể”, Người liên hệ hữu hiệu với con người, Người thấu hiểu con người đến ngọn ngành. Chứng từ của Người có thể mang sự giàu có vô hạn của Chúa Cha, Đấng mà Người nhìn thấy, tới gần con người, bất kể họ là ai và bất cứ họ ở nơi nào. Tự xác định Người như “nhân chứng trung thành và chân thật” (Kh 3:14), Người nhấn mạnh việc chứng từ “trung thành” của Người hoàn toàn tương ứng với sự giàu có vô hạn của Chúa Cha, đồng thời duy trì sự tiếp xúc sống động với con người. Ngoài ra, tĩnh từ ” đúng sự thật / chân thật” tìm cách chứng tỏ, qua chứng từ của Người, Chúa Giêsu đã cam kết ra sao sự viên mãn của thiên tính và nhân tính của Người. Sự phong phú vô hạn của Chúa Cha, do đó, đã được mặc khải cho chúng ta nơi Chúa Giêsu Kitô, mang lại xương thịt và độ dày cho sự thật mặc khải liên quan đến dự án của Nước Trời. Mặc khải là một hồng ân.

Trong bối cảnh sóng gió đang đối đầu với Chúa Giêsu và những người dấn thân bước theo Người, đối đầu với hệ thống trần gian, họ tìm cách tận diệt sự ác và vun trồng sự thiện, Chúa Kitô được tuyên xưng là Đấng “Trung thành và chân thật” (Kh 19:11), có ý nói đến lòng trung thành của Người đối với dự án của Chúa Cha và với việc cam kết toàn bộ thiên tính và nhân tính của Người, để dẫn nó tới điều thiện. Một số khía cạnh của “sự thật” vốn là đặc trưng của Chúa Kitô này được chỉ ra và nhấn mạnh: nó được liên kết với một tình yêu nồng cháy dành cho Chúa Cha và cho con người (“Mắt Người như ngọn lửa hồng- Kh 19:12). Chúa Kitô hiến mạng sống của Người để hoàn thành sứ mệnh của Người (Người mặc một áo choàng “đẫm máu” – Kh 19:13a); Tên Người sẽ mãi không ai biết và từ đầu sẽ mãi là một bí mật của Người (xem Kh 19:12c). Nhưng khi, bằng lời Người nói ra (“thanh gươm sắc bén” – Kh 19:15), Người sẽ khắc sâu vào tất cả những ai tiếp nhận Người một dấu ấn của chính Người, tên của Người sẽ được nhận biết và Người sẽ được gọi công khai là “Lời Thiên Chúa” (Kh 19:13b). “Lời Thiên Chúa” tuyệt hảo này, mà Chúa Giêsu vốn mang trong mình Người, đang sống và trùng hợp với Người trong tư cách Ngôi Lời Nhập Thể (x. Ga 1:1.14), được truyền tải bằng lời của Người ngỏ cùng con người; Lời này sẽ được “in” vào tất cả những ai chào đón Người, ban cho họ sự mới lạ Kitô học của Người. Cuối cùng, mọi sự sẽ được đồng hình đồng dạng với Người, Lời được ban cho.

Những lời đúng sự thật được linh hứng và gây linh hứng

Lần đầu trong ba lần xuất hiện chữ alèthinos, chỉ các lời nói (Kh 19:9), Thiên thần giải thích, tước vị đi theo Thánh Gioan, đã thốt lên những lời sau đây: “Đó là những lời nói chân thật của Thiên Chúa”. Những lời được linh hứng mà chúng ta gặp trong Khải Huyền, từ đầu, đồng thời cũng là những lời của chính Thiên Chúa. Chúng được truyền qua Chúa Giêsu Kitô, Lời hằng sống của Thiên Chúa. Từ Chúa Giêsu Kitô và qua trung gian Thánh Thần của Người, chúng được truyền lan tới con người và tiếp nối với họ. Chúng được cho là “đúng sự thật” bởi vì chúng có thể mang đến cho con người biết chào đón chúng tất cả sự giàu có của Chúa Kitô và của Thiên Chúa, một sự giầu có chúng vốn mang theo.

Lần xuất hiện thứ hai có một công thức văn chương phức tạp hơn. Ở đấy, lần lượt có sự can thiệp trực tiếp của Thiên Chúa, sự lặp lại diễn từ của Thiên thần giải thích, và, một lần nữa, sự can thiệp của Thiên Chúa để kết luận: “Đấng ngự trên ngai phán : ‘Này đây Ta đổi mới mọi sự’. Rồi (thiên thần giải thích) nói : ‘Ngươi hãy viết: vì đây là những lời đáng tin cậy và chân thật’. Rồi (Thiên Chúa ngự trên ngai) phán với tôi : ‘Xong cả rồi ! Ta là Anpha và Ômêga, là Khởi Nguyên và Tận Cùng…” (Kh 21:5-6). Lời tuyên bố long trọng của Thiên Chúa, Đấng được trình bày đang ngự trên ngai vàng có thể được hiểu như nguyên lý quyết định mọi cuộc triển khai sự thật mặc khải, mọi diễn trình xuất hiện của Vương quốc. Lời tuyên bố này cho thấy ý định làm cho nó sinh động: nó muốn in trong mọi vật, bắt đầu từ con người, sự mới mẻ của Chúa Kitô. Sự lặp lại diễn từ mà thiên thần giải thích ngỏ cùng Thánh Gioan đã nhấn mạnh giá trị của nó, nó sẽ trở thành cố định bằng cách được viết ra: tất cả “những lời này” của Thiên Chúa (xem Kh 19:9), bắt đầu từ những lời cuối cùng được phát âm “đáng tin cậy”. Chúng tương ứng cách thỏa đáng với ý định của Thiên Chúa, Đấng có ý định dành chúng cho con người, qua trung gian của Chúa Giêsu Kitô. Nhờ có một nội dung hoàn toàn phù hợp với các yêu cầu của Thiên Chúa và các khát vọng của con người, chúng được công bố là “đúng sự thật”, mang theo chúng tất cả “sự mới mẻ” của Chúa Kitô và có thể truyền đạt sự mới mẻ này.

Nhờ đạt được mục đích cánh chung của chúng, các Lời của Thiên Chúa được trình bày trong sách Khải Huyền có thể được coi đã “hoàn tất”. Sự kiện này được khẳng định một cách long trọng bởi Thiên Chúa, Đấng rất gần gũi với lịch sử loài người đến nỗi trên thực tế “trùng hợp” với sự khởi đầu, cũng như kết thúc của nó. Vào lúc khởi đầu thời gian trôi qua giữa “alpha” và “omega”, tức “khởi đầu” và “hoàn tất”, là những lời của Thiên Chúa được triển khai: nội dung Kitô học của chúng dần dần tỏa sáng một cách năng động. Và qua trung gian những lời “đang trong diễn trình trở thành” này, Thiên Chúa làm mới mọi sự.

Lần xuất hiện thứ ba của alèthinos, lên đặc điểm cho các lời linh hứng, nằm ở trang cuối của cuốn sách. Một lần nữa, Thiên thần giải thích tuyên bố với cộng đoàn phụng vụ đang lắng nghe ngài rằng: “Những lời này đáng được tin cậy và chân thật” (Kh 22:6). Ở đây, thêm vào ý nghĩa hàng đầu của sự tương ứng hoàn toàn của chúng với ý định của Thiên Chúa và cam kết tuyệt đối về phần Thiên Chúa, đặt thiên tính của chính Người để phục vụ con người, qua trung gian Chúa Kitô, là việc nhắc đến cuốn sách vừa được đọc cho cộng đoàn. Những lời được linh hứng, nếu được chào đón một cách phải lẽ, sẽ trở thành nguồn linh hứng cho người chào đón chúng, bằng cách “cấy trồng” Chúa Kitô – sự mới mẻ đổi mới – sự mới mẻ chúng hằng mang theo.

Như thế, vòng tròn đã đóng lại. Bắt đầu từ Thiên Chúa Cha, mọi thứ truyền đến Chúa Giêsu Kitô, Lời hằng sống của Chúa Cha. Chúa Giêsu Kitô, Lời sống, là một từ được gửi và cho: đó là nói một từ mà từ chính nó như là nội dung, kết hợp với con người để cấy ghép sự mới lạ của riêng họ. Khởi đi từ bình diện Kitô học được hình thành và phát triển nơi con người này, dẫn họ đến một sự hiệp nhất nhất định sẽ diễn ra với Chúa Giêsu Kitô, Lời sống, Chúa Cha trên trời, đến lượt Người, sẽ nối kết trở lại.

4. Kết luận

101. Người đọc Sách Thánh chỉ có thể được gấy ấn tượng bởi cách mà nhiều bản văn đa dạng cả trong hình thức văn học lẫn gốc rễ lịch sử của chúng đã được hợp nhất thành một qui điển duy nhất, và làm hiển thị một sự thật nhất trí, một sự thật tìm được phát biểu trọn vẹn trong con người của Chúa Kitô.

a. Những phát biểu văn chương và thần học của Cựu Ước

Việc nghiên cứu về các hợp thể (ensembles) văn chương khác nhau của Cựu Ước đã cho thấy sự phong phú cực độ trong các biểu hiện của Thiên Chúa trong lịch sử. Kinh thánh làm chứng rằng Thiên Chúa muốn bước vào mối liên hệ với nhân loại, qua các trung gian đa dạng.

– Chính công trình sáng thế cũng đã phản ảnh thánh ý Thiên Chúa muốn là một vị Thiên Chúa “cho con người”: Thiên Chúa chủ động sáng kiến tự tỏ mình ra trong một công trình sáng tạo mà trình thuật Kinh thánh xác định là “tốt” (St 1:31). Sau đó, trình thuật Kinh thánh nhận xét rằng công trình này ngay lập tức phải giáp mặt với vấn đề sự ác (x. St. 3:1-24).

– Thiên Chúa cũng tỏ mình ra trong lịch sử đặc thù của dân tộc Israel, qua nhiều can thiệp cứu rỗi – giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập (x. Xh 14); giải thoát khỏi việc thờ ngẫu thần (xem Xh 20; Đnl 5) -, và qua hồng ân Lề Luật, dạy cho Israel một cuộc sống cởi mở đối với tình yêu người lân cận (xem Lv 19).

– Văn chương tiên tri mang lại đặc tính linh hứng cho lời lẽ của các Tiên tri (trong phần dẫn nhập các sách, trong “công thức sứ giả”, trong các công thức sấm ngôn). Các sấm ngôn tiên tri có thể phát biểu các đòi hỏi của Thiên Chúa, Đấng tự mặc khải cho dân giữa những thăng trầm của lịch sử. Chúng cũng phát biểu lòng tín trung của Chúa, bất chấp lỗi lầm của Israel.

– Về phần nó, văn chương khôn nhoan phản ảnh các xung đột có thể nảy sinh giữa các nền văn hóa cổ đại vốn khao khát sự thật và mặc khải chuyên biệt mà Israel được hưởng nhờ. Các truyền thống khôn ngoan có điểm chung là trình bày sự khôn ngoan của Israel như biều thức ưu hạng của sự thật mặc khải. Một cách đặc biệt, trong thời kỳ văn hóa Hy Lạp, Đức Khôn Ngoan của Israel, khi bị đối đầu bởi các hệ thống triết học Hy Lạp, tìm cách đề ra một hệ thống tư tưởng mạch lạc, nhấn mạnh đến giá trị luân lý và thần học của Tôra, và tự đề cho mình việc khuyến khích trái tim và trí thông minh tuân thủ giá trị này.

– Văn chương thánh thi, đặc biệt là các Thánh vịnh, tích hợp tất cả các chiều kích đã nêu trên đây: Thánh vịnh gia ca ngợi Thiên Chúa tạo hóa và Cứu Chúa, vị Thiên Chúa hiện diện trong lịch sử, vị Thiên Chúa vốn là nguồn sự thật. Đồng thời, ông mời các tín hữu tiến tới một cuộc sống trung thành, chính trực và ngay thẳng.

b. Những tuyên bố thần học của Tân Ước

102. Dự án mà các sách Tân Ước có điểm chung là cho phép người đọc gặp gỡ Chúa Kitô, “Đấng mặc khải Chúa Cha”, nguồn cứu rỗi và là biểu hiện sau cùng của sự thật. Mục tiêu chung này đi qua các phương pháp sư phạm đa dạng.

– Các Tin Mừng nhất lãm, mà các soạn giả dựa trên các chứng tá lịch sử trực tiếp, cho thấy Chúa Giêsu thành Nadarét “hoàn tất” mọi trông chờ của Israel như thế nào: Người là Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa, Đấng trung gian cứu rỗi. Được Chúa Thánh Thần thánh hiến, bằng cái chết và phục sinh, Người khai mở thời đại mới: tức Nước Thiên Chúa.

– Tin Mừng Gioan cho thấy Chúa Kitô là sự viên mãn của Lời Thiên Chúa, Ngôi Lời được mặc khải cho các môn đệ, những người nhận được lời hứa hồng ân Chúa Thánh Thần.

– Các thư của Thánh Phaolô đòi thẩm quyền của một Tông đồ, người, do trải nghiệm đích thân được gặp Chúa Kitô, đã truyền bá Tin mừng cho dân ngoại, và làm chứng, bằng một từ vựng mới, cho công trình của Chúa Kitô trong bối cảnh văn hóa thời đại của ngài.

– Theo sách Khải huyền, Chúa Giêsu, Đấng nhận và ban Lời linh hứng (xem Kh 1:1) đại diện cho hồng ân tối cao của Chúa Cha. Có một sự tương ứng tuyệt đối giữa dự án Vương quốc được Thiên Chúa muốn, và sự thể hiện thực sự của nó trong lịch sử nhân loại qua trung gian Chúa Kitô. Khi mọi lời linh hứng đều được hiện thực hóa, tiêu diệt sự ác trong lịch sử và cấy trồng vào đó kỳ quan của Chúa Kitô, Thiên Chúa sẽ long trọng tuyên bố, khi nói đến những lời này: “Chúng đã được ứng nghiệm” (Kh 21:6).

c. Sự cần thiết và các phương thức tiếp cận qui điển của Kinh Thánh

103. Hiến chế tín lý Dei Verbum (số 12) và tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Verbum Domini (các số 40-41) cho thấy chỉ có cách tiếp cận duy nhất có tính đến toàn bộ qui điển của Kinh thánh mới cho phép ta khám phá đầy đủ ý nghĩa thần học và thiêng liêng của nó. Do đó, bất cứ truyền thống Kinh Thánh nào cũng cần được giải thích trong ngữ cảnh qui điển lúc phát biểu, điều này giúp đưa ra ánh sáng các nối kết dị đại và đồng đại với toàn bộ Qui Điển. Do đó, cách tiếp cận này làm chứng cho các liên hệ hiện có giữa các truyền thống Cựu Ước và các truyền thống Tân Ước. Bên kia sự đa dạng hết sức của các bản văn, được mô tả trong các đoạn trên đây, Qui Điên Kinh thánh đề cập đến một Chân lý duy nhất, – Chúa Kitô – Đấng mà chứng từ Tông đồ nhìn nhận là Con Thiên Chúa, Đấng mặc khải Chúa Cha và là vị cứu tinh của con người. Toàn bộ Qui điển đạt đến đỉnh cao trong lời khẳng định này, lời khẳng định, có thể nói, mà tất cả các yếu tố cấu thành ra nó đều “hướng” tới. Nói cách khác, Qui điển Kính thánh tạo nên ngữ cảnh giải thích thỏa đáng cho từng truyền thống đã soạn ra nó: sau khi đã được tích hợp vào Qui Điển, mỗi truyền thống đặc thù nhận được một ngữ cảnh phát biểu mới, làm mới ý nghĩa của nó.

“Luận lý qui điển” này giải thích các nối kết giữa Tân ước và Cựu ước: Các truyền thống Tân Ước sử dụng từ vựng “cần thiết” và từ vựng “hoàn tất” (hoặc “hoàn thành”) để diễn tả cuộc sống và việc làm của Chúa Kitô luôn tham chiếu các truyền thống của Cựu Ước (xem Mt 26:54; Lc 22:37; 24:44). Nội dung của Kinh thánh, muốn đúng sự thật, nhất thiết phải được hoàn tất, và sự hoàn tất này được thực hiện trọn vẹn trong sự sống, cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô (Ga 13:18; 19:24; Cv 1:16). Một mình con người của Chúa Kitô đủ đem ý nghĩa tối hậu lại cho các truyền thống hết sức đa dạng: chúng ta thấy điều này, thí dụ, trong trình thuật ở chương 24 của Tin Mừng Luca, trong đó Chúa Giêsu đích thân cho thấy lịch sử chuyên biệt của Người đã soi sáng các truyền thống Tôra, Tiên tri và Thánh vịnh ra sao. Do đó, con người của Chúa Kitô đáp ứng các mong đợi của Israel và mang sự mặc khải thần thiêng đến chỗ hoàn tất. Chúa Kitô “tóm lược” các nhân vật chính của giao ước thứ nhất và dệt nên mối liên kết giữa họ: Người là Người Tôi tớ, Đấng Mêsia, người trung gian của giao ước mới, Đấng Cứu Rỗi.

Mặt khác, Chúa Kitô phát biểu sự thật một cách hoàn hảo và không ai vượt qua được, một sự thật dần dần được mặc khải và truyền đạt trong các truyền thống thành văn, trong bối cảnh giao ước thứ nhất. Sự thật của Chúa Kitô được ghi lại trong các truyền thống Tân Ước, là truyền thống đã tập hợp chặt chẽ chứng tá tận mắt của các môn đệ đầu tiên, và việc tiếp nhận nó, trong Chúa Thánh Thần, bởi các cộng đồng Kitô giáo đầu tiên.

Sự thật về Thiên Chúa này và sự cứu rỗi loài người, vốn tạo nên tâm điểm của việc mặc khải thần thiêng, và, trong Chúa Giêsu Kitô, mang biểu thức hoàn tất và dứt khoát hệ ở điều gì? Chúng ta tìm được câu trả lời cho câu hỏi này trong công trình của Chúa Giêsu. Người mặc khải Thiên Chúa, Đấng là Cha, Con và Thánh Thần (xem Mt 28:19), Thiên Chúa, Đấng hiện hữu và sống trong chính Người một sự hiệp thông hoàn hảo. Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ hiệp thông sự sống với Người, bằng cách bước theo Người (Mt 4: 18-22), và Người trao cho họ trách nhiệm làm cho mọi người và mọi dân tộc thành các môn đệ của Người (Mt 28:19). Do đó, Người bày tỏ mong muốn cao nhất của Người, khi xin với Chúa Cha: ” “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con” (Ga 17:24). Do đó, sự thật được mặc khải trong Chúa Giêsu có thể được phát biểu: Thiên Chúa là sự hiệp thông trong chính Người, và Thiên Chúa ban sự hiệp thông với Người qua Con của Người (xem Dei Verbum, 2). Linh hứng, mà chúng ta đã nhận ra đặc tính Ba Ngôi trong các tác giả Tân Ước, xuất hiện như con đường thỏa đáng để truyền đạt sự thật này. Có một mối tương quan qua lại giữa linh hứng và sự thật của Kinh Thánh.

Như thế, Qui điển Kinh thánh cho phép chúng ta tiếp cận cùng một lúc cả sự năng động qua đó Thiên Chúa đích thân tự truyền đạt cho con người, qua trung gian các Tiên tri, các tác giả Kinh thánh và cuối cùng qua Chúa Giêsu thành Nadaret, lẫn diễn trình qua đó các cộng đồng tiếp nhận sự mặc khải này trong Chúa Thánh Thần và ghi lại nội dung của nó bằng văn bản.

[nextpage title=”PHẦN BA: VIỆC GIẢI THÍCH LỜI THIÊN CHÚA VÀ CÁC THÁCH THỨC CỦA NÓ”]

PHẦN BA: VIỆC GIẢI THÍCH LỜI THIÊN CHÚA VÀ CÁC THÁCH THỨC CỦA NÓ

1. Dẫn Nhập

104. Khi giới thiệu phần trước, liên quan đến lời chứng của các trước tác Kinh thánh về sự thật trong nội dung riêng của chúng, chúng ta đã giải thích Dei Verbum hiểu ra sao khái niệm về sự thật Kinh Thánh và chúng ta đã bình luận cụm từ: “sự thật mà Thiên Chúa muốn thấy được ghi lại trong các Chữ thánh thiêng vì ơn cứu rỗi của chúng ta”(số 11). Chúng ta đã khám phá ra rằng sự thật mà Kinh thánh muốn truyền đạt cho chúng ta liên quan đến chính Thiên Chúa và dự án cứu rỗi của Người cho loài người. Phần thứ ba của tài liệu này cũng đề cập đến vấn đề sự thật của Kinh Thánh, nhưng khởi đi từ một quan điểm khác. Trong Kinh thánh, chúng ta bắt gặp những điều xem ra mâu thuẫn, những điều không chính xác về lịch sử, những câu chuyện ít có thật và trong Cựu Ước, giới luật và giáo huấn luân lý mâu thuẫn với giáo huấn của Chúa Giêsu. Đâu là “sự thật” của những đoạn Kinh thánh này? Ở đây chúng ta phải giáp mặt với những thách thức thực sự trong việc giải thích Lời Chúa.

Các yếu tố trả lời cho những câu hỏi này được cung cấp bởi chính Hiến chế Dei Verbum. Bản văn công đồng này khẳng định rằng sự mặc khải của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ diễn ra qua trung gian các biến cố và lời nói có tính bổ sung (số 2), nhưng cũng nhận xét rằng Cựu Ước chứa đựng “điều không hoàn hảo và không còn hợp thời”(số 15). Hiến chế tiếp nhận cho mình học lý về “sự hạ mình … của Đức Khôn Ngoan vĩnh cửu” (số 13), một kiểu nói xuất phát từ Thánh Gioan Kim Khẩu (Chrysostom), nhưng trên hết, Hiến chế nại tới khái niệm “thể văn” như được sử dụng trong thời cổ đại, khi tham chiếu thông điệp Divino Afflante Spiritu của Đức Piô XII (EB 557-562).

Đây là khía cạnh cuối cùng mà bây giờ chúng ta phải đào sâu hơn. Ngày nay cũng vậy, sự thật chứa trong một cuốn tiểu thuyết khác với sự thật của sách giáo khoa vật lý. Có nhiều cách viết lịch sử khác nhau, không phải lúc nào cũng là một biên niên sử khách quan. Thơ trữ tình không phát biểu cùng những điều y như một bài thơ anh hùng ca, v.v. Những ghi nhận này có giá trị như nhau đối với nền văn chương của lân bang Cận Đông và thế giới theo văn hóa Hy Lạp. Chúng ta tìm thấy trong Kinh Thánh các thể văn khác nhau được sử dụng trong các lĩnh vực văn hóa này: thi ca, tiên tri, tường thuật, từ ngữ cánh chung, ngụ ngôn, thánh thi, tuyên xưng đức tin, v.v … Mỗi loại trong số này có một cách chuyên biệt để trình bày sự thật.

Trình thuật ở St 1:11, các truyền thống về các tổ phụ và cuộc chinh phục lãnh thổ Israel, lịch sử các vị vua cho đến khi cuộc nổi dậy của anh em nhà Máccabê chắc chắn chứa đựng sự thật, nhưng chúng không có ý định đề ra một biên niên về lịch sử của dân tộc Israel. Tác nhân chính trong lịch sử cứu độ không phải là Israel hay những con người khác, mà là chính Thiên Chúa. Những câu chuyện Kinh Thánh là những câu chuyện thần học. Sự thật của chúng – đối với những gì liên quan đến các bản văn được xem xét trong phần trước đây của tài liệu này – có liên quan đến các sự kiện được kể lại ở đó, nhưng chủ yếu phát xuất từ mục đích giáo huấn, khuyến thiện (parenetic) và thần học của tác giả, người đã thu thập những truyền thống cổ xưa này, hoặc đã khai triển các tài liệu văn chương được thu thập trong kho lưu trữ của các kinh sư, để truyền tải một trực giác tiên tri hoặc khôn ngoan, hoặc để truyền đạt một thông điệp chủ yếu đối với thế hệ của ông.

105. Mặt khác, một “lịch sử cứu rỗi” không tồn tại mà không có cốt lõi lịch sử, nếu đúng là Thiên Chúa tự mặc khải Người qua “các hành động và lời nói liên kết mật thiết với nhau” (Dei Verbum, số 2). Hơn nữa, nếu linh hứng liên quan đến toàn bộ Cựu Ước và Tân Ước, “trong tất cả các phần của chúng” (Số 11), thì chúng ta không thể loại bỏ bất cứ đoạn nào khỏi câu truyện. Do đó, nhà chú giải phải nỗ lực tìm ra ý nghĩa của từng chi tiết, trong bối cảnh của câu truyện trọn vẹn, nhờ các phương pháp khác nhau được liệt kê trong tài liệu năm 1993 của Ủy ban Giáo hoàng về Kinh thánh – Giải thích Kinh thánh trong Giáo hội (xem EB 1259-1560).

Mặc dù một cuộc nghiên cứu dị đại (diachronique) các bản văn là điều không thể thiếu để đưa ra ánh sáng các tái giải thích khác nhau về một sấm ngôn hoặc một câu chuyện, ý nghĩa “chân thật” của một đoạn Kinh thánh được liên kết với hình thức dứt khoát của nó, được chấp nhận như vậy trong Qui điển của Giáo Hội. Việc giải thích lại cũng có thể mang hình thức phúng dụ hóa các bản văn xưa. Do đó, chẳng hạn, một số câu chuyện hoặc một số Thánh vịnh nào đó nói về sự tận diệt và thù hận đối với kẻ thù, dù rất xa với tinh thần Tân Ước, và dù có lưu ý tới sự không hoàn hảo của mặc khải trong Cựu Ước, tuy nhiên vẫn có thể có một giá trị khuyến thiện nào đó đối với các thế hệ được chúng ngỏ lời.

Rõ ràng là một vài nhận xét như thế không giải quyết được tất cả các khó khăn, nhưng điều không thể phủ nhận là Hiến chế Dei Verbum, với kiểu nói “sự thật mà Thiên Chúa muốn thấy được ghi lại trong các Chữ thánh thiêng vì ơn cứu rỗi của chúng ta” (số 11) giới hạn sự thật Kinh Thánh đối vào sự mặc khải thần thiêng liên quan đến chính Thiên Chúa và ơn cứu rỗi loài người. Ngoài ra, việc xem xét các thể loại văn chương đã gia tăng chiều dài và chiều rộng của công việc chú giải, vốn rất phức tạp. Các thí dụ sau đây sẽ minh họa điểm này.

2. Thách thức đầu tiên: những vấn nạn lịch sử

106. Trong phạm vi đoạn này, chúng ta sẽ chỉ thảo luận về một số bản văn khó hiểu từ Cựu Ước và Tân Ước. Các đoạn văn này có bản chất đa dạng, nhưng tất cả, theo một cách khác nhau, đều nêu lên câu hỏi duy nhất: điều gì thực sự đã xảy ra, trong số các yếu tố được bản văn nói tới? Các bản văn có thể chứng thực đến mức nào các sự kiện thực sự đã xảy ra? Việc có vấn nạn đặc thù của mỗi đoạn sẽ được đưa ra ánh sáng trong đoạn có liên quan đến nó.

2.1 Chu kỳ Ápraham (sách Sáng thế)

Hầu hết các nhà chú giải thừa nhận rằng việc soạn thảo cuối cùng các câu chuyện về các tổ phụ, cũng như câu chuyện về Xuất Hành, về Chinh phục, và câu chuyện các Thủ lãnh đã xuất phát từ thời kỳ hậu lưu đày Babylon, thời kỳ Ba Tư. Về những gì liên quan đến chu kỳ Ápraham, các tình tiết liên kết câu chuyện của vị tổ phụ này với các truyền thống tổ phụ khác, đặc biệt qua việc thiên về các câu chuyện hứa hẹn, thì mới có gần đây hơn, và vượt ra ngoài chân trời lúc ban đầu của câu chuyện, tức lúc tự giới hạn vào các câu chuyện của một gia tộc. Một tình tiết như tình tiết ở St 15 – chủ yếu đối với luận điểm của Thánh Phaolô về sự công chính hóa chỉ nhờ đức tin, độc lập với các việc làm theo Luật Môsê (xem Rm 4) – không mô tả các biến cố một cách chính xác như chúng diễn ra, như lịch sử soạn thảo ra nó đã cho thấy. Nhưng nếu đó là tình huống, thì chúng ta có thể nói gì về hành vi đức tin của vị tổ phụ và lập luận của Thánh Phaolô, người xem ra không có điểm tựa Kinh thánh mà ngài rất cần?

Điều đầu tiên có thể quả quyết nhân các câu chuyện về các Tổ phụ (cũng như các câu chuyện Xuất hành và Chinh phục) là chúng không phát xuất từ nơi nào cả. Thực thế, mọi dân tộc đều cần biết và phát biểu, cho chính họ và cho những dân tộc khác, họ đến từ đâu, nơi phát xuất địa dư và thời gian phát xuất của họ, nói cách khác, nguồn gốc của chính họ. Cùng một cách y như các dân tộc xung quanh, người Israel ở thế kỷ thứ 5 và thứ thứ 4 trước Chúa Giêsu Kitô bắt đầu kể lại quá khứ của họ. Đây là những câu chuyện lặp lại các truyền thống xưa, không những để quả quyết rằng dân tộc này có một quá khứ ít nhiều phong phú, giống như các dân tộc khác, mà còn để giải thích và nâng cao giá trị quá khứ này, với sự trợ giúp của đức tin.

107. Vậy, người ta biết gì về Ápraham và các tổ tiên? Có lẽ các ngài là các mục tử, phát xuất từ Lưỡng Hà (Mesopotamia), những dân du mục đi từ đồng cỏ này sang đồng cỏ khác theo mùa, theo mưa và theo sự tiếp đón của các xứ họ đi qua. Các nhà văn sau thời lưu đày, mà sự suy tư được nuôi dưỡng bằng ký ức về việc bị trục xuất và tầm quan trọng của nó đối với đức tin của cộng đồng họ, đã hiểu rằng thế hệ lưu vong đã sống một điều tương tự như kinh nghiệm của các Tổ phụ: Thực thế, thế hệ này đã mất lãnh thổ, các định chế chính trị và tôn giáo (Đền thờ) và phải đến một vùng đất xa lạ và ở lại đó trong cảnh nô lệ. Đó là một tình huống bi đát, một tình huống buộc thế hệ này phải sống bằng đức tin và niềm hy vọng. Sau khi mất đi những gì tạo nên bản sắc của một dân tộc, nghĩa là lãnh thổ và các định chế của tổ quốc, những người lưu vong đáng lẽ đã mất dạng, trong khi ngược lại, họ vẫn sống sót như một dân tộc, nhờ đức tin của họ. Kinh nghiệm triệt để này nuôi dưỡng việc cầu nguyện và đọc lại quá khứ của họ. Không còn nghi ngờ gì nữa, khi những người kể chuyện Kinh thánh mô tả lời hứa thần thiêng và phản ứng đức tin của tổ phụ Ápraham (xem St 15: 1-6), họ không phản chiếu các sự kiện mà việc truyền tải của thế tục sẽ cho là hoàn toàn chắc chắn. Đúng hơn, chính kinh nghiệm đức tin của họ đã giúp họ viết theo cách này, để trình bày ý nghĩa phổ quát của các biến cố và mời đồng bào của họ tin vào quyền năng và sự trung tín của Thiên Chúa, Đấng cho phép họ, cũng như cho tổ tiên họ, trải qua các giai đoạn lịch sử đặc biệt cảm kích.

Hơn cả các sự kiện cụ thể, chính sự giải thích về chúng mới đáng kể, ý nghĩa xuất hiện từ việc đọc lại sự giải thích này mới thực sự hữu hiệu. Thật vậy, ý nghĩa của một giai đoạn lịch sử, sau khi đã trải qua nhiều thế kỷ, không thể được hiểu hoặc ghi lại dưới dạng các câu chuyện thần học và các bài thơ thánh ca, nếu không theo thời gian. Vững mạnh nhờ đức tin vào Thiên Chúa, các tác giả Kinh Thánh đã tìm kiếm ý nghĩa của sự sống còn của dân tộc họ qua nhiều thế kỷ, bất chấp nhiều hiểm nguy và thảm họa khủng khiếp mà họ phải đối mặt, và đã suy ngẫm về vai trò mà Thiên Chúa, và đức tin mà họ mang theo đối với Người, đã đóng trong việc cho phép sự sống sót này: từ sự suy nghĩ này, họ đã có thể diễn dịch rằng từ đầu lịch sử của họ, Người đã hành động như vậy. Do đó, không nên đọc St 15 như thể đây là một biên niên sử, mà như một sự mô tả một tác phong chuẩn mực được Thiên Chúa mong muốn, một chuẩn mực mà các tác giả Kinh Thánh đã sống một cách triệt để, và họ đã có thể truyền lại như thế cho thế hệ của họ và cho các thế hệ tương lai.

Tóm lại, để đánh giá sự thật của những câu chuyện Kinh thánh, cần phải đọc chúng bằng cách tôn trọng cách thức chúng đã được viết ra và theo cách chúng được chính Thánh Phaolô đọc: “Những sự việc này xảy ra cho họ [người Do Thái] để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời sau hết này”(1 Cr 10:11).

2.2 Vượt qua biển (Xh 14)

108. Câu chuyện về cuộc vượt qua biển cả của người Do Thái là một yếu tố chủ yếu trong các bài đọc phụng vụ của Kitô giáo khi cử hành lễ vọng Phục sinh. Câu chuyện này dựa trên một truyền thống rất cổ xưa, để kỷ niệm cuộc giải phóng dân khỏi cảnh nô lệ. Truyền thống truyền khẩu này, khi được viết ra, từng là đối tượng của nhiều “việc đọc lại”, và cuối cùng đã được đưa vào câu chuyện Xuất Hành trong Kinh Tôra. Trong bối cảnh này, cuộc giải phóng dân Israel được trình bày như một sáng thế mới. Cách Chúa tạo ra thế giới bằng cách tách biển khỏi vùng đất khô thế nào thì cách Người “tạo ra” dân tộc Israel cũng thế, bằng cách vạch cho họ một lối đi trên đất khô, vượt qua biển cả. Do đó, tường thuật nối lại một truyền thống kể chuyện cổ xưa, và một sự giải thích thần học, dựa trên nền thần học sáng thế. Sự thật của câu chuyện không chỉ nằm trong truyền thống mà nó nhớ đến – một câu chuyện giải phóng vẫn giữ được trọn tính thời sự của nó ở thời điểm lưu đầy tại Babylon, lúc Israel trong thân phận tù đầy khát mong tự do – mà còn nằm trong giải thích thần học đi kèm với nó. Do đó, bản văn Kinh thánh kết hợp, một cách không thể phân chia, một câu chuyện xưa, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, và việc hiện thực hóa được đề xuất trong đó sau đó. Việc hiện thực hóa này gợi lên tình huống của các tác giả chương Xuất Hành 14, ở thời điểm bản văn được soạn tác. Thật vậy, bên cạnh nền thần học sáng thế, bản văn còn khai triển một nền thần học cứu rỗi, khi trình bày Thiên Chúa của Israel như Đấng Cứu độ giải phóng dân khỏi áp bức, và Môsê như một nhân vật tiên tri mời gọi dân tin tưởng vào sức mạnh cứu rỗi của Thiên Chúa mình: ” Đừng sợ ! Cứ đứng vững, rồi anh em sẽ thấy việc Chúa làm hôm nay để cứu thoát anh em” (Xh 14,13). Cũng y như vậy, thời cổ xưa, Chúa biết bảo vệ dân của Người thế nào thì giờ đây Người cũng có thể giữ gìn họ và ban cho họ sự cứu rỗi, bất chấp mọi tình huống. Mục đích chính của trình thuật Xuất hành không phải là truyền lại việc tường thuật các biến cố xưa, theo cách một tài liệu văn khố, mà đúng hơn là để tưởng nhớ một truyền thống nhằm chứng thực rằng, hôm nay cũng như hôm qua, Thiên Chúa luôn hiện diện bên cạnh dân của Người để cứu vớt họ.

Kinh nghiệm và niềm hy vọng cứu rỗi này, được công bố trong trình thuật Xuất Hành 14, cũng có một thể hiện phụng vụ trong trình thuật Lễ Vượt Qua (Xh 12:1-13.16) trước đó. Phụng vụ Kitô giáo trong Đêm Vọng Phục Sinh cho thấy trình thuật Ex 14 đã “ứng nghiệm” ra sao trong Chúa Giêsu Kitô, trong sự phục sinh mà Đấng Tạo Hóa và Cứu Chúa đã tự tỏ mình ra với dân của Người một cách dứt khoát và không thể vượt qua.

2.3 Các sách Tôbia và Giôna

109. Sách Tôbia không thuộc Kinh thánh tiếng Do Thái, mà thuộc về Kinh thánh tiếng Hy Lạp; sắc lệnh về Qui điển của Công đồng Trente bao gồm nó trong các sách lịch sử của Cựu Ước (Denz 1502). Sách Giôna, trái lại, nằm trong sách Mười hai Tiên tri (còn gọi là “các tiên tri nhỏ”) của Kinh thánh tiếng Do Thái. Hai bản văn này kể cùng một loạt các biến cố, mà người ta có thể tự hỏi liệu chúng có thực sự xẩy ra hay không.

2.3.1 Sách Tôbia

Cái chết của bảy người chồng của cùng một người phụ nữ trước khi hôn nhân được hoàn hợp (Tb 3: 8-17) là một biến cố không có thật đến nỗi một mình yếu tố này đủ báo chúng ta biết rằng trình thuật này chủ yếu có chức năng văn chương. Điều này giải thích vô số những điều không hợp thời: cha của người anh hùng nhân vật chính tự nói về mình như một trong những người Do Thái bị đầy qua Ninivê, và, đồng thời như đối tượng của luật Đệ Nhị Luật (x. Tb 1,1-22); Tobia “nói tiên tri” về sự hủy diệt Ninivê, sự hoang tàn của Giuđêa và Samaria, việc đốt Đền thờ và xây dựng lại (Tb 14: 4-5).

Do đó, chúng ta đang đối diện với một câu chuyện ngụ ngôn tôn giáo bình dân, mà mục đích của nó là mô phạm và xây dựng, và do đó, có thể định vị trong truyền thống khôn ngoan. Đây là một soạn tác văn chương để triển khai một lược đồ quen thuộc – được gia tăng bởi sự sóng đôi giữa Tôbia và Sara: sự sóng đôi về tác phong của người công chính, người chịu khốn khổ vì gian truân, cầu nguyện với Chúa, xin Người gửi ơn cứu độ xuống cho mình.

Sự can thiệp của quỷ Asmodeus bắt nguồn từ truyền thống Kinh Thánh coi Satan và các thiên thần của hắn hành động trong thế giới của chúng ta và gây ra các thảm họa. Những đặc điểm này cho phép ta xếp loại cuốn sách này vào thể loại văn chương kể chuyện, nói về những người anh hùng phàm nhân và siêu phàm, và nhiều nhân vật khác. Khác với các trình thuật khác thuộc loại này, việc can thiệp của ma quỷ được kể lại một cách rất vừa phải trong sách Tôbia. Con quỷ Asmodeus là một nhân vật hư cấu, người không thực sự có khả năng ma quái để nhận chìm con người, đặc biệt những người cố gắng sống trung thành với Thiên Chúa. Và cũng vậy, thiên thần Raphael là một nhân vật có chức năng văn chương, và, theo truyền thống Kinh Thánh không thay đổi, và với việc tiếp nhận của Giáo hội, những hữu thể giống như ngài không có khả năng can thiệp thực sự bằng cách giúp đỡ những người cầu khẩn danh Chúa.

Sách Tôbia là một bản tuyên ngôn nhằm tìm cách ca ngợi các tập tục truyền thống về lòng đạo đức trong Do Thái giáo: cầu nguyện, ăn chay và bố thí (Tb 12:8-9); cũng như việc thực hiện các công việc thương xót, đặc biệt là chôn cất người chết (x. Tb 12:13), lời cầu nguyện chúc lành và hành động tạ ơn để tôn vinh các công trình vinh hiển của Thiên Chúa (xin xem Tb 12:6.22; 13:1-18). Chúng ta hãy lưu ý một khía cạnh đặc thù của sách này: việc nhấn mạnh đến lời cầu nguyện xin thánh hóa đời sống hôn nhân, và hỗ trợ giữa những nguy hiểm.

2.3.2 Sách Giôna

110. Sự kiện sách Giôna được lưu truyền trong các trước tác của Mười Hai Tiên Tri cho thấy nhân vật chính của nó đã nhanh chóng được coi là một nhà tiên tri chân chính (xem 2V:14:25), về lịch sử được định vị trong bối cảnh thống trị của Assyria được trình thuật giả định, trước khi người Babylon và Medes bắt đầu hủy diệt Ninivê, vào năm 612 trước Công nguyên. Sự đánh giá như vậy dường như được củng cố bởi sự kiện này: chính Chúa Giêsu đề cập đến tình tiết nổi tiếng nhất của câu chuyện liên quan nhà tiên tri – ba ngày sống trong bụng cá voi – như một dấu chỉ “có tính lịch sử” loan báo trước biến cố phục sinh của chính Người (xem Mt 12:39-41; Lc 11:29-30; Mt 16:4).

Tuy nhiên, trong trình thuật, không những có các chi tiết, mà cả các yếu tố thuộc về cốt truyện không thể được ghi nhận như các sự kiện lịch sử, và là các yếu tố dẫn đến việc giải thích văn bản như một soạn tác hư cấu, với nội dung thần học quan trọng.

Một số chi tiết ít đúng sự thật – ví dụ, Ninivê là một thành phố rộng lớn, phải mất ba ngày để đi qua (xem Ga 3: 3) – có thể được coi như cường điệu; trái lại, đối với các yếu tố thuộc về cốt truyện, sự kiện một con cá nuốt chửng Giôna và giữ ông ba ngày trong bụng trước khi mửa ra ông(x. Ga 2:1.11) xem ra không đúng sự thật, tương tự như việc hoán cải nhất trí của Ninivê (x. Ga 3:5-10), tất cả đều không có vết tích nào khác trong các tài liệu của người Assyria.

Chúng ta hãy nhấn mạnh hai yếu tố trong số các chủ đề thần học của câu chuyện:

Nội dung của một thông điệp tiên tri không phải là một sắc lệnh không thể hủy bỏ (xem Ga 3: 4), nhưng đúng hơn là một tuyên bố có thể được sửa đổi theo đáp ứng của những người nó ngỏ lời (xem Ga 4: 2.11).

Do Thái giáo sau lưu đầy có đặc điểm ở sự căng thẳng giữa các khuynh hướng duy phổ quát và cởi mở với đối thoại, và các khuynh hướng khép kín và độc hữu hơn. Do đó, người ta có thể nhận thấy một sự tương phản rất rõ ràng, một bên, các sách Rút, Giôna, Tôbia, và bên kia, các sách Haggai, Dacaria, Étra, Nơkhemia và Biên niên sử. Étra, Nơkhemia đã làm cho việc duy trì bản sắc Do Thái thành khả hữu, bằng cách chống lại bất cứ sự pha trộn nào với chủ nghĩa ngoại giáo, đặc biệt trong khung cảnh các cuộc hôn nhân hỗn hợp (xem Er 9-10, Nkm 10:29-31). Tuy nhiên, xu hướng cởi mở và duy phổ quát không biến mất. Nó có thể bắt rễ sâu vào các truyền thống tổ phụ và tiên tri. Sách Rút phản ứng chống lại sự cấm đoán các cuộc hôn nhân hỗn hợp bằng cách trình bầy một người ngoại quốc – Bà Rút người Môáp (xem R 1:4-19) – như tổ tiên của Đavít (xem R 4:17). Giôna đi xa hơn trong quan điểm duy phổ quát, làm cho người Assyria xấu xa và đáng ghét – những kẻ từng phá hủy vương quốc Israel, trục xuất cư dân của nó, và tự hào về những phong tục hiếu chiến hung hãn – thành những người tiếp nhận thông điệp tiên tri khiến họ có khả năng hoán cải.

2.4 Các Tin mừng về thời thơ ấu

111. Chỉ có Tin mừng Mátthêu (Mt 1-2) và Luca (Luca 1:5-2.52) mở đầu công trình của họ bằng điều đáng gọi là “Tin mừng thời thơ ấu”, trong đó trình bầy về nguồn gốc và sự khởi đầu cuộc đời Chúa Giêsu. Trước nhất, chúng ta có thể nhận thấy việc có những khác biệt lớn giữa hai câu truyện, và cả sự hiện diện của những biến cố phi thường khiến người ta ngạc nhiên, chẳng hạn như việc thụ thai đồng trinh của Đức Maria. Từ đó phát xuất việc tra vấn tính lịch sử của những câu truyện này. Chúng ta sẽ trình bầy các khác biệt và tương đồng hiện diện giữa hai câu truyện và tìm cách đưa ra ánh sáng thông điệp của cả hai bản văn.

a. Các khác biệt

Mátthêu đặt ở đầu Tin Mừng của mình (xem Mt 1:1-17), một gia phả khá khác với gia phả tìm thấy trong Lc 3:23-28 sau chuyện kể về việc Chúa Giêsu chịu phép rửa. Việc loan báo Chúa Giêsu được tượng thai bởi hành động của Chúa Thánh Thần đã được ngỏ cùng Thánh Giuse (xem Mt 1:18-25). Chúa Giêsu, sinh ra tại Bêlem ở Giuđêa (xem Mt 2:1), quê hương của Thánh Giuse và Đức Maria, được các Nhà Chiêm Tinh đến viếng thăm; họ được hướng dẫn bởi một ngôi sao, và không biết gì tới mối đe dọa sinh tử của Vua Hêrốt (xem Mt 2:11). Được báo mộng, họ trở về đất nước của mình bằng một con đường khác (xem Mt 2:12). Được một thiên thần của Chúa báo mộng, Thánh Giuse đã trốn sang Ai Cập cùng với Hài Nhi và Mẹ của Người (xem Mt 2:13-15), trước vụ thảm sát các trẻ thơ ở Bêlem (xem Mt 2:16-18). Sau cái chết của Hêrốt, Thánh Giuse, Đức Maria và Hài Nhi trở về xứ sở của họ và sống ở Nadarét, nơi Chúa Giêsu lớn lên (xem Mt 2:19-23).

Sự hiện diện của Thánh Gioan Tẩy Giả và sự song hành của các câu truyện liên quan đến Thánh Gioan và Chúa Giêsu, và những người liên quan đến việc loan báo sự ra đời của các ngài (xem 1: 5-25. 26-38) là những việc chỉ có trong câu truyện ở Lc 1:5-2,52. Câu truyện về sự ra đời, về việc cắt bì và về việc đặt tên cũng thế (x. 1:57-59; 2:1-21). Đức Maria và Thánh Giuse sống ở Nadarét (xem Lc 1:,26), và vì điều tra dân số của Quirinô, các ngài phải về Bêlem (xem Lc 2:1-5), nơi Chúa Giêsu sinh ra (x. Lc 2:6-7 ), và được các mục đồng đến thăm, những người mà một thiên thần của Chúa đã loan báo sự ra đời của Người (x. Lc 2:8-20). Phù hợp với các yêu cầu của Lề Luật, Hài Nhi được dâng vào Đền thờ Giêrusalem và được Ông Simêong và bà Anna chào đón (xem Lc 2:22-40). Chúa Giêsu, lúc mười hai tuổi, trở lại Đền thờ (xem Lc 2: 41-52).

Không yếu tố nào trong câu truyện ở tin mừng Mátthêu mà lại không có trong Tin mừng Luca và ngược lại. Cũng có những khác biệt đáng chú ý giữa hai câu truyện. Theo Tin mừng Mátthêu, Đức Maria và Thánh Giuse sống ở Bêlem trước khi Chúa Giêsu ra đời, và chỉ sau chuyến trốn sang Ai Cập, và theo một chỉ dẫn đặc biệt, các ngài mới đến Nadarét. Theo Tin mừng Luca, Đức Maria và Thánh Giuse sống ở Nadarét, cuộc điều tra dân số mới dẫn họ đến Bêlem, và, không đề cập đến chuyến trốn sang Ai Cập, các ngài trở về Nadarét. Khó có thể đề ra một giải pháp để giải thích các khác biệt như vậy. Mặt khác, các khác biệt này cho thấy sự độc lập trong câu truyện của mỗi vị trong hai tin mừng này. Do đó, sự gặp nhau giữa các câu truyện này chỉ có thể càng có ý nghĩa hơn.

b. Các điểm gặp nhau

112. Cả Thánh Matthêu và Thánh Luca đều ghi lại hai dữ kiện sau đây: Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu, được hứa làm cô dâu cho Thánh Giuse (xem Mt 1:18; Luca 1:27), người thuộc nhà Đavít (xem Mt. 1:20; Lc 1:27). Các ngài không sống với nhau trước khi thụ thai Chúa Giêsu, do Chúa Thánh Thần (xem Mt 1:18.20; Lc 1:35).

Thánh Giuse không phải là cha đẻ tự nhiên của Chúa Giêsu (xem Mt 1:16.18.25; Lc 1:34). Tên Giêsu được truyền đạt bởi một thiên thần (xem Mt 1:21; Lc 1:31), cũng như ý nghĩa cứu độ của nó (xem Mt 1:21; Lc 2:11). Chúa Giêsu sinh ra tại Bêlem vào thời vua Hêrốt (xem Mt 2:1; Lc 1:5; 2:4-7), Người lớn lên ở Nadarét (xem Mt 2:22-23; Lc 2:39.51). Do đó, các dữ kiện căn bản liên quan đến các nhân vật, địa điểm và thời gian đều chung cho cả hai tin mừng gia. Sự hội tụ của họ về việc thụ thai đồng trinh Chúa Giêsu bởi Chúa Thánh Thần, một việc loại trừ Thánh Giuse khỏi làm cha đẻ tự nhiên của Chúa Giêsu, dường như là chủ yếu.

c. Sứ điệp

113. Các Tin mừng Thời Thơ ấu của Mátthêu và Luca giới thiệu phần còn lại trong công trình của họ, và cho thấy những gì được tỏ hiện trong cuộc sống và hành động của Chúa Giêsu đã được dựa trên nguồn gốc của Người ra sao. Qua các danh hiệu khác nhau được trao cho Chúa Giêsu, các Tin Mừng này giải thích mối liên hệ hiện hữu giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa, sứ mệnh cứu độ, vai trò phổ quát của Người, số phận bi thảm của Người, việc bám rễ của Người vào lịch sử Thiên Chúa với dân tộc Israel.

Mátthêu trình bày Chúa Giêsu như Con Thiên Chúa (Mt 2:15), nơi Người, Thiên Chúa hiện diện và thuộc về Người là tên “Emmanuel” – “Thiên Chúa ở cùng chúng tôi” (Mt 1:23). Thiên Chúa quyết định tên của Chúa Giêsu, trong tên này, chương trình sứ mệnh cứu độ của Người được phát biểu: “Người sẽ cứu dân của mình khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1: 21). Chúa Giêsu là người được xức dầu của nhà Đa-vít – Chúa Kitô – (xem Mt 1,1,16,17; 2,4), “Đấng sẽ là mục tử của dân Ta Israel” (Mt 2:6, xem Mk 5:1), vị vua cuối cùng và dứt khoát mà Chúa ban cho dân Người. Sự xuất hiện của Ba Vua cho thấy sứ mệnh của Chúa Giêsu vượt ra ngoài Israel và liên quan đến tất cả mọi dân tộc (xem Mt 2:1-12). Mối đe dọa sinh tử, xuất phát từ vị vua thời đó (xem Mt 2:1-18), và tiếp tục với người kế vị ông ta (x. Mt 2:22), khiến người ta cảm nhận trước sự thống khổ và cái chết của Chúa Giêsu. Việc bắt nguồn của Chúa Giêsu từ dân tộc Israel xuất hiện xuyên suốt câu truyện, và nhất là trong gia phả (Mt 1: 1-17), và trong bốn trích dẫn về sự ứng nghiệm (xem Mt 1: 22-23). 2:15,17-18,23; xem Mt 2:6).

Trong Luca, chúng ta thấy các chỉ dẫn tương tự, mặc dù các kiểu nói và nhấn mạnh của câu truyện có khác nhau. Chúa Giêsu được gọi là “Con Thiên Chúa” (Lc 1,32,35) và, trong Đền thờ, lời đầu tiên của Người, lời duy nhất được thuật lại trong câu truyện tin mừng thời thơ ấu, là: “Con phải ở nơi Cha con” (Lc 2:49). Thông báo cho các mục đồng về sự ra đời của Người, thiên thần tuyên bố: “được sinh ra cho các ông một Đấng Cứu Rỗi là Đấng Kitô, Chúa tể” (Mt 2:11). Thành ngữ “Đấng Sức Dầu của Chúa” (Mt 2:26) có liên quan đến “sự cứu rỗi” (Lc 2:30), “sự giải thoát của Giêrusalem” (Lc 2:38). Mối liên kết của Chúa Giêsu với Đavít được nhấn mạnh (Lc 1:26,69, 2:4,11), và đặc biệt hơn trong loan báo của thiên thần: “Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng của Đavít, cha Người; Người sẽ trị vì mãi mãi trong nhà Gia-cóp và nước Người sẽ không bao giờ cùng (Lc 1:32-33). Ý nghĩa phổ quát của sự xuất hiện của Chúa Giêsu được Simêong nhấn mạnh: sự cứu rỗi xảy ra trong Chúa Giêsu “trước mặt các dân tộc” (Lc 2:31), và Chúa Giêsu là “ánh sáng tự mặc khải cho các quốc gia” (Lc 2:32). Simêong cũng ám chỉ đến những khó khăn trong sứ mệnh của Chúa Giêsu, khi nói đến “dấu chỉ mâu thuẫn” (Lc 2:34). Nhiều nét trong câu truyện được định vị trong bối cảnh đời sống tôn giáo của dân Israel: bản văn bắt đầu bằng một lễ hy sinh trong Đền thờ (Lc 1: 5-22) và kết thúc bằng một cuộc hành hương đến Đền thờ (Lk 2:41-50), trung thành tuân theo các quy định của Luật Chúa (Lc 2: 21-28).

114. Hai tin mừng gia kể lại việc chịu thai đồng trinh Chúa Giêsu bởi Chúa Thánh Thần, và hoàn toàn gán cho hành động của Thiên Chúa sự bắt đầu cuộc đời của Chúa Giêsu, mà không có sự can thiệp của một người cha phàm trần. Trong Mt 1:20-23, việc loan báo về sự ra đời của Chúa Giêsu được đặt trong mối tương quan với sứ mệnh cứu rỗi của Người: chính Người sẽ cứu dân của Người khỏi tội lỗi của họ, và hòa giải họ với Thiên Chúa, chính Người là ” Thiên Chúa ở cùng chúng tôi” và có nguồn gốc thần thiêng. Đấng Cứu Rỗi và sự cứu rỗi chỉ đến từ Thiên Chúa, là các quà tặng của ơn thánh Người. Lc 1:35 đề cập đến các hậu quả của việc thụ thai đồng trinh của Chúa Giêsu: “Đấng được sinh ra sẽ là thánh, Người sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. Trong việc thụ thai đồng trinh Chúa Giêsu, mối liên hệ của Người với Thiên Chúa được biểu lộ. Là một “đấng thánh”, Người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, và ngay cả trong hiện sinh nhân bản của Người, chỉ có Thiên Chúa mới là Cha của Người mà thôi. Việc thụ thai đồng trinh của Chúa Giêsu có một ý nghĩa quyết định, cả để mô tả mối liên hệ của Người với Thiên Chúa lẫn để thiết lập sứ mệnh cứu rỗi của mình có lợi cho nhân loại.

Nhờ xem xét các khác biệt và đồng qui tìm thấy trong các câu truyện về thời thơ ấu của hai tin mừng gia, chúng ta có thể khẳng định rằng sự mặc khải cứu rỗi nằm trong tất cả những gì được nói về con người của chính Chúa Giêsu và về mối liên hệ của Người với lịch sử của Israel và của thế giới, dẫn nhập và minh họa công trình cứu rỗi của Người, được trình bầy trong phần còn lại của Tin Mừng. Các khác biệt, một phần có thể đã được hòa hợp, liên quan đến các yếu tố phụ của câu truyện, mà yếu tố đầu tiên là khuôn mặt trung tâm của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa và vị cứu tinh của nhân loại, một khuôn mặt có chung cho cả hai tin mừng gia.

2.5 Những câu truyện về phép lạ

115. Trong Cựu Ước và Tân Ước, những biến cố phi thường, không tương ứng với tiến trình thông thường của sự vật và vượt quá khả năng của con người, được kể lại và quy cho một sự can thiệp đặc biệt của Thiên Chúa. Đã từ rất lâu, do cách tiếp cận được gọi là khoa học và một số quan niệm triết học nào đó, nên đã có những dè dặt được bày tỏ đối với tính lịch sử của các câu truyện như vậy. Theo khoa học hiện đại, mọi thứ xảy ra trên thế giới này đều dựa trên các quy tắc bất biến, được gọi là “luật tự nhiên”. Vì tất cả đều được xác định bởi các luật này, nên không hề có chỗ cho các biến cố phi thường. Quan niệm triết học theo đó, Thiên Chúa, sau khi đã tạo nên thế giới, không còn can thiệp vào việc vận hành của nó nữa, một vận hành, từ đó trở đi “vận hành” theo các quy tắc bất di bất dịch, cũng được loan truyền sâu rộng. Do đó, những câu truyện kể về các biến cố như thế không thể có tham vọng đạt sự thật, theo quan điểm lịch sử.

Giờ đây, chúng ta hãy xem xét các câu truyện phép lạ của Cựu Ước và Tân Ước, tìm cách đem ra ánh sáng ý nghĩa của chúng trong bối cảnh văn học của chúng. Các tường thuật trong Tân Ước được định vị trong sự liên tục với các truyền thống của dân tộc Israel và cho thấy quyền năng sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa đạt đến sự viên mãn của nó trong Chúa Giêsu Kitô.

a. Những câu truyện trong Cựu Ước

116. Các tường thuật trong Cựu Ước là những dấu ấn đức tin rằng Thiên Chúa tạo nên mọi sự, liên tục hành động trong thế giới và duy trì mọi sự trong hiện hữu và sự sống. Trong đức tin, dân Israel coi thực tại được tạo nên, với tất cả những điều kỳ diệu của nó, như kết quả của hành động đúng giờ đúng lúc của Thiên Chúa, bất kể nói đến các thực tại thông thường hay các thực tại phi thường: tất cả tạo thành một phép lạ vĩ đại liên tục. Tất cả là một thông điệp đức tin, được tóm tắt bằng lời này của Thánh vịnh: “Một mình Người đã làm nên những điều kỳ diệu, vĩnh cửu là tình yêu của Người” (Tv 136:4).

Đức tin này được phát biểu trong khung cảnh các bài thánh ca; chúng nói lên lòng biết ơn, niềm vui và lời ngợi khen, trong các bản văn như Tv 104, Hc 43 (xem Gn 1). Chủ đề của Tv 104, dành riêng cho Thiên Chúa Tạo Hóa, tiếp tục trong Tv 105, nơi quyền năng và trung tín của Thiên Chúa được tôn vinh trong lịch sử dân Israel. Thiên Chúa, Đấng tạo nên mọi sự và hành động trong sáng thế, cũng hoạt động trong lịch sử (Tv 106, 135, 136). Hành động này tự tỏ mình đặc biệt kỳ diệu và phi thường trong việc giải phóng Israel khỏi vòng tôi đòi ở Ai Cập, và trong hành trình tiến về miền đất hứa. Môsê, người đã nhận được từ Thiên Chúa trách nhiệm và khả năng, đã thực hiện nhiều hành vi lạ lùng, được sách Xuất hành nói tới và nhiều bản văn khác (trong đó có Tv 105:26-45). Người ta có thể nhận thấy ảnh hưởng to lớn mà lịch sử giải phóng Israel đã tác động trên các truyền thống văn học cho đến khi đọc lại nó trong Kn15:14-19,17. Nhưng dường như không thể đem ra ánh sáng một cách chắc chắn các biến cố thực sự đã diễn ra. Những truyền thống này là một lời nhắc nhở về hành động của Thiên Chúa trong lịch sử, chúng diễn tả nó và nhận ra nó: Thiên Chúa đã hướng dẫn và cứu dân Người bằng sức mạnh và lòng trung tín.

b. Các phép lạ của Chúa Giêsu

117. Bốn Tin Mừng đề cập đến một loạt các hành động phi thường được Chúa Giêsu thực hiện. Các phép lạ thường xuyên nhất là các vụ chữa trị cho bệnh nhân và trừ quỉ. Ở đấy, người ta còn tìm thấy ba câu truyện về việc phục sinh (xem Mt 9:18-26; Lc 7:11-17; Ga 11:1-44) và những cử chỉ đầy quyền lực đối với thiên nhiên: cơn bão được làm yên (xem Mt 8: 23-27); Chúa Giêsu đi trên mặt nước (xem Mt 14:22-23), sự nhân thừa các ổ bánh và cá (x. Mt 14:13-21), biến nước thành rượu (x. Ga 2:1 -11). Cũng giống như cách giảng dạy bằng dụ ngôn, việc thực hiện các hành động phi thường thuộc về thừa tác vụ của Chúa Giêsu, và được chứng thực nhiều cách. Những câu truyện này không tạo nên một bổ sung sau này vào truyền thống ban đầu về thừa tác vụ của Chúa Giêsu.

Các thuật ngữ mà bốn Tin Mừng dùng để chỉ định những hành động này có tính soi sáng. Mặc dù chúng nói đến sự kinh ngạc của đám đông trước các việc làm của Chúa Giêsu (x. Mt 9:33; Lc 9:43; 19:17; Ga 7:21), các Tin mừng không sử dụng một từ ngữ tương ứng với nghĩa “phép lạ” (một từ ngữ có nghĩa là: công việc gây kinh ngạc). Các Tin Mừng nhất lãm nói đến “các công trình quyền năng” (dynameis), trong khi Tin Mừng Gioan sử dụng hạn từ “các dấu lạ” (simeia). Sự khác biệt trong từ vựng này phải được xem xét. Tất cả những cử chỉ “phi thường” của Chúa Giêsu giúp chúng ta có thể vượt qua tình huống buồn khổ (bệnh tật, nguy hiểm, v.v.). Nhưng Chúa Giêsu bày tỏ sự kiện này: hành động phi thường của Người không phải là một điều tự trong nó, như Mt 11:20 đã phát biểu: ” Bấy giờ Người bắt đầu quở trách các thành đã chứng kiến phần lớn các phép lạ Người làm mà không sám hối”. Quả không đủ khi chỉ ngưỡng mộ và cảm ơn người làm phép lạ: cần phải hoán cải quay về với sứ điệp của Người.

Trong các Tin Mừng nhất lãm, Nước Thiên Chúa nằm ở trung tâm sứ điệp của Chúa Giêsu (Mt 4:17; Mc 1:15; Lc 4:43). Các công trình quyền năng phải xác nhận và làm hiển nhiên sự kiện này: thực tại cứu rỗi của vương quốc này đã đến gần và trở thành hiện diện. Về các công trình của Người, Chúa Giêsu nói: ” Còn nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Mt 12:28; xem Lc 11:20). Qua sự đa dạng của chúng, những công trình này không chỉ biểu lộ quyền năng cứu rỗi của Nước Thiên Chúa, mà còn có chức năng mặc khải, về những gì liên quan tới danh tính của Chúa Giêsu. Sau khi ngài dẹp yên sóng bão, các môn đệ hỏi: ” Ông này là người thế nào mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh ?” (Mt 8:27). Câu hỏi của Thánh Gioan Tẩy Giả – “có phải ngài là người phải đến” – đã được khích động bởi “các công trình được Đấng Kitô thể hiện” (Mt 11:2-3).

Chúa Giêsu trả lời câu hỏi đó bằng cách liệt kê các công trình quyền năng của Người (xem Mt 11:4-5).

Trong Tin Mừng Gioan, những hành động phi thường của Chúa Giêsu được gọi là “các dấu lạ”: do đó chúng phải dẫn đến một thực tại khác. Đề cập đến hành động phi thường đầu tiên – biến nước thành rượu – tin mừng gia tự phát biểu bằng những từ ngữ sau: “Đây là khởi đầu của những dấu lạ mà Chúa Giêsu đã thực hiện. Chính tại Cana xứ Galilêa. Người đã biểu lộ vinh quang của mình và các môn đệ tin vào Người “(Ga 2:11). Do đó, ý nghĩa và mục đích của các dấu lạ hệ ở việc mặc khải vinh quang của Chúa Giêsu, Đấng xuất phát từ mối liên hệ với Thiên Chúa và là “vinh quang mà Người nhận được từ Cha của Người trong tư cách Con duy nhất” (Ga 1:14), và dẫn đến đức tin vào Chúa Giêsu. Thông thường, giáo huấn của Chúa Giêsu có liên quan đến các dấu lạ, cho thấy một khía cạnh chuyên biệt trong ý nghĩa cứu rỗi của chúng. Chúa Giêsu tự mặc khải Người như “bánh sự sống” (x. Ga 6:35,48,51) lúc làm bánh hóa nhiều (xem Ga 6:1-58); như “ánh sáng của thế giới” (Ga 9,5, 8,12, 12,46) sau khi chữa lành người mù (x. Ga 9: 1-41); như “sự phục sinh và sự sống” (Ga 11,25) Sau khi làm cho Lazarô sống lại (xem Ga 11: 1-44).

Trong kết luận đầu tiên của Tin Mừng ngài, Thánh Gioan nhấn mạnh các dấu lạ của Chúa Giêsu và ngỏ lời trực tiếp với độc giả: Những dấu lạ này “được viết ra để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, và để khi tin như thế, anh em có sự sống nhân danh Người” (Ga 20:31). Các môn đệ (xem Ga 20:30) là những nhân chứng tận mắt, và tất cả những người khác phụ thuộc vào lời chứng của họ. Do đó, các dấu lạ được chứng thực và được viết ra nhằm mục đích dẫn đến đức tin vào Chúa Giêsu, không phải một cách mơ hồ nhưng được xác định rõ ràng, cũng như đến sự sống vốn phát xuất từ Người.

Thánh Gioan cũng thường sử dụng thuật ngữ “công việc” (erga) để chỉ những hành động phi thường của Chúa Giêsu. Sau khi chữa lành một người bệnh trong ngày Sa-bát (xem Ga 5: 1-11), Chúa Giêsu giải thích (xem Ga 5: 19-47) công trình của Người phụ thuộc vào Thiên Chúa Cha như thế nào: “đó là những việc Chúa Cha đã giao cho tôi để tôi hoàn thành; chính những việc tôi làm đó làm chứng cho tôi rằng Chúa Cha đã sai tôi”(Ga 5:36, xem 10:25,37-38; 12:37-43). Chữ “công việc” nhấn mạnh một đặc điểm khác trong hành động của Chúa Giêsu. Chúng là “các dấu lạ” đối với con người, và là “các công việc” nhắc đến “công việc” của Chúa Cha. Vì thế, chúng làm chứng cho sự kiện này: Chúa Giêsu được Thiên Chúa Cha sai đến.

118. Cuối cùng chúng ta hãy đề cập đến những gì cấu thành thuật ngữ và đỉnh cao của mọi dấu lạ và công việc của Chúa Giêsu: sự phục sinh của Người. Nó không chỉ đơn giản là một “dấu lạ” để nhìn, nó là công việc của Thiên Chúa Cha, bởi vì “Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết” (Rm 10:9; xem Gl 1:1; vv ..). Chính biến cố phục sinh không ai đã nhìn thấy, nhưng nó được báo cáo cho các môn đệ, những người trở thành chứng nhân của nó (xem Cv 10:41), nhờ vào Sự hiện ra của Chúa Kitô Phục sinh. Mục đích của các dấu lạ và công việc do Chúa Giêsu thực hiện hệ ở chỗ mặc khải mối liên hệ của Người với Thiên Chúa, và làm cho hiển thị công việc cứu rỗi của Người, một công việc có thể được định nghĩa như là sự giúp đỡ mang đến cho nỗi khốn cùng của con người, và như một cuộc thông đạt, một món quà sự sống.

Tất cả những điều đó được mang đến chỗ nên trọn nhờ sự phục sinh. Sự phục sinh này mặc khải và xác nhận sự kết hợp chặt chẽ của Thiên Chúa với Chúa Giêsu, nó tượng trưng cho việc vượt qua cái chết và tất cả các bệnh tật, nó hiện thực hóa việc bước sang sự sống hoàn hảo, trong sự hiệp thông đời đời với Thiên Chúa. Thánh Phaolô loan báo sự phục sinh của Chúa Giêsu một cách xác tín rằng: “Đấng đã làm cho Chúa Giê-su trỗi dậy cũng sẽ làm cho chúng tôi được trỗi dậy với Chúa Giê-su, và đặt chúng tôi bên hữu Người cùng với anh em” (2 Cr 4:14).

2.6 Những câu truyện về Phục sinh

119. Các tường thuật Phục Sinh cho thấy một khó khăn chuyên biệt liên quan đến sự thật lịch sử của chúng, liên hệ tới sự kiện này: có nhiều sự khác biệt giữa chúng, không dễ hòa hợp, nếu người ta dừng lại ở chiều kích hoàn toàn có tính sự kiện của câu truyện.

Chính biến cố phục sinh của Chúa Giêsu không được mô tả trong bất cứ bản văn nào của Tân Ước. Nó bị loại khỏi mắt người phàm và chỉ thuộc về mầu nhiệm của Thiên Chúa. Ngược lại, có hai loại câu truyện về Phục sinh kể lại những gì đã xảy ra sau cuộc phục sinh: Các phụ nữ đi thăm mộ Chúa Giêsu và các lần hiện ra khác nhau của Chúa Phục sinh (xem thêm 1 Cr 15:3-8), Đấng tự tỏ mình đang sống với các chứng nhân Người đã chọn. Chuyến viếng thăm mộ tạo nên biến cố phục sinh độc đáo được chúng ta tìm thấy trong câu truyện tương tự của bốn sách Tin Mừng, mặc dù có nhiều biến thể trong các chi tiết của bản văn.

Một cách đặc thù hơn, chúng ta muốn xem xét ba sự khác biệt được tìm thấy trong bốn câu truyện:

a. Chỉ có đoạn Mt 28:2 đề cập đến một trận động đất trước khi đề cập tới việc các phụ nữ đến ngôi mộ của Chúa Giêsu.

b. Chỉ có đoạn Mc 16:8 nói đến việc các phụ nữ trốn chạy vì sợ hãi và sự im lặng của họ sau cuộc gặp gỡ thiên sứ.

c. Theo các sách nhất lãm (xem Mt 28:5-7, Mc 16:6-7, Lc 24:5-7), thông điệp liên quan đến sự phục sinh của Chúa Giêsu được truyền đến các phụ nữ bởi một hoặc nhiều sứ giả của Thiên Chúa; Ngược lại, theo Ga 20: 14-17, Maria Mađalêna, mặc dù đã nhìn thấy hai thiên thần trong ngôi mộ (xem Ga 20:12-13) đã trực tiếp nhận từ Chúa Giêsu việc loan báo sự phục sinh của Người.

a. Trận động đất

120. Sự kiện chỉ có đoạn Mt 28:2 đề cập đến trận động đất không có nghĩa là các Tin Mừng khác, các tin mừng không đề cập đến nó, đã phủ nhận nó. Một kết luận như vậy, chỉ dựa trên một lập luận im lặng, sẽ không chắc chắn. Mặt khác, “trận động đất” dường như thuộc về thần học của Thánh Matthêu. Chỉ có tác giả tin mừng này nói đến một trận động đất – kèm theo những hiện tượng phi thường khác – sau cái chết của Chúa Giêsu (xem Mt 27:51-53), và trình bầy nó như lý do khiến viên bách quản và binh lính của ông ta khiếp sợ và thú nhận ngôi vị Con trai Thần thiêng của Chúa Giêsu bị đóng đinh (xem Mt 27:54). Nhân vấn đề này, ta hãy lưu ý điều này: các mô tả thần hiện (théophanies) trong Cựu Ước coi động đất như là một trong những hiện tượng qua đó sự hiện diện và hành động của Thiên Chúa được tỏ hiện (xem Xh 19:18; Tl 5:4-5; 1 V 19:11; Tv 18:8; 68:8-9; 97:4; Is 63:19). Trong Khải Huyền, trận động đất được coi là một chấn động nhằm làm sụp đổ “hệ thống trần gian”, một hệ thống tương ứng với một thế giới, vì được xây dựng bên ngoài Thiên Chúa và đối nghịch với Người, sẽ sụp đổ vào một thời điểm đã định (xem Kh 6:12; 11:13; 16:18).

Do đó, có xác suất là Thánh Matthêu sử dụng “ý định văn học” [motif littéraire] này. Khi đề cập đến trận động đất, ngài muốn nhấn mạnh rằng cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu không phải là những biến cố thông thường, mà là những biến cố “làm đảo lộn”, trong đó chính Thiên Chúa hành động và hiện thực hóa ơn cứu rỗi loài người. Ý nghĩa chuyên biệt của hành động thần thiêng phải được đem ra ánh sáng khởi đi từ bối cảnh Tin Mừng: cái chết của Chúa Giêsu “làm nên trọn” ơn tha tội và hòa giải với Thiên Chúa (Mt 20:28; 26:28) ; và trong sự phục sinh của Người, Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết, bước vào sự sống của Thiên Chúa Cha và nhận được quyền năng trên mọi sự (xem Mt 28:18-20). Do đó, Tin mừng không nói tới trận động đất mà sức mạnh của nó có thể được đo bằng các độ cân đo nhất định, nhưng nó tìm cách đánh thức sự chú ý của độc giả và hướng sự chú ý ấy về phía Thiên Chúa, bằng cách làm nổi bật yếu tố quan trọng nhất là sự phục sinh của Chúa Giêsu: mối liên hệ của Người với quyền năng cứu rỗi của Thiên Chúa.

b. Tác phong của các phụ nữ

121. Trường hợp ở Mc 16:8 cũng tương tự. Bản văn đề cập đến phản ứng của các phụ nữ đối với thông điệp của thiên thần, một phản ứng sợ hãi và kinh hãi: “Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ hãi” Các tác giả tin mừng khác không thuật lại phản ứng này. Giống như trận động đất là một trong những hiện tượng đi kèm với sự biểu lộ quyền năng của Thiên Chúa, cũng vậy, nỗi sợ hãi tượng trưng cho phản ứng theo thói quen của con người đối với một biểu lộ như vậy. Một trong những đặc điểm của Tin mừng Máccô hệ ở việc xác định chính xác bản chất và loại biến cố được nó thuật lại, khởi đi từ phản ứng của những người tham dự vào chúng (xem Mc 1:22, 27; 4:41; 5:42, v.v.). …). Phản ứng mạnh mẽ và rõ rệt nhất trong tin mừng của ngài là phản ứng của các phụ nữ, sau khi họ nghe được thông điệp phục sinh của sứ giả Thiên Chúa. Qua phản ứng của họ, Tác giả tin mừng nhấn mạnh rằng sự phục sinh của Chúa Giêsu bị đóng đinh là biểu lộ lớn nhất của quyền năng cứu rỗi của Thiên Chúa. Tác giả tin mừng không những truyền đạt chính biến cố mà còn cho thấy cả ý nghĩa xác định của nó đối với các hữu thể nhân bản và hiệu quả của nó đối với họ.

c. Nguồn gốc thông điệp phục sinh

122. Nguồn gốc của thông điệp phục sinh được trình bày nhiều cách khác nhau bởi các Tin mừng. Theo các tin mừng nhất lãm (Mt 28:5-7; Mc 16:6-7; Lc 24:5-7), các phụ nữ đến ngôi mộ của Chúa Giêsu và thấy nó trống rỗng, nhận được từ một hoặc hai thiên sứ sứ điệp liên quan đến sự phục sinh của Chúa Giêsu. Ngược lại, theo Ga 20: 1-2, Maria Mađalêna, sau khi thấy ngôi mộ trống, đã đến gặp các môn đệ và nói với họ: “Người ta đã lấy Chúa khỏi ngôi mộ của Người, và chúng tôi không biết họ đặt nó ở đâu” (Ga 20:2). Bà lặp lại hai lần nữa (xem Ga 20:13,15) điều bà thấy ngôi mộ trống, và chỉ mang thông điệp phục sinh đến cho các môn đệ (xin xem Ga 20:18) sau khi chính Chúa phục sinh hiện ra với bà (xem Ga 20:14-17). Người ta có thể tự hỏi liệu Thánh Matthêu, Thánh Máccô và Thánh Luca, khi đề cập đến việc khám phá ra ngôi mộ trống, có dự ứng sự giải thích đích thực cho sự kiện này, bằng cách thoát khỏi lối giải thích, đã nhắc, từng được Maria Mađalêna đưa ra hay không (xem Ga 20: 2-13, 15; xem thêm Mt 28:13). Bằng cách đặt lời giải thích này lên môi miệng của một sứ giả trên trời, ba tác giả tin mừng coi đó như một kiến thức siêu phàm, chỉ có thể đến từ một mình Thiên Chúa. Nhưng nguồn gốc thực tế của lối giải thích này là chính Chúa phục sinh, Đấng đã hiện ra với các nhân chứng được chọn. Không thể nghi ngờ rằng nền tảng đức tin vững chắc nhất vào sự phục sinh của Chúa Giêsu được tạo thành bời các lần hiện ra của Người (1 Cr 15:3-8).

Bốn tường thuật của chuyến viếng thăm ngôi mộ, với các khác biệt của chúng, làm cho sự phối hòa lịch sử của chúng trở nên khó khăn, nhưng các khác biệt này chính xác đã tạo thành một lời mời để hiểu chúng một cách chính đáng. Nghiên cứu về ba điểm khác biệt chính của chúng – trận động đất, các phụ nữ trốn chạy, thông điệp trên trời – đã cho thấy một ý nghĩa chung: những câu truyện này là bằng chứng về Thiên Chúa và về sự can thiệp dứt khoát của quyền năng cứu rỗi của Người trong sự phục sinh của Chúa Giêsu. Kết quả này, nếu, một mặt, giải phóng khỏi sự gò bó của việc phải coi từng chi tiết của câu truyện – không những các câu truyện Phục sinh, mà cả toàn bộ các Tin mừng – như dữ kiện chính xác của một biên niên lịch sử, mặt khác, kích thích phải cởi mở và chú ý đến ý nghĩa thần học phát xuất không những từ các khác biệt, mà còn từ mọi chi tiết của câu truyện.

d. “Giá trị thần học của các sách Tin mừng”

123. Sự kiện coi các Tin mừng như một biên niên sử các sự kiện, dựa trên một tường trình chính xác của các nhân chứng, vẫn tạo nên một ý kiến đương thời. Một xác tín như vậy dựa trên ý tưởng chính đáng rằng đức tin Kitô giáo không phải là một suy đoán phản lịch sử, mà dựa trên những sự kiện thực sự xảy ra. Thiên Chúa hành động trong lịch sử và làm cho Người hiện diện một cách ưu việt trong lịch sử Con nhập thể của Người. Nhưng một quan niệm chỉ thấy trong các sách Tin mừng duy nhất một loại biên niên sử nào đó có thể không nhìn ra tầm quan trọng thần học của chúng, và do đó bỏ qua sự phong phú của chúng, một điều chính xác hệ ở sự kiện chúng nói về Thiên Chúa. Ủy ban Giáo hoàng về Kinh thánh đã khẳng định vào năm 1964, trong Chỉ thị về Chân lý lịch sử của các sách Tin mừng, Sancta Mater Ecclesiae rằng: “Các nghiên cứu gần đây mang lại kết quả là: cuộc đời và giáo huấn của Chúa Giêsu không được tường thuật với mục đích duy nhất là để lưu giữ ký ức về Người, nhưng ‘để rao giảng’ theo cách cung cấp cho Giáo hội nền tảng của đức tin và luân lý; Đây là lý do tại sao nhà chú giải, khi xem xét kỹ lưỡng những lời chứng của các tác giả tin mừng, phải tiến tới mức biểu lộ hết sức cần mẫn các khẳng định thần học về giá trị vĩnh cửu của các sách Tin mừng, và đưa ra ánh sáng đầy đủ sự cần thiết và tầm quan trọng của lời giải thích của Giáo hội “(EB 652).

Do đó, chúng ta phải xét đến sự kiện này: các sách Tin Mừng không chỉ là các biên niên sử về các sự kiện trong cuộc đời của Chúa Giêsu, vì các tác giả tin mừng cũng tìm cách phát biểu trong đó, theo phương thức tường thuật, giá trị thần học của các biến cố này. Điều này có nghĩa: trong mọi điều chúng tường thuật, chúng không những chỉ tìm cách duy trì các dữ kiện của một biên niên sử, mà còn nhằm mục đích đưa ra một “bình luận thần học” về các sự kiện được tường thuật, diễn giải giá trị thần học của chúng. và làm chứng cho mối liên kết của chúng với Thiên Chúa.

Nói cách khác, ý muốn loan báo Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa và Đấng Cứu độ loài người – một ý muốn thuộc trật tự “thần học” – chiếm ưu thế trong các Tin mừng và là nền tảng của chúng. Việc nhắc đến các sự kiện cụ thể, mà chúng ta thấy trong các sách Tin mừng, phải được thấu hiểu trong bối cảnh mục tiêu thần học này. Hệ luận là, trong khi các quả quyết thần học về Chúa Giêsu có giá trị trực tiếp và chuẩn mực, thì các yếu tố hoàn toàn có tính “lịch sử” chỉ có chức năng bổ trợ.

3. Thách thức thứ hai: các vấn đề đạo đức và xã hội

124. Các bản văn Kinh Thánh liên quan đến tác phong rõ ràng vô luân, những tác phong phát biểu các cảm quan thù hận và bạo lực, hoặc cổ vũ các điều kiện xã hội mà ngày nay bị coi là bất công, cũng tạo nên một thách thức cần giải thích. Những bản văn này có thể gây gương mù cho các Kitô hữu hoặc làm họ mất phương hướng; những người này đôi khi bị những người ngoài Kitô giáo buộc tội, trong sách thánh của họ, có chứa các yếu tố dẫn đến một tôn giáo dạy sự vô luân và bạo lực. Trong khuôn khổ câu hỏi khó khăn này, chúng tôi sẽ cố gắng đưa ra một giải thích, trong Cựu Ước, về bạo lực vốn gán cho các luật “tru hiến” (hủy diệt) và các Thánh vịnh đòi trả thù; trong Tân Ước, chúng ta sẽ đề cập tới vấn đề về địa vị xã hội của phụ nữ trong các thư của Thánh Phaolô.

3.1 Bạo lực trong Kinh thánh

125. Sự hiện diện trong Kinh thánh, và đặc biệt trong Cựu Ước, của nhiều trình thuật về bạo lực và sự tàn ác tạo nên một trong những trở ngại lớn đối với việc tiếp nhận nó như một bản văn linh hứng. Và điều này càng như thế hơn nữa vì, thông thường, bạo lực và sự tàn ác được Thiên Chúa truyền lệnh, hoặc hiện diện trong các lời cầu nguyện ngỏ cùng Thiên Chúa, đôi khi chúng được các tác giả thánh trực tiếp qui cho chính Người.

Không nên tối thiểu hóa sự khó chịu của các độc giả đương thời. Thực thế, nó đã xui khiến một số người bác bỏ các bản văn Cựu Ước, bị coi là lỗi thời và không thể nuôi dưỡng đức tin. Chính phẩm trật Công Giáo cũng đã tri nhận các rủi ro mục vụ (enjeux pastorales) của vấn đề, nên đã đưa ra quyết định rằng, trong phụng vụ công cộng, không nên đọc toàn bộ các đoạn văn, và nên bỏ qua một cách có hệ thống những câu thơ tỏ ra gây ngỡ ngàng đối với sự nhạy cảm của Kitô hữu. Người ta có thể diễn dịch một cách sai lầm rằng một phần của Kinh thánh không được hưởng đặc sủng linh hứng, không tự biểu lộ là “có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính” (2 Tm 3:16).

Do đó, dường như không thể không chỉ ra một số trục giải thích cho phép một phương thức chính đáng hơn của truyền thống Kinh Thánh, đặc biệt các bản văn gây ra vấn đề, dù sao, cần phải được giải thích trong bối cảnh toàn diện của Kinh thánh, nghĩa là, dưới ánh sáng của thông điệp tình yêu của tin mừng, kể cả đối với các kẻ thù (xem Mt 5:38-48).

3.1.1 Bạo lực và các phương thuốc pháp lý của nó

126. Ngay từ những trang đầu tiên, Kinh thánh đã cho thấy sự đột nhập của bạo lực vào xã hội loài người (xem St 4:8, 23-24; 6:11,13), mà nguồn gốc nằm trong sự bác bỏ Thiên Chúa dưới hình thức thờ ngẫu tượng (xem Rm 1:18-3e). Kinh thánh tố cáo và lên án tất cả các hình thức lạm dụng, nô lệ, chiến tranh huynh đệ tương tàn, gây hấn con người, hệ thống áp bức, bất luận giữa các quốc gia hay ngay trong chính Israel (xem Am 1: 3-2,16). Bằng cách trình bày cho loài người các hậu quả khủng khiếp của sự đồi trụy tâm hồn (xem St 6:5, Grm 17:1), Lời Chúa có vai trò tiên tri: nó mời gọi chúng ta nhận ra điều ác để tránh và chống lại nó. Để hiểu biết điều thiện cần được chu toàn (Rm 3:20), và tạo điều kiện dễ dàng cho diễn trình hoán cải, Kinh thánh tuyên bố Luật của Thiên Chúa, một luật tạo nên chiếc thắng (frein) ngăn chặn việc lan tràn bất công. Kinh Tôra của Chúa không những chỉ cho ta con đường công chính mà mọi người được kêu gọi tuân theo một cách trung thành, mà nó còn quy định tác phong phải giữ khi giáp mặt với kẻ có tội để cái ác bị diệt trừ (xem Đnl 17:12; 22:21,22,24, v.v.), các nạn nhân được bồi thường, và hòa bình được thiết lập. Một bố trí như vậy không thể bị lên án là bạo lực. Sự trừng phạt được xác nhận là cần thiết, không những để làm nổi bật sự đồi bại và tính nguy hiểm của tội ác, mà ngoài việc đặt để một thưởng phạt chính đáng, nó còn nhằm mục đích tu sửa thủ phạm, và, khi xui khiến người ta sợ đau, nó giúp xã hội và cá nhân tránh được sự ác. Xóa bỏ hoàn toàn hình phạt là tương đương với việc dung túng cho những hành vi sai trái, và trở thành đồng phạm của chúng. Hệ thống hình sự, được quy định bởi điều thường gọi là “luật trả thù” (“mắt đền mắt, răng đền răng”: Xh 21:24, Lv 24:20; Đnl 19:21), đại diện cho một cách cổ vũ hợp lý lợi ích chung.

Dù không hoàn hảo do các khía cạnh cưỡng chế, và phương thức của một số biện pháp trừng phạt của nó, một hệ thống như vậy, với các điều chỉnh hợp thời, đã được giả định bởi các hệ thống tư pháp của mọi thời đại và mọi quốc gia, vì nó đặt căn bản đầy lý tưởng, trên tính cân xứng giữa tội phạm và hình phạt, giữa tác hại gây ra và tác hại phải chịu. Trái ngược với một sự trả thù võ đoán, biện pháp phản ứng công bằng đối với một hành động sai trái đã được ấn định ở đó.

Người ta có thể phản bác rằng một số quy tắc trừng phạt được dự liệu bởi các quy luật trong Cựu Ước có thể xem ra tàn nhẫn không thể chịu đựng được (như đánh đòn – xem Đnl 25:1-3 – hoặc chặt tay – Đnl 25:11-12); cũng thế, hình phạt tử hình, dự liệu cho các tội nghiêm trọng nhất, ngày nay đang bị tranh cãi. Người đọc Kinh thánh, khi đối diện với các bản văn này, một mặt, phải nhận ra đặc điểm lịch sử của luật pháp Kinh thánh, ngày nay đã lỗi thời bởi sự hiểu biết tốt hơn về quyền bất khả nhượng của con người, trong khuôn khổ thi hành công lý; mặt khác, các lệnh truyền xưa được ghi lại trong Kinh Thánh cũng có chức năng cảnh báo mức độ nghiêm trọng của một số tội ác, đòi phải có một phản ứng thích hợp để ngăn chặn sự lan tràn của sự ác.

Khi Kinh Thánh gán cho Thiên Chúa và thẩm phán nhân bản một thái độ tức giận khi thi hành công lý trừng phạt, đó không phải là một tác phong không thích hợp: không được để sự ác không bị trừng phạt, và điều quan trọng là các nạn nhân được giải cứu và bồi thường. Trên một bình diện khác, Kinh thánh liên kết viễn tượng một Thiên Chúa kiên nhẫn với viễn tượng một Thiên Chúa bảo đảm công lý (x. Xh 34:6; Ds 14:18: Tv 103:8, v.v.), và trên hết cởi mở đối với sự tha thứ cho người có tội (cf Is 1:18; St 4:11), sự tha thứ thuận tình cho những người bày tỏ sự ăn năn bằng lời nói và hành động của họ (cf St 3:10; Edk 18:23). Kinh thánh đề xuất với con người, vốn có trách nhiệm đối với công lý và hòa hợp xã hội, mô hình thần thiêng, một mô hình liên kết sự nghiêm khắc và kỷ luật cần thiết với viễn ảnh tha thứ, để họ có thể bắt chước mô hình này.

3.1.2 Các luật “tru hiến” (hủy diệt)

127. Ở Đệ nhị luật, trong số nhiều điều khác, chúng ta đọc thấy: Thiên Chúa ra lệnh cho Israel lật đổ các quốc gia Canaan và buộc họ phải bị tru hiến (xem Đnl 7:1-2; 20:16-18). Lệnh này đã được Giosuê thi hành một cách trung thành (xem Ds 6-12) và cũng được thực hiện trong thời kỳ quân chủ đầu tiên (xem 1 S 15). Những bản văn này tự cho thấy có vấn đề, thậm chí còn hơn thế nữa nơi tất cả các cuộc chiến tranh và tàn sát được Cựu Ước thuật lại. Người ta không thể chấp nhận được việc dựa vào chúng để hợp pháp hóa chương trình chính trị duy dân tộc, biện minh cho bạo lực chống lại các dân tộc khác: điều này thực sự làm sai lệch ý nghĩa của các trang kinh thánh.

Để khởi đầu, cần phải lưu ý rằng các bản văn này không được trình bầy như các câu truyện lịch sử: trong một cuộc chiến thực sự, các bức tường của một thành phố không sụp đổ vì tiếng kèn (xem Gs 6:20), và người ta không thấy việc làm thế nào sự phân phối đất đai lại có thể diễn ra một cách thực sự hòa bình bằng cách rút thăm (xem Gs 14:2). Mặt khác, luật pháp của Đệ nhị luật, là luật ra lệnh việc tận diệt người Canaan, làm sao có thể mang được hình thức viết ở một thời kỳ trong đó các giống dân này không còn hiện hữu trên đất Israel. Do đó, cần phải xác định lại một cách cẩn thận thể loại văn học của những câu truyện này. Như những nhà giải thích tốt nhất trong truyền thống giáo phụ đã đề xuất, câu chuyện sử thi về cuộc chinh phục có thể được hiểu như một loại dụ ngôn, miêu tả các nhân vật có giá trị biểu tượng. Mặt khác, luật nói về “tru diệt” đòi một giải thích phi nghĩa đen, giống như cách lệnh của Chúa đòi ta phải tự chặt tay hoặc móc mắt nếu chúng là dịp gây gương mù (xem Mt 5:29; 18:9).

Do đó, chúng ta cần xác định phải định hướng việc đọc các trang khó khăn này ra sao. Khía cạnh gây tranh cãi đầu tiên của truyền thống văn học vừa được đề cập là khía cạnh chinh phục, hiểu như sự hủy diệt các cư dân của nơi ấy, cho phép mình định cư ở đó thay thế họ. Ở đây điều không thuyết phục là nại tới khái niệm “quyền của Thiên Chúa” trong việc phân phối đất đai bằng cách dành ưu tiên cho những kẻ Người chọn (xem Đnl 7:6-11; 32:8-9), vì điều này không công nhận quyền hợp pháp của các dân tộc tự trị này được đòi lại nó. Các bản văn Kinh thánh cho ta các hướng giải thích có tính thuyết phục khác. Nơi đầu tiên là bài tường thuật mô tả cuộc xung đột giữa hai nhóm, có trạng thái kinh tế và quân sự khác nhau: trạng thái của người Canaan, rất mạnh mẽ (xem Đnl 7:1; xem thêm Ds 13:33, Đnl 1:28). Am 2:9, v.v.) và trạng thái của người Israel, yếu ớt và không được chống đỡ. Do đó, để làm gương, câu truyện không kể lại cuộc chiến thắng của kẻ mạnh nhất, nhưng trái lại, là chiến thắng của kẻ nhỏ bé, phù hợp với một “hình tượng” đã được chứng thực suốt bộ Kinh thánh, cho đến tận Tân Ước (Lc 1:52; 1Cr 1:27). Điều này tương ứng với việc đọc lịch sử theo lối tiên tri, một lối đọc diễn giải cuộc chiến thắng của những “người hiền lành”, trong một cuộc thánh chiến, như việc thiết lập ra Nước Chúa trên trái đất. Ngoài ra, theo lời chứng Kinh Thánh, Thiên Chúa coi người Canaan phạm những tội rất nghiêm trọng (xem St 15:16; Lv 18:3, 24-30; 20:23; Đnl 9:4-5, v.v.), trong đó, có việc giết con trai của họ trong các nghi thức đồi trụy (cf Đnl 12:31; 18:10-12). Câu truyện do đó trình bày việc thi hành công lý thần thiêng trong lịch sử. Và Giosuê hành xử như “đầy tớ của Chúa” (Gs 24:29; Tl 2:8) theo cách ông đảm nhận việc thi hành công lý này: các chiến thắng của ông liên tục được gán cho Chúa và sức mạnh siêu phàm của Người. Đề tài văn học xuyên suốt về công lý mà các quốc gia phải đương đầu đã có từ những câu truyện Kinh thánh đầu tiên, sau đó, nhờ được chứng thực nơi các tiên tri và trong các trước tác khải huyền, nó sẽ được áp dụng cho nhiều dân tộc khác, bất cứ khi nào Chúa phán xét rằng một quốc gia đáng bị xử phạt– đây là trường hợp Israel.

Về phương diện này, các tín hữu của Chúa cần phải hiểu luật tru hiến và việc áp dụng nó một cách có ý thức. Một luật pháp như vậy dựa trên định nghĩa về dân giao ước như một dân thánh (x. Đnl 7:6), một điều, theo quan điểm cực đoan, có thể có nghĩa sự hiện hữu của một khác biệt triệt để khiến học trở thành tách biệt khỏi các dân tộc khác. Thiên Chúa chắc chắn không đưa ra mệnh lệnh phải tiến hành các lạm dụng được biện minh bởi động cơ tôn giáo, nhưng Người yêu cầu phải vâng phục một nghĩa vụ công lý, tương tự như việc theo đuổi, lên án và giết chết thủ phạm của một tội ác hàng đầu – bất luận đó là một cá nhân hay một cộng đồng. Thương hại một phạm nhân, bằng cách tha cho anh ta, bị coi như một hành động bất tuân và bất công (xem Đnl 13:9-10; 19:13,21: 25:12, 1Sm 15:18-19; 1V 20:42). Trong trường hợp này, hành vi rõ ràng là bạo lực được coi là nhiệt tình để loại bỏ cái ác, và do đó bảo vệ lợi ích chung. Dòng văn học và thần học này được cân bằng bởi những dòng văn học khác – trong đó có trước tác tư tế – loại trước tác, đứng trước các sự kiện y hệt như thế, ngược lại, lại gợi ý một định hướng hòa bình rõ ràng. Vì lý do này, điều thích đáng là hiểu toàn bộ biến cố chinh phục như một loại biểu tượng, tương tự như những gì chúng ta đọc trong một số dụ ngôn tin mừng bàn đến công lý (xem Mt 13:30, 41-43,50; 25:30,41; v.v…). Câu chuyện về chinh phạt này cần được liên kết với các trang khác của Kinh thánh vốn phát biểu lòng cảm thương thần thiêng và sự tha thứ của Người – những điều vốn tạo nên chân trời và cùng đích của tất cả các hành động lịch sử của Chúa Tể cả trái đất, và mẫu mực của hành động công chính của con người.

3.1.3 Lời cầu nguyện xin trả thù

128. Biểu thức bạo lực xem ra đặc biệt lạc điệu khi nó bước vào lời cầu nguyện. Tuy nhiên, chúng ta thấy trong các Thánh vịnh, nhiều biểu thức thù ghét và ước muốn trả thù, trái ngược hoàn toàn với các tâm tình yêu thương kẻ thù được Chúa Giêsu giảng dạy cho các môn đệ của Người (xem Mt 6:44; Lc 6:27,35). Mặc dù vẫn tôn trọng quyết định khôn ngoan của phụng vụ trong việc bỏ qua những điều có thể gây gương mù, ta vẫn cần phải cung cấp một số giải thích giúp các tín hữu ngày nay, giống như ngày xưa, sở đắc được toàn bộ di sản cầu nguyện của Israel.

Cách chính giúp giải thích và tiếp nhận những biểu thức khó khăn của các Thánh vịnh hệ ở việc hiểu thể loại văn học. Điều này có nghĩa: các biểu thức chúng ta đọc ở đó không nên được hiểu theo nghĩa đen. Trong một lời cầu nguyện khẩn nài và than thở, được một người bị bách hại kêu van, động cơ “nguyền rủa” xuất hiện thường xuyên: đó là một lời cầu khẩn say sưa ngỏ cùng Thiên Chúa, để Người hiện thực hóa sự cứu rỗi bằng cách tận diệt các kẻ thù. Trong một số Thánh vịnh, chiều kích trả thù này rất được nhấn mạnh hoặc thậm chí trổi vượt (xem Tv 109 chẳng hạn). Nếu các thành ngữ văn học do Thánh Vịnh gia sử dụng được điều chỉnh vừa phải (như kiểu: “Chớ gì những ai tìm hại mạng sống con phải xấu hổ thẹn thùng, kẻ tính kế hại con phải tháo lui nhục nhã!” – Tv 35:4), thì chúng chắc chắn sẽ dễ dàng được hòa nhập vào lời cầu nguyện. Các hình ảnh tàn bạo là các hình ảnh gây ra nhiều vấn đề nhất (Thí dụ: ” Vì Ngài vẫn một lòng thương mến, xin tiêu diệt những kẻ thù con” – Tv 143:12 hoặc ” Gái Ba-by-lon hỡi, đồ trời tru đất diệt! Phúc thay người xử lại với mi, như mi đã xử với ta! Phúc thay người bắt những con thơ của mi mà đem đập vào đá” – Tv 137:89). Ở đây, có ba khía cạnh xứng đáng được nghiên cứu.

a. Chủ thể cầu nguyện: người đau khổ

129. Thể văn than thở sử dụng các biểu thức cường điệu và tức tối, hoặc trong mô tả đau khổ, luôn có tính cực đoan (“chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được vắn dài” [Tv 22:17- 18]; “Kẻ vô cớ ghét con nhiều hơn tóc trên đầu, bọn thù con vô lý lại mạnh thế hơn con” [Tv 69:5]), hoặc trong lời xin được phương thuốc, rõ ràng phải nhanh chóng và dứt khoát. Điều này được giải thích bằng sự kiện những lời cầu nguyện này phát biểu quan điểm xúc cảm của một người thấy mình trong tình huống bi đát. Các xúc cảm của họ, do đó, không thể phản ánh sự bình tĩnh, và lời nói của họ giống như một tiếng gầm (xem Tv 22:14). Dù sao, hình ảnh được sử dụng chỉ là các ẩn dụ: “bẻ gẫy răng kẻ ác” (Tv 3:8; 58:7) có nghĩa là làm họ chấm dứt sự dối trá và lòng tham của kẻ mạnh; “bắt những con thơ của mi mà đem đập vào đá” (Tv 137:8-9) có nghĩa là tận diệt để các thế lực tà ác hủy diệt sự sống không xảy ra một lần nữa trong tương lai; và vân vân. Ngoài ra, người cầu nguyện sách Thánh Vịnh sử dụng những lời được một người khác viết ra, trong những hoàn cảnh khác. Do đó, họ phải luôn luôn thực hiện một sự chuyển vị để áp dụng chúng vào cuộc sống bản thân của mình: sự hiện thực hóa này sẽ thành công hơn khi lời cầu nguyện than thở sẽ không những chỉ được hiểu như nói lên tình huống bản thân của người cầu nguyện, mà còn như tiếng nói đau đớn của tất cả các nạn nhân của lịch sử, như tiếng khóc của các vị tử đạo (xem Kh 6:10), những vị vốn cầu xin Thiên Chúa rằng “con thú” hung bạo biến mất mãi mãi.

b. Người cầu nguyện xin gì?: “Giải thoát chúng con khỏi sự ác”

130. Lời cầu nguyện nguyền rủa (imprécation) không thực hiện một hành động ma thuật có hiệu quả trực tiếp đối với kẻ thù. Trái lại, người cầu nguyện phó thác cho Thiên Chúa sứ mệnh thể hiện công lý, một nền công lý mà không ai khác ngoài Người có thể thiết lập trên trái đất. Lời cầu nguyện này ngụ ý từ bỏ sự báo thù cá nhân (xem Rm 12:19; Dt 10:30), và bày tỏ sự tin tưởng vào hành động của Chúa có thể được thích ứng với tính nghiêm trọng của tình thế và hoàn toàn phù hợp với bản chất của chính Thiên Chúa. Những kiểu nói do những người cầu nguyện sử dụng dường như ra lệnh cho Thiên Chúa cách Người phải hành động; nhưng nếu được hiểu chính xác, chúng chỉ bày tỏ mong muốn là cái ác bị tận diệt, và những người bị sỉ nhục đạt được sự sống. Lời cầu nguyện ngỏ cùng Thiên Chúa xin cho điều này xảy ra trong lịch sử, để sự mặc khải của Chúa diễn ra (Tv 35:27; 59:14; 109:27), và do đó tạo cơ hội cho người bạo động hoán cải (x. Tv 9:21; 83:18-19). Trong một số trường hợp, sự bách hại người cầu nguyện được coi như một gây hấn chống lại Thiên Chúa (Tv 2:2; 83:3,13), thường được đi kèm với sự khinh miệt Chúa (x. Tv 10:4,13; 42:4; 73:11).

c. Những ai là kẻ thù của người cầu nguyện?

131. Xác định kẻ thù của người cầu nguyện không phải là một hoạt động giải thích đơn giản cho thấy những nhân vật nào được tác giả thánh đề cập đến, và trong hoàn cảnh lịch sử nào tác giả này làm như vậy. Trên thực tế, tình huống được các Thánh vịnh (ta thán) mô tả rất rập khuôn: ngôn ngữ khá qui ước và thường cố ý có tính ẩn dụ do đó có thể áp dụng vào các hoàn cảnh đa dạng và các đối tượng khác nhau. Do đó, một hành động giải thích “tiên tri” trong Chúa Thánh Thần là điều cần thiết để hiểu các lời lẽ của Thánh Vịnh gia phải được áp dụng ra sao trong cuộc sống cụ thể của người đọc một thánh vịnh ta thán, và biện phân được ai là kẻ thù đe dọa họ trong một lịch sử cụ thể (xem Công vụ 4:23-30).

Việc nhận diện kẻ thù tiến triển khi người ta khám phá ra rằng những người này không những chỉ là những người chăm lo cuộc sống thể xác hay phẩm giá con người, mà hơn nữa còn là những người chăm lo cuộc sống thiêng liêng của người cầu nguyện (x. Mt 10:28). Đâu là các thế lực thù địch mà các tín hữu phải đối đầu? Ai hoặc điều gì bị mô tả là “những con sư tử cấu xé và gầm gừ” (Tv 22:14; xem 1 Pr 5:8), hoặc “miệng lưỡi đầy nọc độc” của rắn (Tv 140:4), sự thù hận khôn nguôi được cảm nhận vì ai (xem Tv 26:5; 139:21-22), và sự hủy diệt của họ được cầu xin cùng Thiên Chúa (Tv 31:18)? “chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân”, người ta đọc như thế trong Eph 6:12. Chính khỏi tay “kẻ ác”, “đạo binh” (Mc 5:9) mà người cầu nguyện xin được giải thoát, như nhờ một phép trừ quỷ, bởi quyền năng thương xót của Thiên Chúa. Và giống như trong mọi trường hợp trừ qủy, lời nói phải nghiêm khắc vì chúng nói lên sự thù địch tuyệt đối giữa Thiên Chúa và sự ác, giữa con cái Thiên Chúa và thế giới tội lỗi (x. Gcb 4:4).

3.2 Địa vị xã hội của phụ nữ

132. Nhiều đoạn Kinh Thánh, đặc biệt là của Thánh Phaolô, mời gọi chúng ta biện phân điều mà trong Qui điển Cựu Ước cũng như qui điển Tân Ước có giá trị vĩnh viễn, và là điều vì có liên quan đến một nền văn hóa, một nền văn minh, hoặc các phạm trù của một thời kỳ nhất định, nên cần được tương đối hóa. Chủ đề địa vị phụ nữ trong các trước tác Phaolô đặt ra loại câu hỏi này.

a. Sự phục tùng của vợ đối với chồng

Trong các thư gửi cho người Côlôxê (xem Cl 3:18); người Êphêsô (Eph 5:22-23) và Titô (xem Tt 2:5), Thánh Phaolô yêu cầu phụ nữ tùng phục chồng họ, và khi làm như vậy, ngài đã theo phong tục của người Hy Lạp và người Do Thái thời đó, theo đó, phụ nữ có địa vị xã hội thấp hơn nam giới. Lời khuyên này có vẻ không theo Gl 3:28, trong đó nói rằng không nên có sự phân biệt trong Giáo Hội, giữa người Do Thái và Hy Lạp, cũng như giữa người tự do và nô lệ, và giữa đàn ông và đàn bà.

Trong đoạn văn của thư Côlôxê và thư Êphêsô, việc tùng phục của phụ nữ không dựa trên các chuẩn mực xã hội có hiệu lực lúc đó, nhưng dựa trên hành động của chồng, một hành động có nguồn gốc của nó trong agape, vốn có mô hình là tình yêu của chính Chúa Kitô đối với Thân Thể của Người, là Giáo Hội. Tuy nhiên, Thánh Phaolô từng bị tố cáo đã viện dẫn ví dụ tuyệt vời này để giữ cho người phụ nữ dễ dàng hơn trong cảnh nô dịch, và khi làm thế, đã bắt các Kitô hữu phải phục tùng các giá trị trần gian – nói cách khác, là đi trệch ra ngoài Tin Mừng.

Đối với những phản bác đó, ta có thể nói rằng Thánh Phaolô đã không nhấn mạnh nhiều đến việc tùng phục của các bà vợ – các lập luận rất ngắn về chủ đề này – nhưng nhấn mạnh nhiều hơn đến tình yêu mà người chồng phải biểu lộ cho vợ mình, một tình yêu đối với Thánh Phaolô không những là điều kiện của sự kết hợp và hợp nhất của vợ chồng, mà còn là điều kiện của sự tôn kính của người chồng đối với vợ. Sự vượt trội về địa vị xã hội của người chồng, đại diện cho động lực đầu tiên (xem Êph 5:23), hoàn toàn biến mất khỏi chân trời ở cuối cuộc tranh luận. Vì vậy, từ các bản văn Phaolô này, chúng ta phải ghi nhận cách Thánh Phaolô, không kể đến vai trò mỗi người phối ngẫu thủ diễn trong xã hội thời đó, đã tìm cách khuyến khích việc biến đổi tác phong của người chồng, người có địa vị xã hội trổi vượt. Ngoài ra, chủ đề phụ nữ phục tùng chồng không nên tách khỏi điều được trình bầy trong Êphêsô 5:21tt., trong đó, Thánh Phaolô quả quyết rằng mọi tín hữu phải “tùng phục lẫn nhau”.

Tuy nhiên, một khó khăn vẫn còn tồn tại. Thực sự có ích gì khi sử dụng mô hình giáo hội học và giáo hội, nếu chúng ta không đề cập đến việc: tình trạng thấp kém của phụ nữ là không thích đáng trong Giáo Hội, vì mọi tín hữu đều có phẩm giá như nhau, và đều chỉ có một Chúa, một Chúa duy nhất mà thôi? Người ta đã loại bỏ việc Thánh Phaolô có thể thỏa hiệp với các giá trị thế trần. Thực thế, ngài không đề xuất các mô hình xã hội mới, nhưng tuy không sửa đổi các mô hình thời ngài, ngài mời gọi việc nội tâm hóa các mối liên hệ và các quy tắc xã hội được coi là ổn định và bền vững đối với một thời kỳ nào đó – thế kỷ thứ nhất kỷ nguyên của chúng ta – để chúng có thể được sống phù hợp với Tin Mừng.

Do đó, rất nhiều thế kỷ sau đó, người ta có thể tiếc đối với việc Thánh Phaolô đã không nói rõ trong những lá thư này sự bình đẳng về địa vị xã hội của vợ chồng Kitô hữu. Cách làm của ngài có lẽ là cách duy nhất có thể có vào thời kỳ đó – nếu không, Kitô giáo có thể bị buộc tội phá hoại trật tự xã hội. Ngược lại, lời khuyên ngỏ với các ông chồng đã không mất đi tính thời sự hay sự thật của nó.

b. Sự im lặng của phụ nữ trong các cuộc hội họp của Giáo hội

133. 1 Cr 14:34-38 cũng làm dấy lên nhiều khó khăn, vì Thánh Phaolô yêu cầu phụ nữ im lặng trong các buổi hội họp: “Như thói quen trong mọi cộng đoàn dân thánh, phụ nữ phải làm thinh trong các buổi họp, vì họ không được phép lên tiếng; trái lại, họ phải sống phục tùng như chính Lề Luật dạy. Nếu họ muốn tìm hiểu điều gì, thì cứ về nhà hỏi chồng, bởi vì phụ nữ mà lên tiếng trong cộng đoàn thì không còn thể thống gì” (1 Cr 14:33-35). Những câu này dường như mâu thuẫn với 1 Cr 14:31 (“Mọi người có thể lần lượt nói tiên tri”) và 1 Cr 11: 5, trong đó có vấn đề những người phụ nữ nói tiên tri trong các cuộc hội họp. Các tuyên bố ở 1 Cr 14: 34-38 phải được bối cảnh hóa, nghĩa là, được giải thích trong tương quan với các câu trước đó, liên quan đến việc nói tiên tri. Thánh Phaolô chắc chắn không muốn nói rằng phụ nữ không được phép nói tiên tri (1 Cr 11:5), nhưng họ không nên tìm cách biện phân hoặc phán xét trong cộng đoàn (1 Cr 14:29) các lời tiên tri của chồng họ. Các nguyên tắc làm cơ sở cho một lệnh cấm như vậy là các nguyên tắc tôn trọng, hòa hợp giữa vợ chồng và trật tự tốt của cộng đoàn. Nếu những nguyên tắc này vẫn còn hiệu lực ngày nay, thì việc áp dụng chúng rõ ràng phụ thuộc vào địa vị dành cho phụ nữ trong các nền văn minh và văn hóa khác nhau. Thánh Phaolô không làm cho việc im lặng của phụ nữ trở thành một điều tuyệt đối, mà chỉ là một phương tiện thích ứng với tình huống cộng đoàn thời ngài. Ngày nay chúng ta không nên nhầm lẫn các nguyên tắc và ứng dụng của chúng, luôn được xác định bởi bối cảnh xã hội và văn hóa.

c. Vai trò của phụ nữ trong cộng đoàn

134. Cách mà 1Tm 2:11-15 biện minh cho địa vị thấp kém của phụ nữ, trong bối cảnh xã hội và giáo hội, xem ra ít có thể chống đỡ hơn, nếu nó được hiểu như một nguyên tắc tuyệt đối: “Khi nghe lời dạy dỗ, đàn bà phải thinh lặng và hết lòng phục tùng. Tôi không cho phép đàn bà giảng dạy, hay thống trị đàn ông, trái lại họ phải thinh lặng, vì A-đam được tạo dựng trước, rồi mới đến E-và. Cũng không phải A-đam đã bị dụ dỗ, nhưng là người đàn bà đã phạm tội, khi bị dụ dỗ. Tuy nhiên, người đàn bà sẽ được cứu nhờ sinh con cái, nếu kiên trì giữ đức tin, đức mến và sự thánh thiện, với lòng đơn sơ giản dị”. Bối cảnh một lần nữa là bối cảnh của một cộng đoàn giáo hội gồm đàn ông và đàn bà. Thánh Phaolô không yêu cầu phụ nữ im lặng, cũng không ngăn họ nói tiên tri. Việc cấm chỉ ảnh hưởng đến việc giảng dạy và các đặc sủng cai quản. Ý niệm ít nhiều giống hệt như đối với các trường hợp trên đây: vào thời kỳ đó, việc giảng dạy và cai quản chỉ được dành riêng cho nam giới và Thánh Phaolô mong muốn rằng trật tự xã hội này, lúc đó được coi là tự nhiên, được tôn trọng (xem 1 Cr 11:3: “thủ lãnh của người nữ là người nam”).

Vì vậy, không hẳn chính ý niệm đặt ra câu hỏi – vì, như đã nhận xét ở trên, nó phù hợp với nền văn hóa và xã hội thời đó – cho bằng cách nó được biện minh, nghĩa là, qua một cách giải thích có vấn đề về các trình thuật của St 2-3: thứ tự sáng tạo (đàn ông có địa vị cao hơn vì họ được tạo ra trước phụ nữ; St 2:18-24) và sự sa ngã của người phụ nữ ở vườn địa đàng. Cách đọc mà 1 Tm đề nghị về St 3 được thấy lại trong Huấn Ca 25:24, trong số các trước tác khác, như ngụy thư Do Thái Cuộc đời Ađam và Evà, hoặc trong Khải huyền của Môsê trong bản dịch tiếng Hy Lạp. Người phụ nữ đã để mình bị con rắn lừa dối, nàng đã phạm tội và phải chịu trách nhiệm về cái chết của cả loài người; đó là lý do tại sao bà phải cư xử cách khiêm tốn và không được ước muốn thống trị người đàn ông. Cách đọc này rõ ràng bị ảnh hưởng bởi cách thời ấy người ta hiểu và biện minh các địa tương ứng của đàn ông và đàn bà; hơn nữa, nó không tương thích với 1 Cr 15:21-22 và với Rm 5:12-21. Nó phản ảnh một tình huống giáo hội trong đó người ta cần những lập luận của thẩm quyền để trả lời những người phụ nữ phàn nàn rằng họ không thể thi hành trong cộng đoàn giáo hội các vai trò đã trích dẫn ở trên. Từ đó, việc giải thích St 2-3 được điều kiện hóa bởi bối cảnh thế kỷ đầu tiên trong kỷ nguyên của chúng ta. Tuy nhiên, một cách giải thích chính xác về một đoạn Kinh thánh – ở đây là St 2-3 – phải đưa ra ánh sáng và tôn trọng ý định của bản văn (intentio textus).

4. Kết luận

135. Lời khẳng định cho rằng Kinh thánh truyền đạt Lời Chúa xem ra bị một số đoạn văn nói ngược lại. Chúng ta đã xem xét hai loại bản văn: những trình thuật dường như không thể có thực và không thể hỗ trợ một cuộc điều tra khoa học lịch sử, và các bản văn không những đề xuất mà còn áp đặt các tác phong vô luân, mâu thuẫn với công bằng xã hội. Bây giờ chúng ta sẽ trình bày một bản tổng hợp ngắn gọn về các kết quả của chúng ta với khả năng giúp lên công thức cho một số quy tắc để đọc một cách thích đáng và hiểu đúng các bản văn Kinh thánh.

a. Tổng hợp ngắn gọn

Phân tích của bốn trình thuật trong Cựu Ước đã cho thấy: việc đọc nào chỉ lưu tâm đến các biến cố thực sự xẩy ra không thể nắm bắt được ý định hoặc nội dung của các bản văn này. Trong trường hợp của St 15 và Xh 14, các biến cố được kể lại không thể được xác nghiệm chính xác bởi khoa học lịch sử. Đối với các tác giả của những bản văn này, sự tồn tại hàng thế kỷ của dân tộc họ là một biến cố lịch sử, và niềm tin của họ vào Thiên Chúa có tính quyết định trong tình huống và kinh nghiệm của họ (trong thời gian lưu vong). Những câu truyện của họ chứng thực một thái độ căn bản vốn là niềm tin vô điều kiện vào Thiên Chúa và quyền năng cứu rỗi vô biên của Người. Trong trường hợp Tobia và Giôna, ta có thể nhận thấy những câu truyện không tường thuật các biến cố thực sự xẩy ra, tuy nhiên, chứa đầy một ý nghĩa xây dựng, giáo huấn và thần học.

Đối với các tường thuật của Tân Ước, xem ra sự lưu tâm đến các biến cố thực sự xẩy ra là điều không đủ, nhưng cần phải hết sức chú ý đến ý nghĩa của những gì được thuật lại. Trong các Tin mừng về thời thơ ấu, người ta không thể xác nghiệm về mặt lịch sử mọi chi tiết của câu truyện, nhưng việc thụ thai đồng trinh Chúa Giêsu rõ ràng được quả quyết. Các Tin mừng thời thơ ấu này dẫn nhập phần còn lại của câu truyện (của Mátthêu hoặc của Luca). Chúng trình bày những đặc điểm chính của con người và công trình của Chúa Giêsu. Các phép lạ (cử chỉ quyền năng, dấu lạ), về phần chúng, hiện diện trong mọi truyền thống thuật lại hoạt động của Chúa Giêsu. Ý nghĩa của chúng không chỉ nằm trong biến cố là những hành động phi thường. Trong các Tin Mừng nhất lãm, chúng làm chứng cho sự hiện diện cứu độ của Nước Thiên Chúa trong con người và công trình của Chúa Giêsu. Trong tin mừng Gioan, chúng tiết lộ mối tương quan kết hợp Chúa Giêsu với Thiên Chúa và dẫn đến đức tin vào Chúa Giêsu (xem thêm Mt 8:27; 14:33). Các câu truyện về Phục sinh, do biến cố chúng khác biệt, tự cho thấy chúng không phải là các biên niên sử đơn giản, nhưng kéo ta chú ý tới biến cố giá trị thần học trong các tình tiết của câu truyện.

Việc giải thích luật “tru diệt” và những lời cầu nguyện đòi trả thù đã giúp xác định rõ bối cảnh lịch sử và văn học của các bản văn này, giúp hiểu rõ hơn ý nghĩa và tính hữu dụng của chúng. Các điểm xác định rõ về địa vị phụ nữ trong các thư của Thánh Phaolô đã nhấn mạnh sự cần thiết phải phân biệt giữa các nguyên tắc chỉ đạo tác phong Kitô giáo và việc áp dụng chúng trong bối cảnh văn hóa và xã hội thời đó.

b. Hậu quả của việc đọc Kinh thánh

136. Thoạt nhìn, nhiều câu truyện trong Kinh thánh được trình bầy như những biên niên sử thuật lại các biến cố xẩy ra thực sự. Ấn tượng này có thể dẫn đến việc đọc Kinh thánh bằng cách thấy trong mỗi bài tường thuật việc nói lên một thực tại thực sự đã xảy ra. Cách đọc này xem ra cho phép truy cập, một cách đơn giản, ngay lập tức, nội dung của Kinh Thánh, một truy cập mở cho ra cho mọi người, với những kết quả rõ ràng và chắc chắn.

Trái lại, một việc đọc Kinh thánh có tính đến các ngành khoa học hiện đại (khoa chép sử, ngữ học, khảo cổ học, nhân học văn hóa, v.v.) làm cho sự hiểu biết về các bản văn Kinh thánh trở nên phức tạp hơn và xem ra sẽ dẫn đến kết quả ít chắc chắn hơn. Tuy nhiên, chúng ta không thể thoát khỏi các đòi hỏi của thời đại, cũng không thể giải thích các bản văn Kinh thánh bên ngoài bối cảnh lịch sử của chúng: chúng ta phải đọc chúng trong thời đại của chúng ta, với và vì những người đương thời của chúng ta. Hành trình được bước theo trong tài liệu này cho thấy việc tìm kiếm ý nghĩa của các bản văn, một tìm kiếm vượt quá mối lo lắng phải xác lập các biến cố thực sự đã xẩy ra, dẫn đến việc hiểu chúng một cách sâu sắc và công chính hơn. Nguy hiểm tồn tại – và phải tránh nó một cách cẩn thận – khi chỉ coi toàn bộ Kinh thánh như những phát minh, những ý niệm và niềm tin hoàn toàn nhân bản, vì các nhà chú giải vốn cho thấy những câu truyện trong Kinh thánh không chỉ là biên niên sử, những báo cáo đơn giản. Thiên Chúa tự mặc khải trong lịch sử và “nhiệm cục mặc khải của Người bao gồm các hành động và lời nói liên quan mật thiết với nhau” (Dei Verbum, 2). Mục đích của Kinh Thánh là truyền đạt các biến cố và lời nói này. Và một việc đọc Kinh Thánh nghiêm túc và chính đáng phải được chú ý đến những biến cố và những lời nói này.

Sự hiện diện của luật “tru diệt” và các bản văn tương tự biểu lộ một yếu tố quan trọng khác cho việc đọc Kinh thánh. Điều này phơi bày cùng một lúc lịch sử mặc khải của Thiên Chúa, và đồng thời, lịch sử nền “luân lý mặc khải”[2]. Cùng một cách như mặc khải Thiên Chúa, sự mặc khải tác phong chính đáng của con người đạt đến sự viên mãn của nó trong Chúa Giêsu. Chúng ta không tìm thấy trong mỗi đoạn Kinh thánh, sự mặc khải trọn vẹn của Thiên Chúa thế nào, thì chúng ta cũng không tìm thấy ở đó sự mặc khải hoàn hảo về luân lý như vậy. Do đó, mỗi đoạn Kinh thánh không được cô lập hay tuyệt đối hóa, nhưng phải được hiểu và đánh giá theo mối tương quan của nó với sự viên mãn của mặc khải trong con người và trong công trình của Chúa Giêsu, trong khuôn khổ một việc đọc hợp qui điển Thánh Kinh. Cái đọc này là điều cần thiết đối với sự hiểu biết đầy đủ từng bản văn. Do đó con đường do mặc khải hoàn thành được biểu lộ, trong lịch sử của nó.

Cuối cùng, điều căn bản là người đọc Sách Thánh nên được hướng dẫn hướng tới việc khám phá ra những gì được nói về Thiên Chúa và sự cứu rỗi của con người. Khi làm như vậy, ngay cả khi không luôn luôn đạt được một sự hiểu biết hoàn hảo về bản văn mà họ đọc, tuy nhiên, họ vẫn sẽ tiến bộ trong việc hiểu biết sự thật của Kinh Thánh, và trong sự khôn ngoan thiêng liêng vốn là con đường hiệp thông trọn vẹn với Chúa.

[nextpage title=”KẾT LUẬN CHUNG”]

KẾT LUẬN CHUNG

Giáo Hội Công Giáo, trong một tuyên bố long trọng và có tính quy phạm (tại Công Đồng Chung Triđentinô, EB 58-60), đã ấn định qui điển các sách thánh, do đó xác định các tiêu chuẩn căn bản cho đức tin của mình. Giáo Hội do đó giải thích những bản văn nào phải được coi “là soạn thảo dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần” (Dei Verbum, n. 11), và do đó cần thiết cho việc đào tạo và xây dựng các tín hữu và toàn bộ cộng đồng Kitô hữu (2 Tm 3:15-16). Nếu, một mặt, Giáo Hội hoàn toàn ý thức được rằng những trước tác được soạn thảo bởi các tác giả phàm nhân, những người đã đánh dấu chúng bằng tài năng văn chương của riêng mình, thì mặt khác, người ta cũng nhìn nhận trong chúng một phẩm chất thần thiêng hoàn toàn chuyên biệt, được chứng thực nhiều cách khác nhau bởi chính các bản văn thánh, và được giải thích nhiều cách đa dạng bởi các nhà thần học, trong suốt lịch sử.

Nhiệm vụ của Ủy ban Kinh Thánh, được mời phát biểu về chủ đề này, không hệ ở việc cung cấp một học thuyết về linh hứng, một học thuyết có thể cạnh tranh với những gì thường được trình bầy trong các khảo luận của thần học hệ thống. Với sự trợ giúp của tài liệu này, Ủy Ban tìm cách chứng minh chính Kinh thánh đã chứng minh ra sao nguồn phát xuất thần thiêng của chứng từ của nó, do đó, là người mang và truyền đạt sự thật của Thiên Chúa. Vì vậy, chúng ta định vị mình trong bối cảnh đức tin, khi chấp nhận điều Giáo Hội đã giao phó cho chúng ta như là Lời của Thiên Chúa, và, khởi đi từ Lời này, cố gắng đạt cho được các yếu tố của một sự thấu hiểu giúp chúng ta tiếp nhận thành công hơn di sản thần thiêng này.

Kinh Thánh tạo nên một tổng thể thống nhất, vì tất cả các cuốn sách, “với mọi phần của chúng” (Dei Verbum, n. 11) đều là các bản văn được linh hứng, có chính Thiên Chúa “là tác giả” (ibid ..). Tuy nhiên, dù thừa nhận rằng mọi lời của bản văn thánh đều có thể được coi là Lời của Thiên Chúa, trong gắn bó chặt chẽ với mọi lời khác, Giáo hội vẫn luôn nhìn nhận khía cạnh đa dạng của chúng, một khía cạnh xem ra mâu thuẫn với sự quả quyết về nguồn gốc thần thiêng duy nhất của chúng.

Sự phân biệt giữa Cựu Ước và Tân Ước là biểu hiện rõ ràng nhất của tính đa dạng Kinh Thánh. Trong các vương cung thánh đường Kitô Giáo cổ xưa, hai đài giảng kinh (ambons) đã được sắp xếp để đọc các bản văn thánh, với mục đích làm nổi bật sự khác biệt và sự bổ sung của hai giao ước, cả hai đều cần thiết để chứng thực biến cố mặc khải độc đáo dứt khoát, tức mầu nhiệm Chúa Kitô. Đó là lý do tại sao, trong tài liệu này, chúng ta tôn trọng bản chất riêng của mỗi phần cấu thành Kinh thánh, bằng cách làm rõ cách thức mà sự đa dạng của chúng không những không gây trở ngại, mà còn làm phong phú thêm chứng từ trung thực của Ngôi Lời duy nhất của Thiên Chúa.

Tuy nhiên, bên trong hai phần chính của Kinh thánh, sự đa dạng về thể văn, các phạm trù thần học, các cách tiếp cận nhân học và xã hội học đặc biệt hiển nhiên. Thiên Chúa thực sự đã nói “nhiều cách” (Dt 1:1), không những thời xưa, mà cả sau khi Chúa Con đã đến, Đấng đã mạc khải trọn vẹn Chúa Cha (xem Ga 1:18). Do đó, trong Tài liệu này, điều xem ra cần thiết là phải đưa ra ánh sáng, bằng các thí dụ được chọn lọc, sự phong phú của các biểu thức này, tất cả đều được lên sinh khí từ cùng một sự chắc chắn sẽ nói lên sự thật của Thiên Chúa.

1. Nguồn gốc thần thiêng của các trước tác Kinh thánh

140. Cộng đồng đức tin sống nhờ một truyền thống: nó được thành lập và xây dựng bằng việc lắng nghe Lời Chúa, được viết ra trong những cuốn sách, được lưu truyền như những sách quy phạm, vì mang trong chính chúng dấu ấn thế giá riêng của chúng.

Dấu ấn ấy trước hết được bảo đảm bởi thế giá của các tác giả của chúng, những người, theo một truyền thống cổ xưa và đáng kính, vốn được công nhận như các sứ giả của Thiên Chúa, và được ân ban đặc sủng linh hứng. Do đó, trong nhiều thế kỷ, và cho đến tận thời hiện đại, tư cách làm cha về văn chương của Ngũ kinh, vốn được gán cho Môsê, không bị đặt câu hỏi, cả tư cách làm cha của những cuốn sách tiên tri và khôn ngoan khác, những cuốn, khi không có tựa đề chuyên biệt, vốn được gán cho các tác giả nổi tiếng (như Đavít, Salômôn, Giêrêmia). Cách tiếp nhận các sách kiểu truyền thống này cũng có giá trị đối với các trước tác Tân Ước, tất cả đều được coi như phát xuất từ đoàn Tông đồ. Ngày nay, nhờ các cuộc nghiên cứu đồng qui được thực hiện bằng các phương pháp văn học và sử học, chúng ta không thể duy trì cùng một quan điểm như trong quá khứ. Thật vậy, khoa giải thích đã chứng minh, với những lập luận thuyết phục, rằng các cuốn sách khác nhau không chuyên nhất phát xuất từ các tác giả được nhắc đến trong tựa đề của chúng, hoặc được truyền thống thừa nhận như thế. Trái lại, lịch sử văn học của Kinh Thánh giả thiết nhiều can thiệp khác nhau, và do đó, sự hợp tác của nhiều tác giả khác nhau, mà nhiều người trong số này ẩn danh, trong một lịch sử soạn thảo rất dài và soạn tới soạn lui. Các nhận xét khác nhau liên quan đến một mô hình cho phép giải thích nguồn gốc của các trước tác thánh không đối lập trực diện với quan niệm truyền thống, đôi khi bị coi quá nhanh là chủ nghĩa giải thích giản đơn (simplisme herméneutique). Trong thực tế, Giáo hội, nhờ công biện phân đòi hỏi khắt khe và kiên nhẫn, kéo dài nhiều thế kỷ, luôn cho rằng mình có thể tiếp nhận như là linh hứng các trước tác vốn phù hợp với kho tàng đức tin được bảo tồn vững chắc và trung thành bởi cộng đồng tín hữu, được bảo đảm bởi những người mà Thiên Chúa đã thiết lập như các mục tử và hướng dẫn viên của các tín hữu. Chúa Thánh Thần, luôn làm việc trong Giáo hội, bằng sức mạnh và sự hiểu biết của riêng Người, đã cho phép khả thể tách biệt những gì là thông đạt thần thiêng đích thực khỏi những biểu thức dối trá và không có nền tảng đầy đủ. Do đó, có khả thể các bản văn được gán cho những người được linh hứng đã bị bác bỏ, trong khi các trước tác, mặc dù không thể được quy cho một tác giả có tiếng một cách chắc chắn, thì lại được tiếp nhận một cách tôn kính, mang dấu ấn linh hứng một cách không thể chối cãi. Ý thức rõ sự thật mặc khải, Giáo hội đã tự đặt mình vào thế vâng phục và thừa nhận đối với Lời Chúa mà mình vốn sống bằng.

Hòa hợp với Lời

141. Giáo hội đặt nền móng cho toàn bộ việc biện phân của mình trên kinh nghiệm sống của Chúa Giêsu, nhận được qua lời của các nhân chứng từng biết Người, và nhìn nhận nơi Người sự nên trọn của Mặc Khải. Khởi đi từ những gì các Tông đồ và các tác giả Tin Mừng đã công bố, Qui điển các sách thánh dần dần được xác lập và Giáo hội đã xem các phát biểu đa dạng của chúng là đúng và chân chính, theo mức chúng phù hợp với chứng từ của Con Thiên Chúa. Không phải vì Người tự cao coi mình là Lời Thiên Chúa mà một trước tác đặc thù cụ thể đã được duy trì để được đọc trong cộng đồng phụng vụ như là nền tảng của đức tin, nhưng đúng hơn, vì nó “đồng âm” (consonance), có thể nói như thế, với Ngôi Lời, và trình bầy một giải thích đáng lưu ý về chính Ngôi Lời. Chính “sự đồng âm” với Ngôi Lời này, vượt quá sự đa dạng của cách diễn đạt và tính đa nguyên của thần học, mà các trang của tài liệu này đã tìm cách minh họa, bằng cách đưa ra ánh sáng các hình thức “tự chứng” (autotémoignage) khác nhau do các sách khác nhau của Kinh thánh mang lại.

Việc đồng âm này không tự giới hạn ở sự hội tụ tổng quát xung quanh các tín lý căn bản. Nếu chúng ta bám vào nó, chúng ta sẽ không tôn trọng tính đa dạng của các quan điểm, tính bổ sung của những đóng góp của các trước tác khác nhau, lịch sử văn học của những cuốn sách ra đời tiếp theo việc đồng hóa và lên công thức lại các truyền thống xưa. Như lời chứng thực của Chúa Giêsu, nhà trước tác thánh, từ kho báu của mình, rút ra cái mới và cái cũ (xem Mt 13:52). Điều này có nghĩa là các trước tác được Giáo hội công nhận là linh hứng tự nhận nguồn gốc thần thiêng của mình một cách ít nhiều minh nhiên, và cũng cho thấy tính chân chính của các trước tác có trước chúng. Các Tiên tri củng cố bộ Tôra, và các trước tác khôn ngoan nhìn nhận nguồn gốc thần thiêng của Lề Luật Tiên tri. Cùng cách này, chứng từ của Chúa Giêsu thánh hiến trọn truyền thống thành văn của người Do Thái, và các trước tác của Tân Ước tự củng cố lẫn nhau, bằng cách giả định một cách triệt để và ăn khớp với mọi truyền thống của “Sách Thánh” xưa.

Tính đa nguyên của các phương thức chứng thực

Khái niệm trên tạo nên một trong những kết quả chính của việc phân tích các sách của Cựu Ước và Tân Ước được thực hiện trong Tài liệu này. Ngoài việc đồng qui mà nó vừa trở thành vấn đề, tính đa nguyên (la pluralité) trong các kinh nghiệm tôn giáo và phương thức phát biểu nhằm truyền tải chúng là một điều hiển nhiên. Ở đây, không thể nói lại một cách chi tiết và thấu đáo cách các tác giả Kinh Thánh khác nhau chứng thực nguồn gốc thần thiêng phát sinh ra các trước tác của họ. Chỉ cần trích dẫn các phương thức khác nhau, với những điểm nhấn khác nhau, tìm thấy trong các sách khác nhau của Kinh Thánh.

Mô hình chính của việc tự chứng thực là mô thức được tìm thấy trong các câu truyện nói về ơn gọi làm tiên tri, và trong các công thức khác nhau nhấn mạnh đến các trang của các trước tác tiên tri. Thực tại linh hứng được chính thức giải thích ở đó, được phát biểu như ý thức thâm hậu của một số người tuyên bố mình có khả năng hiểu lời lẽ của Thiên Chúa và có nhiệm vụ truyền tải chúng một cách trung thành. Mô hình này, do sức mạnh gợi ý của nó, được các tác giả thánh khác của truyền thống lập pháp (để mô tả Môsê), khôn ngoan (đại diện là Salômôn) hoặc khải huyền (đại diện là Đanien), để xây dựng một loại tính độc dạng (uniformité) toàn diện, một loại con dấu bảo đảm, xác nhận với độc giả phẩm chất của một trước tác mà người ta đã truy nguyên từ một nguồn thần thiêng duy nhất.

143. Nói một cách khá chung chung hơn, Kinh Thánh cũng nhấn mạnh tới sự tham gia của các cộng tác viên của người được linh hứng, vốn được ân ban kỹ năng văn chương và độ tin cậy cao, các cộng tác viên không những chỉ giúp đỡ các tác giả chính mà còn thu thập tài liệu văn chương mới, thích ứng các tiền lệ với các yêu cầu mới của người đọc. Họ thực hiện, từ thế hệ này qua thế hệ khác, một công việc soạn tác đầy ấn tượng, có tầm quan trọng quyết định đối với phẩm chất của bản văn Kinh thánh. Đặc sủng tiên tri chắc chắn hành động trong các nhà soạn tác ẩn danh này, những người gián tiếp chứng thực rằng họ ý thức được việc truyền tải Lời Chúa, trong chính hành động truyền tải bản văn mà họ ghi dấu bằng sự đóng góp của chính họ.

Những người nghiên cứu Kinh Thánh đã hợp lý đưa ra giả thuyết về sự hiện hữu của các trào lưu, trường phái và các nhóm tôn giáo, cả trong việc bảo tồn, một cách sinh tử, các truyền thống văn chương được coi là thánh thiêng, những truyền thống sau đó đã được kết hợp trong khuôn khổ chung của Sách thánh – điều này giúp nhấn mạnh tới tính hữu dụng trong việc làm sáng tỏ lịch sử soạn thảo các bản văn Kinh thánh -, một cách không thể cũng không nên gán một giá trị khác hoặc một thế giá riêng biệt đối với điều vốn “nguyên khởi” so với điều vốn chỉ có bản chất đệ nhị đẳng.

Thật vậy, trong nhiều trường hợp, chúng ta không có được ipsissima verba (chính lời mói) của một nhà tiên tri (được Thiên Chúa linh hứng), mà là qua lời kể lại của các môn đệ vị này. Một cách khá điển hình, đây là trường hợp các sách Tin mừng, mà sự linh hứng không bị ai bàn cãi. Trong loại trước tác này, tác giả (nghĩa là tin mừng gia) tự trình bầy mình như nhân chứng trung thành của Thầy Chí Thánh, và trong một số trường hợp, như môn đệ của các môn đệ đầu tiên (bản thân không được đề cập trong danh sách các tông đồ).

Khởi từ các nhận xét này, và từ những gì Kinh thánh nói về chính nó, ta có thể quả quyết rằng cần phải chấp nhận một định nghĩa rộng hơn và nhiều sắc thái hơn về khái niệm linh hứng. Không theo nghĩa: trong bản văn thánh, có những phần có giá trị kém và vô giá trị, mà đúng hơn, theo nghĩa: đặc sủng linh hứng được phân phối cách khác nhau. Dù sao, điều phù hợp là chúng ta nên ngoan ngoãn lưu ý đến những điều rõ ràng tạo nên chứng từ của Chúa Kitô và thông điệp cứu rỗi hoàn hảo của Người.

Viễn cảnh vừa được xác định không làm giảm việc gắn bó tin vào Lời Thiên Chúa. Trái lại, nó cổ vũ một cái hiểu sâu sắc hơn, vì nó tôn kính sự mặc khải của Thiên Chúa trong lịch sử, và vì nó tôn vinh Chúa Thánh Thần, Đấng vốn nói qua các tiên tri (xem Gcr 7:12; Nkm 9:30) trong suốt nhiều thế kỷ của lịch sử cứu độ. Đàng khác, nó cũng giúp hiểu rõ hơn việc Thần Trí này không bao giờ ngừng hoạt động sau cái chết của các Tông đồ, vì Thần Trí này đã được ban cho Giáo hội theo nghĩa Giáo Hội có thể biện phân và tiếp nhận các linh hứng. Ngày nay, Thần Trí này đang hoạt động trong việc lắng nghe Lời của Thiên Chúa một cách “tôn giáo” (Dei Verbum, 12), vì Kinh thánh – theo cách diễn đạt của Dei Verbum, n. 12 – phải “được đọc và giải thích dưới ánh sáng của cùng một Thần Trí như Thần Trí đã khiến nó được soạn tác”. Lời linh hứng sẽ không có ích chi nếu người nhận được nó không sống theo Thần Trí, Đấng đã biết biện phân và nếm được nguồn gốc thần thiêng của trang sách Kinh thánh.

2. Sự thật của Kinh thánh

144. Phát xuát từ Thiên Chúa, Kinh thánh có những phẩm chất thần thiêng. Trong số này, phẩm chất nền tảng, tức làm chứng cho sự thật, được hiểu không phải như một tổng số các thông tin chính xác về các khía cạnh khác nhau của kiến thức con người, mà như một mặc khải về chính Thiên Chúa và về kế hoạch cứu rỗi của Người. Thực thế, Kinh thánh làm người ta biết mầu nhiệm tình yêu của Chúa Cha, được biểu lộ trong Ngôi Lời trở thành thân xác, Đấng, qua Chúa Thánh Thần, dẫn con người đến sự hiệp thông hoàn hảo với Thiên Chúa (xem Dei Verbum, 2).

Theo cách đó, điều xem ra rõ ràng là sự thật của Kinh thánh lấy sự cứu rỗi các tín hữu làm viễn cảnh. Những phản bác – được nêu ra trong quá khứ, và vẫn còn tái diễn ngày nay – đối với các điều không chính xác, các mâu thuẫn về địa dư, lịch sử, khoa học, khá phổ biến trong Kinh Thánh, những phản bác có cao vọng nghi vấn tính đáng tin cậy của bản văn thánh và do đó, nguồn gốc thần thiêng của nó, đã bị Giáo hội bác bỏ với lời quả quyết rằng “các sách Kinh thánh dạy cách vững chắc, trung thành và không sai lầm sự thật mà Thiên Chúa muốn thấy được ghi lại trong các chữ thánh vì sự cứu rỗi của chúng ta” ( Dei Verbum, 11). Chính sự thật này mang lại ý nghĩa trọn vẹn cho nhân sinh và là sự thật đượcThiên Chúa muốn làm cho mọi người biết đến.

Tài liệu này chia sẻ quan điểm giải thích này. Sự đóng góp của nó, chỉ đổi mới một phần, hệ ở việc, nhờ một diễn trình được vạch ra từ các bản văn được lựa chọn của các sách Kinh thánh và các cách diễn đạt văn học khác nhau, cho thấy sự thật mà Thiên Chúa muốn tiết lộ cho thế giới qua trung gian các tôi tớ của Người, tức các tác giả thánh, đã được trình bày ra sao.

Một sự thật đa dạng

145. Đặc điểm đầu tiên của sự thật Kinh Thánh hệ ở sự kiện nó được phát biểu dưới nhiều hình thức và phương thức khác nhau (xem Dt 1: 1). Sau khi được truyền tải bởi nhiều người, vào những thời điểm khác nhau, từ trong nội tại, nó mang theo một khía cạnh đa dạng, cả trong các khẳng định về tín lý và luân lý, lẫn trong các phát biểu văn chương. Do đó, các tác giả của bản văn thánh trình bày, trong thời kỳ lịch sử của họ và phù hợp với ơn phúc của Thiên Chúa, những gì họ đã được trao cho để hiểu và truyền tải. Những gì được Chúa nói trong một đoạn đặc thù thì sau đó đã được nối kết với các mặc khải gần đây hơn của Thiên Chúa. Ngoài ra, sự thật Kinh Thánh mặc lấy rất nhiều thể văn đa dạng. Do sự kiện này, nó không chỉ bao gồm các mệnh đề quan trọng theo quan điểm tín điều, mà nó còn bao gồm cả sự thật đặc điểm hóa một câu truyện, một quy định lập pháp, một lời nói, sự thật của một lời cầu nguyện hoặc sự thật của một bài thơ tình, chẳng hạn như Diễm Ca, sự thật của các trang phê phán trong sách Gióp và Giảng Viên, sự thật của các sách khải huyền. Hơn nữa, ở bên trong cùng các thể văn này, người ta có thể thấy sự đa dạng về quan điểm, xem như là quy luật chứ không phải chỉ là sự lặp lại đơn giản các biểu thức đồng quy.

Sự đa dạng về hình thức biểu lộ chân lý này không chỉ liên quan đến nền văn chương của Cựu Ước, mà nó còn áp dụng cho sự mặc khải được chứng thực bởi Tân Ước, nơi chúng ta tìm thấy những câu truyện và diễn ngôn, không phải chồng lên nhau, và là nơi chúng ta nhận thấy các dị biệt đáng kể trong việc trình bày thông điệp. Thực thế, có bốn Tin Mừng và Giáo hội đã bác bỏ như không thích đáng bất cứ nỗ lực nào nhằm làm chúng phù hợp với nhau (concordist): thí dụ, những gì được viết “theo Luca”, đã được tôn trọng và tiếp nhận, ngay cả khi nó không có sự tương ứng chính xác nào với những gì Tin mừng Máccô hoặc Tin mừng Gioan viết. Hơn nữa, trong khi trong Tin mừng, sứ điệp chủ yếu dựa trên cuộc đời của Chúa Giêsu và các lời nói của Người, thì đối với Thánh Phaolô, sự thật của Chúa Kitô bắt nguồn gần như duy nhất trong sự chết và sự phục sinh của Người. Hoặc, sự khác nhau trong cách diễn đạt giữa thư gửi cho người Rôma và thư của Thánh Giacôbê dường như là một mô hình về tính đa nguyên qua đó Kinh thánh làm chứng cho sự thật duy nhất về Thiên Chúa.

Tính đa âm trong các tiếng nói thánh này được cung cấp cho Giáo hội làm mô hình, để ngày nay, Giáo hội có thể chứng minh cùng một khả năng liên hợp tính thống nhất của sứ điệp cần truyền đến con người và sự tôn trọng cần thiết đối với tính đa nguyên của các kinh nghiệm cá thể, các nền văn hóa và ơn phúc dư ban của Thiên Chúa.

Sự thật được phát biểu dưới hình thức lịch sử

146. Đặc điểm quan trọng thứ hai của sự thật Kinh Thánh hệ ở sự kiện nó được phát biểu dưới hình thức lịch sử. Một số sách của Kinh thánh mang dấu chỉ thời kỳ chúng được viết ra; trong các trường hợp khác, các khoa giải thích có thể đặt chúng một cách có cơ sở vào các thời điểm chính xác trong lịch sử. Thời kỳ được bao trùm bởi văn chương Kinh Thánh hết sức mênh mông, vì nó vượt quá một thiên niên kỷ. Di sản các quan niệm được truyền tải bởi một thời kỳ đặc thù, các ý kiến phát xuất từ kinh nghiệm hoặc các mối quan tâm đặc trưng của một thời kỳ nhất định trong cuộc sống của dân Chúa nhất thiết được phát biểu trong đó. Công việc do các nhà biên tập thực hiện, tìm cách mang đến một sự gắn bó tín lý và thực hành cho bản văn thánh, đã không làm mất các dấu vết của lịch sử, từ đó có các do dự và bất toàn của nó, bất kể trong lĩnh vực thần học hay trong lãh vực nhân học. Do dó, nhiệm vụ của người giải thích hệ ở việc tránh lối đọc Kinh thánh một cách cực đoan (fondamentaliste), và phải định vị các khẳng định khác nhau của bản văn thánh trong bối cảnh lịch sử của chúng, theo các thể văn đang được sử dụng thời đó. Thật vậy, chính nhờ tiếp đón hình thức mặc khải thần thiêng có tính lịch sử này mà chúng ta được dẫn tới mầu nhiệm Chúa Kitô, một biểu hiện đầy đủ và dứt khoát của sự thật Thiên Chúa trong lịch sử con người.

Sự thật qui điển

147. Mặt khác, việc giải thích Kinh Thánh theo quan điểm Công Giáo, dẫn đến việc chấp nhận chân lý Thiên Chúa trong bối cảnh Mặc Khải, với tính toàn diện của nó, được chứng thực như qui điển Kinh thánh. Điều này có nghĩa là chân lý mặc khải không thể bị giới hạn vào một phần của gia tài thánh (bằng cách bác bỏ, thí dụ, Cựu Ước để nhấn mạnh Tân Ước), cũng không bị giới hạn vào một cái nhân đồng nhất, mà loại bỏ phần còn lại hoặc tương đối hóa nó, coi như không đáng kể. Không những, tất cả những gì được linh hứng đều cần thiết đối với sự mặc khải trọn vẹn của Thiên Chúa, mà tất cả các phần đều được đọc trong tương quan với các phần khác, theo một nguyên tắc hòa hợp, một hòa hợp không nên bị nhầm lẫn với sự độc dạng, mà đúng hơn là sự hội tụ tốt đẹp của những gì đa dạng.

Tuy nhiên, theo quan điểm Kitô giáo, điều xem ra rõ ràng là sự thật của bản văn Kinh thánh trùng hợp với chứng từ về Chúa Giêsu, “Đấng trung gian và là sự viên mãn của mọi Mặc Khải” (Dei Verbum, 2), Đấng vốn tự định nghĩa là “đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14:6). Đặc tính trung tâm và chủ yếu này của mầu nhiệm Chúa Kitô không mâu thuẫn với sự kiện này: các truyền thống xưa cũng nói về Người và sự cứu rỗi dứt khoát được thực hiện trong cái chết và sự phục sinh của Người, như chính Người đã khẳng định (x. Ga 5:39). Trong mầu nhiệm vô cùng của Người, Chúa Kitô là trung tâm chiếu sáng trọn bộ Kinh thánh.

Truyền thống văn chương của các tôn giáo khác

148. Trong một tổng quan ngắn gọn, chúng ta sẽ gợi lên và tìm cách hiểu, trong đoạn này, mối tương quan giữa Kinh thánh và các truyền thống văn chương của các tôn giáo khác. Vấn đề này có tính thời sự cấp bách đối với cuộc đối thoại liên tôn. Giải đáp nó không hề dễ dàng, vì nó phải kết hợp nguyên tắc không thể miễn chước là “tính duy nhất và tính phổ quát cứu độ của Chúa Giêsu Kitô và của Giáo hội” (như đã nêu trong tiêu đề của Tuyên ngôn “Dominus Iesus” của Thánh bộ Giáo lý Đức tin), và mặt khác, việc đánh giá đúng đắn đối với kho tàng tinh thần của các tôn giáo khác. Tài liệu này không nêu chi tiết các yếu tố mà, khởi từ chính Kinh thánh, có thể được trao cho nghiên cứu thần học và mục vụ của Giáo hội. Ở đây, chỉ cần gợi lại hình ảnh Balaam (xem Ds 22-24), để chứng tỏ rằng lời tiên tri (được linh hứng) không phải là đặc ân độc quyền của dân Chúa, và để nhớ lại rằng Thánh Phaolô, trong diễn từ của ngài ở đồi Areopagus, đã dựa vào trực giác của các nhà thơ và triết gia Hy Lạp ra sao (xem Cv 17:28). Mặt khác, đa số chấp nhận rằng văn chương Cựu Ước chủ yếu phụ thuộc phần lớn vào những gì đã được viết ở Lưỡng Hà và Ai Cập, giống như các sách Tân Ước phần lớn cũng rút tỉa từ di sản văn hóa của thế giới Hy Lạp. Các semina Verbi (hạt giống Lời Chúa) được lan truyền khắp thế giới và không thể bị giới hạn trong bản văn duy nhất của Kinh thánh. Giáo hội đã định nghĩa điều Giáo Hội coi là được linh hứng, nhưng chưa bao giờ nói tiêu cực về phần còn lại của nền văn hóa. Tuy nhiên, chính Lời của Thiên Chúa được ghi lại trong Kinh thánh qui điển, và đặc biệt trong phần làm chứng trực tiếp cho Ngôi Lời nhập thể, tạo nên nguyên tắc biện phân sự thật của mọi cách phát biểu tôn giáo khác, dù ở trong Giáo Hội, hay trong các truyền thống tôn giáo khác nhau của các dân tộc khác nhau trên trái đất.

Từ nhận xét cuối cùng trên, ta thấy Giáo hội phải tự đặt mình bên trong một vòng giải thích. Từ việc lắng nghe lời Kinh thánh, Giáo hội rút ra các nguyên tắc cho đức tin của mình và, khi được đức tin này soi sáng, Giáo Hội hiện có và mãi có khả năng giải thích chính xác những gì mình đọc như là sách thánh của mình, và đồng thời biện phân được giá trị của tất cả những lời chứng thực khác vốn đòi được lắng nghe. Chính Chúa Thánh Thần, với đặc điểm là nguyên lý của sự thật, đã khởi động diễn trình đức tin, và đưa nó đến chỗ nên trọn của nó, bằng cách cởi mở hoàn toàn đối với sự biểu lộ của Thiên Chúa trong lịch sử.

3. Việc giải thích các trang khó hiểu của Kinh thánh

149. Đó là lý do tại sao Giáo hội, thân thể sống động của các độc giả tín hữu, người giải thích bản văn linh hứng được ủy quyền, có sứ mệnh làm trung gian tiếp nhận và công bố sự thật của Sách Thánh ở từng thời đại của lịch sử, và cả ngày nay nữa. Vì Giáo hội đã nhận được Chúa Thánh Thần, nên Giáo Hội thực sự là ” cột trụ và điểm tựa của chân lý” (1 Tim 3:15), bao lâu Giáo Hội trung thành truyền tải cho thế giới Lời đã tạo nên mình. Nhiệm vụ của Giáo Hội hệ ở việc loan báo Lời này một cách chắc chắn (parresia), Lời vốn tuyên bố Chúa Giêsu Kitô là Cứu Chúa duy nhất và dứt khoát. Nhưng, trong vai trò quan trọng của mình, Giáo hội cũng phải giúp các tín hữu và những người đang tìm kiếm sự thật giải thích các bản văn Kinh thánh một cách chính xác, nhờ một phương pháp thích nghi và một tư thế giải thích thích đáng. Về vấn đề này, Tài liệu Giải Thích Kinh Thánh Trong Giáo Hội năm 1993 của Ủy ban Giáo hoàng về Kinh thánh tỏ ra đặc biệt hữu ích.

Lâu nay, các dè dặt liên quan tới truyền thống Kinh Thánh đã xuất hiện, vì một số trang và một số trào lưu văn chương của nó xem ra không thể chấp nhận được đối với tâm trí đương thời, do sự kiện các quan niệm về công lý dường như lỗi thời, các phong tục và thực tiễn pháp lý gây tranh cãi, và thậm chí đáng trách, cuối cùng do sự kiện có những câu chuyện dường như không có nền tảng lịch sử. Thành thử bản văn thánh phần nào mất uy tín, người ta phần nào không tin tưởng tính hữu ích mục vụ của nó, đến độ trực tiếp nghi vấn tính linh hứng của một số phần trong Kinh Thánh, và do đó tư thế sự thật của chúng. Trong trường hợp này, điều không đủ là quả quyết một cách chung chung rằng trong Cựu Ước có “sự không hoàn hảo và lỗi thời” (Dei Verbum, 15), hoặc nhắc nhở rằng các tác giả Tân Ước, cả họ nữa, cũng chịu ảnh hưởng của thời đại họ. Nếu việc nhấn mạnh tới khái niệm nhập thể là điều chính đáng và áp dụng nó một cách loại suy vào việc đặt bút viết ra mặc khải, thì điều thích hợp không kém là chứng tỏ rằng, ở giữa sự yếu đuối như thế của con người, vinh quang của Lời thần thiêng vẫn đã tỏa sáng. Cũng sẽ không đủ, khi vì một ưu tư mục vụ khôn ngoan, ta loại bỏ các đoạn văn có vấn đề ra khỏi việc đọc công khai trong các cộng đoàn phụng vụ. Người biết tính toàn vẹn của bản văn có thể cảm thấy một cách chính đáng đó là một việc làm nghèo nàn di sản thánh thiêng và có thể trách cứ các mục tử vì đã che giấu bất chính các khía cạnh khó hiểu của Kinh thánh.

Giáo hội không được miễn trừ nhiệm vụ khiêm nhường và kiên nhẫn phải giải thích một cách tôn kính toàn bộ truyền thống văn chương đã được định nghĩa như được linh hứng, và do đó tạo thành một biểu thức của sự thật Thiên Chúa. Để giải thích, trước hết cần có các nguyên tắc rõ ràng, giúp ta hiểu rằng ý nghĩa của những gì đã được truyền tải không y hệt như “chữ viết” của bản văn. Mặt khác, cần phải tiến hành một cách chính xác, và lần lượt đề cập tới các khó khăn cần phải làm sáng tỏ, cũng như phải nhắc nhở bổn phận của mọi tín hữu sở đắc Lời Chúa, theo ơn hiểu biết mà Chúa Thánh Thần vốn phân phát cho mỗi thời kỳ của lịch sử.

Đó là lý do tại sao Tài liệu này của Ủy ban Giáo hoàng về Kinh thánh đã chọn những vấn đề chính đặt ra cho người đọc, và đã gợi ý những đường hướng giúp giải đáp chúng, trong khuôn khổ đức tin của chúng ta. Sự ngắn gọn của những gì đã được trình bày có thể không phải lúc nào cũng có vẻ thỏa đáng, nhưng các nguyên tắc diễn giải được trình bầy ở đây xem ra hữu ích, cả các giải thích được cung cấp để trả lời các câu hỏi chuyên biệt cũng thế. Thay vì là một cuộc khảo sát dứt khoát và thấu đáo các đoạn khó hiểu của bản văn thánh, Tài liệu này trình bầy một diễn trình giải thích nhằm kích thích một suy tư sau này, trong cuộc đối thoại với các nhà giải thích bản văn thánh khác. Trong nỗ lực tìm kiếm chung này, con đường dẫn đến sự thật sẽ tự cho thấy nó khiêm nhường và khiêm tốn, nhưng đồng thời soi sáng, bao lâu nó còn là dấu ấn của việc lắng nghe cùng một Chúa Thánh Thần.


  1. “Ta Hằng Hữu” là dịch cụm từ “Je suis” (tiếng Pháp), “Ego Sum” (tiếng La Tinh) rất chỉnh trong lời Thiên Chúa nói với Môsê về danh tính của Người (Xh 3:14). Nhưng trong những kiểu nói khác, tiếng Việt phải dịch động từ “être” (Je suis, il est là “là”) như trong các kiểu trích trong đoạn này.

  2. Xem Commission Biblique Pontificale, Bible et Morale, Cité du Vatican, 2008, số 4.

LINH HỨNG VÀ CHÂN LÝ THÁNH KINH

Bài 1 / 2 trong loạt bài LINH HỨNG VÀ CHÂN LÝ THÁNH KINH

Văn kiện của Ủy Ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh,

công bố ngày 22 tháng 2 năm 2014

LINH HỨNG VÀ CHÂN LÝ THÁNH KINH

LỜI PHÁT XUẤT TỪ THIÊN CHÚA VÀ NÓI VỀ THIÊN CHÚA
VÌ SỰ CỨU RỖI THẾ GIỚI

Bản dịch Việt ngữ: Vũ Văn An

Nguồn: Vietcatholicnews.net


Mục lục

Giới Thiệu
LỜI NÓI ĐẦU
DẪN NHẬP TỔNG QUÁT

 

PHẦN THỨ NHẤT: CHỨNG TỪ CỦA CÁC BẢN VĂN THÁNH KINH VỀ NGUỒN GỐC THẦN THIÊNG CỦA NÓ 19

1. Dẫn Nhập

1.1 Mạc khải và linh hứng trong Dei Verbum và Verbum Domini 19

1.2 Các trước tác Thánh Kinh và nguồn gốc thần thiêng của chúng. 21

1.3 Các trước tác Tân Ước và mối liên hệ của chúng với Chúa Giêsu. 25

1.4 Tiêu chuẩn để đưa ra ánh sáng mối liên hệ với Thiên Chúa trong các trước tác Thánh Kinh. 27

2. Chứng thực các bản văn đã được chọn của Cựu Ước 30

2.1 Ngũ kinh 30

2.2 Các sách tiên tri và các sách lịch sử 34

2.3 Thánh vịnh 42

2.4 Sách Huấn Ca 48

2.5 Kết luận 52

3. Chứng từ của các bản văn được chọn trong Tân Ước 53

3.1 Bốn sách Tin Mừng 54

3.2 Các Tin Mừng nhất lãm 58

3.3 Tin Mừng Gioan 69

3.4 Công vụ tông đồ 75

3.5 Các lá thư của Thánh Tông đồ Phaolô. 85

3.6. Thư gửi tín hữu Do Thái 91

3.7 Sách Khải huyền 99

4. Kết luận 107

4.1 Tổng quan về mối liên hệ “Thiên Chúa – tác giả loài người” 108

4.2 Các truyền thống Tân Ước chứng thực tính linh hứng của Cựu Ước và đưa lại cho nó một giải thích Kitô học 115

4.3 Diễn trình viết các Sách thánh và việc linh hứng 119

4.4 Hướng tới một Qui điển cho hai Giao Ước 123

4.5 Việc tiếp nhận các Sách thánh và việc hình thành Qui điển 127

PHẦN THỨ HAI: CHỨNG TỪ CỦA CÁC TRƯỚC TÁC KINH THÁNH VỀ SỰ THẬT CỦA CHÍNH CHÚNG 137

1. Dẫn nhập 138

1.1 Sự thật Kinh Thánh theo Dei Verbum 138

1.2 Trọng tâm nghiên cứu của chúng ta về sự thật Kinh Thánh 142

2. Chứng từ của các trích đoạn chọn lựa từ Cựu Ước 144

2.1 Những câu chuyện về sáng thế (St 1-2) 145

2.2 Mười Điều Răn (Xh 20:2-17 và Đnl 5:6-21) 147

2.3 Các sách lịch sử 152

2.4 Các sách tiên tri 154

2.5 Các Thánh vịnh 160

2.6 Diễm Ca 167

2.7 Các sách khôn ngoan 170

Kết luận 178

3. Chứng từ của các bản văn Tân Ước 179

3.1 Các sách Tin mừng 179

3.2 Các Tin Mừng nhất lãm 181

3.3 Tin Mừng Gioan 188

3.4 Công vụ tông đồ 193

3.5 Các lá thư của Thánh Tông đồ Phaolô. 203

3.6. Thư gửi tín hữu Do Thái 209

3.6 Sách Khải huyền 220

4. Kết luận 229

4.1 Tổng quan về mối liên hệ “Thiên Chúa – tác giả loài người” 229

4.3 Diễn trình viết các Sách thánh và việc linh hứng 242

4.4 Hướng tới một Qui điển cho hai Giao Ước 246

4.5 Việc tiếp nhận các Sách thánh và việc hình thành Qui điển 250

PHẦN THỨ HAI: CHỨNG TỪ CỦA CÁC TRƯỚC TÁC KINH THÁNH VỀ SỰ THẬT CỦA CHÍNH CHÚNG 260

1. Dẫn nhập 261

1.1 Sự thật Kinh Thánh theo Dei Verbum 261

1.2 Trọng tâm nghiên cứu của chúng ta về sự thật Kinh Thánh 265

2. Chứng từ của các trích đoạn chọn lựa từ Cựu Ước 268

2.1 Những câu chuyện về sáng thế (St 1-2) 268

2.2 Mười Điều Răn (Xh 20:2-17 và Đnl 5:6-21) 271

2.3 Các sách lịch sử 275

2.4 Các sách tiên tri 278

2.5 Các Thánh vịnh 284

2.6 Diễm Ca 292

2.7 Các sách khôn ngoan 295

Kết luận 303

3. Chứng từ của các bản văn Tân Ước 304

3.1 Các sách Tin mừng 305

3.2 Các Tin Mừng nhất lãm 306

3.3. Tin Mừng Gioan 312

3.4. Các thư của Thánh Tông đồ Phaolô 324

3.5. Sách Khải Huyền 333

4. Kết luận 348

PHẦN BA: VIỆC GIẢI THÍCH LỜI THIÊN CHÚA VÀ CÁC THÁCH THỨC CỦA NÓ 355

1. Dẫn Nhập 355

2. Thách thức đầu tiên: những vấn nạn lịch sử 358

2.1 Chu kỳ Ápraham (sách Sáng thế) 358

2.2 Vượt qua biển (Xh 14) 362

2.3 Các sách Tôbia và Giôna 363

2.4 Các Tin mừng về thời thơ ấu 367

2.5 Những câu truyện về phép lạ 374

2.6 Những câu truyện về Phục sinh 381

3. Thách thức thứ hai: các vấn đề đạo đức và xã hội 388

3.1 Bạo lực trong Kinh thánh 388

3.2 Địa vị xã hội của phụ nữ 400

4. Kết luận 405

KẾT LUẬN CHUNG 409

1. Nguồn gốc thần thiêng của các trước tác Kinh thánh 412

2. Sự thật của Kinh thánh 418

3. Việc giải thích các trang khó hiểu của Kinh thánh 425

[nextpage title=”Giới Thiệu”]

Giới Thiệu

Trong bài “Ý Niệm Linh Hứng trong Thánh Kinh, Một Số Cập Nhật”, chúng tôi đã giới thiệu Tài Liệu “Linh Hứng và Chân Lý Thánh Kinh: Lời Phát xuất từ Thiên Chúa và Nói về Thiên Chúa vì Sự Cứu Rỗi Thế Giới” của Ủy Ban Giáo Hoàng về Kinh Thánh công bố năm 2014. Đây là một tài liệu quí giá. Việc soạn thảo nó đã bắt đầu từ năm 2009 sau Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 2008 về Lời Chúa (kết quả là Tông huấn Verbum Dei năm 2010 của Đức Bênêđíctô XVI), qua hai nhiệm kỳ bộ trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin của các Đức Hồng Y Levada và Muller, hai triều giáo hoàng của Đức Bênêđíctô XVI và Đức Phanxicô, với rất nhiều phiên họp khoáng đại cũng như hướng dẫn của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI.

Chính bản văn là một công trình công phu, không những bàn đến ơn linh hứng nói chung mà còn đi vào hầu hết từng trước tác của cả Cựu Ước lẫn Tân Ước để khám phá ra tính linh hứng của nó với rất nhiều trưng dẫn của từng trước tác một. Có thể nói, về phươg diện này nó chiếm địa vị duy nhất trong các nghiên cứu về ơn linh hứng Thánh Kinh xưa nay.

Nhận thấy giá trị lớn lao của nó, chúng tôi cố gắng chuyển ngữ sang tiếng Việt, dựa vào bản tiếng Pháp do chính Ủy Ban Kinh Thánh công bố. Phần tóm tắt Tài Liệu của Cha Klemens Stock, Dòng Tên, Tổng Thư Ký xuyên suốt của Ủy Ban và Lời Nói Đầu của Tài liệu do Đức Hồng Y Muller, bộ trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin hồi ấy viết đã được chúng tôi trình bầy trong bài đã trích dẫn trên đây. Riêng bài Lời Nói đầu, chúng tôi xin đăng lại nguyên văn ở đây. Các trích dẫn Thánh Kinh trong bản dịch này phần lớn lấy từ bản dịch Thánh Kinh của Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ, ngoại trừ một số ít được chúng tôi sửa chữa đôi chút cho hợp với đồng văn của Tài Liệu.

Xin mời qúi độc giả cùng đọc tài liệu quí giá này.

[nextpage title=”LỜI NÓI ĐẦU”]

LỜI NÓI ĐẦU

Đời sống Giáo hội dựa trên Lời Chúa. Nó được truyền tải bởi Thánh Kinh, nghĩa là, trong các trước tác của Cựu Ước và Tân Ước. Theo đức tin của Giáo hội, tất cả các trước tác này đều được linh hứng, có Thiên Chúa là tác giả – Thiên Chúa đã sử dụng những con người được Người chọn để soạn tác chúng. Nhờ sự kiện được Thiên Chúa linh hứng, các Sách Thánh truyền đạt sự thật. Giá trị của chúng đối với đời sống và sứ mệnh của Giáo hội được liên kết với việc linh hứng và sự thật của chúng. Những trước tác không xuất phát từ Thiên Chúa không đạt tới trình độ truyền đạt Lời Người, và những trước tác không nói thực không thể đặt nền hoặc làm sinh động sứ mệnh của Giáo hội. Tuy nhiên, sự thật hiện diện trong các bản văn thánh thiêng không phải lúc nào cũng dễ dàng nhận ra. Đôi khi, ít nhất cũng một cách biểu kiến, người ta tìm thấy các căng thẳng giữa những gì đọc được trong các trình thuật Thánh Kinh và kết quả của khoa học tự nhiên và lịch sử. Những khoa học này dường như mâu thuẫn với những gì các trình thuật Thánh Kinh quả quyết, và đặt câu hỏi về sự thật. Rõ ràng là tình huống này cũng có những hệ luận đối với vấn đề linh hứng Thánh Kinh: nếu những gì được truyền đạt trong Thánh Kinh là không đúng sự thật, thì làm sao Thiên Chúa có thể là tác giả của nó? Chính từ những câu hỏi này, mà Ủy ban Giáo hoàng về Thánh Kinh đã nỗ lực tiến hành cuộc nghiên cứu về mối tương quan giữa linh hứng và sự thật, và cập nhật cung cách các trước tác Thánh Kinh xem xét các khái niệm này. Trước tiên, người ta phải lưu ý rằng các trước tác thánh thiêng chỉ họa hiếm mới nói về linh hứng (2 Tm 3:16; 2 Pr 1:20-21), nhưng liên tục cho thấy mối tương quan giữa các tác giả phàm nhân của chúng và Thiên Chúa. và bằng cách này nói lên nguồn gốc thần thiêng của chúng.

Trong Cựu Ước, mối tương quan kết hợp tác giả phàm nhân với Thiên Chúa và ngược lại, được chứng thực theo nhiều hình thức và cách diễn đạt khác nhau. Trong Tân Ước, mọi mối tương quan với Thiên Chúa đều diễn ra qua trung gian của con người Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai và là Con Thiên Chúa. Người là Lời của Thiên Chúa đã tự làm cho mình trở nên hữu hình (xem Ga 1:14) và là Đấng trung gian của tất cả những gì xuất phát từ Thiên Chúa. Trong Thánh Kinh, người ta gặp nhiều chủ đề rất đa dạng. Tuy nhiên, một việc đọc cẩn thận cho thấy chủ đề chính, chi phối các chủ đề khác, liên quan đến Thiên Chúa và kế hoạch cứu rỗi của Người dành cho con người. Sự thật mà chúng ta tìm thấy trong Thánh Kinh, trong yếu tính, là nói về Thiên Chúa và mối tương quan của Người với các tạo vật.

Trong Tân Ước, định nghĩa cao nhất về mối tương quan này có thể được tìm thấy trong các lời lẽ của Chúa Giêsu: “Thầy, Thầy là đường, là sự thật và là sự sống; không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14: 6). Là Lời của Thiên Chúa nhập thể (xem Ga 1: 14), Chúa Giêsu Kitô là sự thật hoàn hảo về Thiên Chúa, Người mạc khải Thiên Chúa như Cha và ban cho ta được tiếp cận với Người, nguồn gốc của mọi sự sống. Các định nghĩa khác về Thiên Chúa được tìm thấy trong các trước tác Thánh Kinh có xu hướng hướng về Lời Thiên Chúa đã trở thành phàm nhân trong Chúa Giêsu Kitô này, Đấng đã trở thành chìa khóa giải thích Lời ấy.

Sau khi đã bàn tới khái niệm linh hứng theo chứng từ của các sách thánh, mối tương quan giữa Thiên Chúa và các tác giả phàm nhân, và sự thật mà các trước tác này mang đến cho chúng ta, suy tư của Ủy ban Thánh Kinh tập trung vào một số khó khăn đặt ra nhiều vấn nạn từ quan điểm lịch sử, đạo đức hoặc xã hội. Để giải đáp các khó khăn này, điều cần là phải đọc và hiểu đầy đủ các bản văn nêu ra câu hỏi, bằng cách xem xét các kết quả của các khoa học hiện đại, và đồng thời chủ đề chính của các bản văn này, cụ thể là biết Thiên Chúa và kế hoạch cứu rỗi của Người. Cách tiếp cận như vậy cho thấy có thể giải đáp các phản biện đang xuất hiện đối với cuộc gặp gỡ sự thật và nguồn gốc thần thiêng và vượt qua chúng.

Tài liệu này của Ủy ban Giáo hoàng về Thánh Kinh không cấu thành một tuyên bố chính thức của huấn quyền Giáo hội về chủ đề đang bàn. Nó không có ý định trình bày một học thuyết hoàn chỉnh về linh hứng và sự thật của Thánh Kinh, mà chỉ đơn giản nhằm truyền đạt các kết quả của một cuộc nghiên cứu chú giải cẩn trọng về các bản văn Thánh Kinh, liên quan đến câu hỏi về nguồn phát xuất thần thiêng của chúng, và sự thật của chúng. Các kết luận giờ đây được dưới sự sử dụng của các môn thần học khác, để được hoàn chỉnh và đào sâu theo quan điểm riêng của họ.

Tôi cảm ơn các thành viên của Ủy ban Thánh Kinh vì sự dấn thân đầy kiên nhẫn và có khả năng của họ, bằng cách bày tỏ niềm hy vọng này là công việc của họ sẽ đóng góp vào việc lắng nghe Thánh Kinh, trong toàn Giáo hội, một cách chu đáo, biết ơn và vui mừng hơn, như một Lời phát xuất từ Thiên Chúa và nói về Thiên Chúa để thế giới được sống.

Ngày 22 tháng 2 năm 2014 Lễ Tòa Thánh Phêrô

Hồng Y GERHARD MÜLLER, Chủ tịch

“Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó” (Is 55:10-11).

“Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài” (Dt 1:1-2).

[nextpage title=”DẪN NHẬP TỔNG QUÁT”]

DẪN NHẬP TỔNG QUÁT

1. Thượng hội đồng giám mục năm 2008 đã được giao cho chủ đề Lời Chúa trong đời sống và sứ mệnh của Giáo hội. Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI lấy lại và đào sâu các chủ đề được khai triển trong Thượng hội đồng lúc đó trong Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng của ngài, tựa là Verbum Domini. Ngài đặc biệt nhấn mạnh: “Sự suy tư thần học chắc chắn luôn coi linh hứng và sự thật như hai khái niệm chủ chốt cho khoa giải thích trong giáo hội về các sách thánh. Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận nhu cầu hiện tại mốn đào sâu một cách thỏa đáng các thực tại này để chúng ta có thể đáp ứng tốt hơn các yêu cầu liên quan đến việc giải thích các bản văn thánh thiêng theo bản chất của chúng. Trong viễn cảnh này, tôi tha thiết cầu mong rằng việc nghiên cứu trong lĩnh vực này có thể tiến triển và nó sẽ mang lại kết quả cho khoa học Thánh Kinh và cho đời sống thiêng liêng của các tín hữu “(số 19). Đáp lại mong muốn của Đức Thánh Cha, Ủy ban Giáo hoàng về Thánh Kinh mong muốn đề xuất được một đóng góp vào việc thấu hiểu chính xác hơn các khái niệm linh hứng và sự thật, với ý thức đầy đủ rằng các khái niệm này hoàn toàn lưu ý tới chính bản chất của Thánh Kinh và ý nghĩa của nó đối với đời sống của Giáo hội.

Cộng đồng phụng vụ, trong đó mọi tín hữu gặp gỡ Thánh Kinh, là nơi trong đó, việc công bố Lời Chúa có ý nghĩa nhất và long trọng nhất. Trong thờ phượng Thánh Thể – gồm có hai phần chính: phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể (xem Sacrosanctum Concilium số 56) – Giáo hội cử hành “mầu nhiệm vượt qua; bằng cách đọc ‘trong tất cả các sách thánh điều có liên quan đến nó'(Lc 24:27), bằng cách cử hành Bí tích Thánh Thể, trong đó ‘việc chiến thắng và toàn thắng của cái chết của Người trở thành hiện thực’ và đồng thời bày tỏ lời cảm tạ ‘với Thiên Chúa vì hồng ân khôn tả của Người’ (2 Cr 9:15) trong Chúa Giêsu Kitô ‘để ca ngợi vinh quang của Người’ (Ep 1: 12) bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần”(Sacrosanctum concilium 6).

Sự hiện diện của Chúa Giêsu, Đấng mạc khải Thiên Chúa Cha, trong lời nói và công trình cứu độ của Người, và sự kết hợp của cộng đồng tín hữu với Người, là trung tâm của cộng đồng này. Mục đích của toàn bộ cuộc cử hành là làm cho Chúa Giêsu hiện diện ở giữa cộng đồng tín hữu, và cho phép ta gặp gỡ và kết hiệp với Người và với Thiên Chúa Cha. Chúa Kitô, trong mầu nhiệm Vượt qua của Người, được công bố trong bài đọc Lời Chúa, và được cử hành trong phụng vụ Thánh Thể.

Phụng vụ Lời Chúa và Bối cảnh Thánh Thể của nó

2. Mỗi tuần, vào Chúa Nhật, tức là ngày của Chúa, ngày mà Giáo hội coi là “ngày lễ nguyên ủy” (Sacrosanctum Concilium số 106), sự phục sinh của Chúa Kitô được cử hành một cách vui tươi và long trọng đặc biệt. Vào ngày này, trong đó bàn tiệc Lời Chúa phải được trình bày cho các tín hữu “một cách phong phú hơn” (Sacrosanctum Concilium số 51), người ta hát các câu thánh vịnh và ba bản văn Thánh Kinh được công bố, mà bản đầu thường lấy từ Cựu Ước, sau đó là các trước tác không phải là Tin Mừng của Tân Ước, và cuối cùng là một bản lấy từ một trong bốn Tin Mừng. Sau khi đọc từng bản trong hai bản văn đầu tiên, người đọc nói: “Lời của Chúa” và các tín hữu đáp: “Tạ ơn Chúa.” Khi kết thúc việc loan báo Tin Mừng, phó tế hoặc linh mục hát hoặc nói “Đó là Lời Chúa” và dân chúng đáp lại: “Lạy Chúa Giêsu Kitô Ngợi khen Chúa” Trong các cuộc đối thoại ngắn ngủi này, hai đặc điểm của đọc và nghe được nhấn mạnh: người đọc làm nổi bật tầm quan trọng trong hành động của mình và kêu gọi các độc giả ý thức đầy đủ sự kiện này những gì được truyền đạt cho họ thực sự là Lời của Thiên Chúa hay chuyên biệt hơn là Lời của Chúa (Chúa Giêsu), Đấng, trong con người của Người vốn là Lời của Thiên Chúa (xem Ga 1:1-2). Về phần mình, các tín hữu bày tỏ thái độ tôn trọng khiêm hạ họ dùng để tiếp nhận Lời Chúa ngỏ cùng họ: đầy lòng biết ơn, họ lắng nghe với niềm vui và lời ca ngợi Tin mừng của Chúa Giêsu.

Mặc dù những khoảnh khắc khác nhau này của phụng vụ không phải lúc nào cũng được chu toàn một cách hoàn hảo, phụng vụ Lời Chúa tạo thành một nơi ưu tuyển để truyền đạt: Thiên Chúa, trong lòng nhân từ của Người, ngỏ lời với dân của Người bằng lời nói của con người, và dân Người chào đón Lời Chúa với lòng biết ơn và ca ngợi. Mầu nhiệm Vượt qua của Chúa Kitô, đỉnh cao và thành tựu của việc Thiên Chúa truyền đạt với nhân loại, được cử hành trong phụng vụ Lời Chúa, và một cách đầy đủ hơn nữa trong phụng vụ Thánh Thể. Trong phụng vụ này, ơn cứu chuộc loài người được thể hiện, và, đồng thời, sự tôn vinh Thiên Chúa cao nhất và hoàn hảo nhất cũng được thể hiện. Việc cử hành không phải là một hình thức nghi lễ bề ngoài, vì mục tiêu của nó là nhằm việc các tín hữu “học cách tự dâng chính mình và, từ ngày này qua ngày nọ, được hoàn toàn tiêu giao (consommés), nhờ trung gian của Chúa Kitô, trong sự hiệp nhất với Thiên Chúa và với nhau để cuối cùng, Thiên Chúa là tất cả nơi mọi người” (Sacrosanctum Concilium số 48). Sự kiện Thiên Chúa ngỏ lời của Người cho loài người trong lịch sử cứu độ và sai Con của Người xuống thế gian, Đấng vốn là lời nhập thể của Người (Ga 1,14), có mục đích duy nhất là hiến tặng con người sự kết hiệp với Người.

Bối cảnh nghiên cứu linh hứng và sự thật của Thánh Kinh

3. Trên cơ sở những gì chúng ta đã phát biểu cho đến nay về Lời Chúa trong phụng vụ Lời Chúa và liên quan đến việc cử hành Thánh Thể, chúng ta có thể khẳng định rằng chúng ta lắng nghe lời ấy trong bối cảnh thần học, Kitô học, cứu thế học và giáo hội học. Thiên Chúa đề xuất ơn cứu độ, một cách dứt khoát và hoàn hảo trong Chúa Kitô của Người, thể hiện sự hiệp thông giữa chính Người và các tạo vật của Người, những người được Giáo hội của Người đại diện. Nơi đây, nơi thích hợp nhất để công bố Thánh Kinh, cũng tạo thành bối cảnh thỏa đáng nhất để nghiên cứu linh hứng và sự thật. Như chúng ta đã nói, sau khi công bố các bản văn thánh kinh, phụng vụ luôn khẳng định rằng đó là “Lời Thiên Chúa” (hay “Lời Chúa”). Lời khẳng định này có một ý nghĩa kép: trước hết, nó nhằm mục đích xác định một Lời phát xuất từ Thiên Chúa, nhưng cũng là một lời nói về Thiên Chúa. Hai ý nghĩa này liên kết mật thiết với nhau. Chỉ có Thiên Chúa mới biết Thiên Chúa; và do đó, chỉ có Thiên Chúa mới có thể nói về Thiên Chúa một cách thỏa đáng và đáng tin cậy. Đó là lý do tại sao chỉ có lời phát xuất từ Thiên Chúa mới có thể nói về Thiên Chúa một cách chính đáng mà thôi.

Việc khẳng định “Lời Thiên Chúa” (“Lời Chúa”) mời gọi các tín hữu ý thức những gì họ đang lắng nghe và dành cho nó sự chú ý thích đáng. Họ phải có lòng tôn trọng và lòng biết ơn phải lẽ đối với Lời phát xuất từ Thiên Chúa, phải chú ý để nhận thức và hiểu những gì Lời này thông đạt về Thiên Chúa, và do đó bước vào sự kết hợp luôn sống động hơn với Người.

Tài liệu của chúng ta, với chủ đề “Linh hứng và Chân lý của Thánh Kinh” sẽ khai triển hai đề tài này. Khi người ta nói đến linh hứng của Thánh Kinh, họ khẳng định rằng tất cả các cuốn sách của nó “có Thiên Chúa là tác giả và chúng được truyền tải như vậy cho chính Giáo hội” (Dei Verbum 11). Do đó, để nghiên cứu khái niệm linh hứng của Thánh Kinh, điều thích đáng là tìm kiếm và xác minh những gì các bản văn Thánh Kinh nói về nguồn gốc thiêng liêng thích đáng của chúng. Sau đó, liên quan đến sự thật của Thánh Kinh, trước hết chúng ta phải nhớ rằng mặc dù có nhiều chủ đề đa dạng trong Thánh Kinh, tuy nhiên, chỉ có một luận đề chính và có tính trung tâm: Thiên Chúa là chính ơn cứu rỗi. Có nhiều nguồn tài liệu khác và các ngành khoa học khác để có được thông tri đáng tin cậy về các vấn đề đủ loại; nhưng Thánh Kinh – như Lời của Thiên Chúa – là nguồn có thẩm quyền để nhận biết Thiên Chúa. Theo Hiến chế tín lý Dei Verbum của Công đồng Vatican II, chính Thiên Chúa và dự án cứu rỗi của Người dành cho con người đã tạo thành nội dung mạc khải của Người nhờ phép hoán xưng (antonomase). Luận đề này được phát biểu ở phần đầu của chương thứ nhất trong hiến chế của công đồng: “Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đã muốn mạc khải chính mình và tỏ cho mọi người biết mầu nhiệm thánh ý Người (x. Ep 1:9). Nhờ đó, loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần bản tính của Thiên Chúa (x. Ep 2:18; 2Pr 1:4) “(Dei Verbum số 2). Do đó, Thánh Kinh phục vụ việc truyền tải mạc khải (xem Dei Verbum 7-10). Đó là lý do tại sao, khi nghiên cứu vấn đề sự thật của Thánh Kinh, chúng ta sẽ tập trung việc nghiên cứu của chúng ta vào câu hỏi sau đây: “Các bản văn Thánh Kinh khác nhau truyền tải những gì về chính Thiên Chúa và về dự án cứu rỗi của Người?”

Ba phần của tài liệu

4. Phần đầu tiên trong tài liệu của chúng ta liên quan đến linh hứng của Thánh Kinh, tìm cách làm nổi bật nguồn gốc thần thiêng của nó, trong khi phần thứ hai nghiên cứu câu hỏi về sự thật của Lời Chúa, bằng cách làm nổi bật những gì đã được nói về chính Thiên Chúa và dự án cứu rỗi của Người. Một đàng, chúng ta muốn gia tăng ý thức để biết rằng Lời này phát xuất từ Thiên Chúa, và đàng khác, sự chú ý của những người nghe Lời Chúa và những người đọc Thánh Kinh phải tập trung vào những gì Thiên Chúa, bằng chính ý chí của Người, đã thông đạt về chính Người và về kế sách cứu độ của Người có lợi cho con người. Chúng ta được mời gọi chào đón Lời mà Thiên Chúa – đầy tình yêu và lòng nhân từ – đã mạc khải cho chúng ta, với cùng một thái độ chúng ta vốn dành cho việc cử hành mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô, vốn là mầu nhiệm Thiên Chúa và sự cứu rỗi của chúng ta. Mục đích là để chào đón, trong hiệp thông với các tín hữu khác, ơn phúc được lắng nghe và được hiểu những gì chính Người truyền đạt về chính Người, và do đó để làm mới và làm sâu sắc thêm mối liên hệ bản thân của chúng ta với Người.

Phần thứ ba của tài liệu đề cập đến một số thách thức phát sinh từ chính Thánh Kinh, và đặc biệt là một số nét dường như mâu thuẫn với tư thế Lời Thiên Chúa của nó . Cách riêng, chúng ta chỉ ra hai thách thức lớn đối với người đọc. Thách thức đầu tiên phát xuất từ các tiến bộ đáng kể đã diễn ra trong hai thế kỷ qua trong việc nhận thức lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ của các dân tộc ở Cận Đông cổ đại vốn tạo nên môi trường văn hóa của Israel và Thánh Kinh.

Thông thường, có những khác biệt quan trọng giữa các dữ kiện của các khoa học này và những gì chúng ta có thể diễn dịch từ câu chuyện trong Thánh Kinh, nếu nó được đọc như một niên sử có mục đích tường thuật chính xác các biến cố, theo thứ tự thời gian một cách tỉ mỉ. Những khác biệt này tạo nên khó khăn đầu tiên và dẫn đến việc tự hỏi liệu người đọc có thể tin vào sự thật lịch sử của những câu chuyện Thánh Kinh hay không. Một thách thức khác có liên hệ với sự kiện: nhiều bản văn Thánh Kinh chứa đầy bạo lực. Chúng ta có thể lấy làm thí dụ các Thánh vịnh nguyền rủa, hoặc mệnh lệnh Thiên Chúa ban cho Israel để tận diệt toàn bộ một dân số. Các độc giả Kitô giáo bị sốc và mất phương hướng bởi các bản văn như vậy. Hơn nữa, có những độc giả ngoài Kitô giáo trách cứ các Kitô hữu vì đã có những phần khủng khiếp trong các bản văn thánh thiêng của họ, và buộc tội họ tuyên xưng và truyền bá một tôn giáo tạo hứng cho bạo lực. Phần thứ ba của tài liệu, ngoài các điều khác, tự đề cho mình nhiệm vụ đương đầu với các thách thức giải thích này, bằng cách, một mặt, chỉ cách vượt qua chủ nghĩa cực đoan [fondamentalisme] (xem Ủy ban Giáo hoàng về Thánh Kinh, Giải thích Thánh Kinh trong Giáo Hội, 1993, I. F), và mặt khác, cách để tránh chủ nghĩa hoài nghi. Một khi đã vượt qua các trở ngại này, chúng ta có thể hy vọng rằng khả thể tiếp nhận Lời Chúa một cách có suy nghĩ và thích đáng sẽ được mở ra.

Do đó, mục đích của tài liệu này là cung cấp một đóng góp giúp cho, nhờ việc thâm hậu hóa cái hiểu của chúng ta đối với các khái niệm linh hứng và sự thật, Lời của Thiên Chúa, trong cộng đồng phụng vụ và ở bất cứ nơi nào khác, được chào đón một cách luôn phù hợp hơn với ơn phúc này của Thiên Chúa, nhờ đó, Người tự thông đạt Người và mời gọi con người hiệp thông với Người.

[nextpage title=”PHẦN THỨ NHẤT: CHỨNG TỪ CỦA CÁC BẢN VĂN THÁNH KINH”]

PHẦN THỨ NHẤT: CHỨNG TỪ CỦA CÁC BẢN VĂN THÁNH KINH VỀ NGUỒN GỐC THẦN THIÊNG CỦA NÓ

Dẫn Nhập

5. Đầu tiên, chúng ta xem xét Hiến chế tín lý Dei Verbum của Công đồng Vatican II và Tông huấn Hậu Thượng hội đồng Verbum Domini hiểu ra sao về mạc khải và linh hứng, hai hành động thần thiêng vốn là nền tảng để nắm vững Sách thánh như Lời của Thiên Chúa. Sau đó, chúng ta sẽ chứng tỏ các trước tác Thánh Kinh chứng thực ra sao nguồn gốc thần thiêng của chúng. Tân Ước, về phần mình, chỉ xem xét mối liên hệ với Thiên Chúa qua sự trung gian của Chúa Giêsu. Phần thứ nhất của tài liệu này được kết thúc với một suy tư về các tiêu chuẩn có khả năng đưa ra ánh sáng chứng từ của các trước tác Thánh Kinh về chủ đề nguồn gốc thần thiêng của chúng.

1.1 Mạc khải và linh hứng trong Dei Verbum và Verbum Domini

Hiến chế Dei Verbum đề cập tới vấn đề mạc khải bằng những lời lẽ sau: “Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đã muốn mạc khải chính mình và tỏ cho mọi người biết mầu nhiệm thánh ý Người (x. Ep 1:9). Nhờ đó, loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần bản tính của Thiên Chúa (x. Ep 2:18; 2Pr 1:4) “(Dei Verbum n. 2). Thiên Chúa tự mạc khải Người trong một “nhiệm cục mạc khải” (Dei Verbum – DV – số 2). Người tự tỏ mình ra trong sáng thế: “Thiên Chúa, Đấng tạo dựng (Ga 1: 3) và bảo tồn mọi sự nhờ Ngôi Lời, ban cho con người, trong các loài được tạo dựng, một chứng từ không ngừng về chính Người (xem Rm 1: 19-20) “(DV số 3, xem Verbum Domini số 3; xem VD – Số 8). Thiên Chúa tự tỏ mình ra đặc biệt trong con người, được tạo ra “giống hình ảnh của Người” (ST 1:27, xem VD, 9). Việc mạc khải sau đó được triển khai, bằng cách bao gồm “các hành động và lời nói liên quan mật thiết với nhau” (DV, số 2), trong lịch sử cứu độ của dân Israel (DV, 3, 14-16), và đạt đến đỉnh cao “trong Chúa Kitô, Đấng vừa là Đấng Trung Gian vừa là sự viên mãn của Mạc Khải” (DV, số 2, xem VD, các số 4, 17-20). Verbum Domini đề cập đến chiều kích Ba Ngôi của mạc khải bằng các lời lẽ này: “Đỉnh cao mạc khải của Thiên Chúa Cha đã được Chúa Con cung ứng nhờ hồng ơn của Đấng Bào Chữa (Ga 14:16), tức Thánh Thần của Chúa Cha và Con của Người, Đấng dẫn chúng ta đến toàn bộ sự thật ‘(Ga 16,13)” (VD, 20).

Linh hứng liên quan chuyên biệt tới các sách Thánh Kinh. Dei Verbum tuyên bố rằng Thiên Chúa là “Đấng linh hứng và là tác giả các sách của cả hai Giao Ước” (DV, số 16), và, một cách chính xác hơn: “Để soạn tác các cuốn sách thánh thiêng, Thiên Chúa đã chọn những con người được Người cậy nhờ trong việc sử dụng trọn vẹn các khả năng và phương tiện của họ, để, trong khi chính Người hành động trong họ và bởi họ, họ viết bằng bản văn, như các tác giả thực sự, tất cả những gì phù hợp với ý muốn của Người, và chỉ những điều này mà thôi » (DV, 11). Như một hoạt động thần thiêng, linh hứng, do đó, trực tiếp liên quan đến các tác giả nhân bản: những người này được linh hứng đích danh, và các trước tác họ soạn tác sau đó được tuyên bố là các trước tác được linh hứng (DV, 11,14).

1.2 Các trước tác Thánh Kinh và nguồn gốc thần thiêng của chúng.

6. Chúng ta đã thấy rằng Thiên Chúa là tác giả duy nhất của mạc khải, và các cuốn sách của Thánh Kinh, những cuốn sách cho phép việc truyền tải mạc khải của Thiên Chúa, được Người linh hứng. Thiên Chúa là “tác giả” của những cuốn sách này (DV, số 16), nhưng qua những con người được Người chọn. Những người này không viết dưới việc đọc chính tả nhưng là “tác giả thực sự” (DV, 11), những người sử dụng các khả năng riêng và tài năng riêng của họ. Số 11 của Dei Verbum không nêu rõ chi tiết mối liên hệ giữa những người này và Thiên Chúa hệ ở điều gì, ngay cả khi các ghi chú (18-20) có tham chiếu một lối giải thích truyền thống dựa trên tính nguyên nhân chính và tính nguyên nhân dụng cụ.

Chúng ta, những người hướng về các sách Thánh Kinh và tìm cách biết được điều chính chúng nói về sự linh hứng của chính chúng, chúng ta nhận thấy: trong Thánh Kinh, chỉ có hai bản văn của Tân Ước minh nhiên nói về linh hứng thần thiêng, và áp dụng khái niệm này vào các trước tác Cựu Ước:

2 Tm 3,16: “Mọi sách thánh đều được Thiên Chúa linh hứng; nó hữu ích cho việc giảng dạy, tố cáo điều ác, sửa sai, giáo dục công lý”.

2 Pr 1,20-21: ” Nhất là anh em phải biết điều này: không ai được tự tiện giải thích một lời ngôn sứ nào trong Sách Thánh. Quả vậy, lời ngôn sứ không bao giờ lại do ý muốn người phàm, nhưng chính nhờ Thánh Thần thúc đẩy mà có những người đã nói theo lệnh của Thiên Chúa”.

Việc thuật ngữ “linh hứng” hiếm xuất hiện có hậu quả là chúng ta không thể giới hạn việc tìm kiếm của chúng ta vào lĩnh vực ngữ nghĩa hạn chế như vậy.

Tuy nhiên, khi nghiên cứu kỹ các bản văn Thánh Kinh, chúng ta có thể nhận thấy sự kiện có ý nghĩa này: mối liên hệ giữa tác giả của chúng và Thiên Chúa liên tục được phát biểu rõ ràng theo nhiều cách khác nhau, tất cả đều để chứng tỏ các bản văn tương ứng phát xuất từ Thiên Chúa ra sao. Đối tượng cuộc điều tra của chúng ta là đem ra ánh sáng những manh mối trong các bản văn Thánh Kinh có thể tiết lộ mối liên hệ của các tác giả với Thiên Chúa, do đó cho thấy nguồn gốc thần thiêng của những cuốn sách này, nói cách khác là sự linh hứng của chúng. Ý định của chúng ta là trình bày một “hiện tượng học” về mối liên hệ giữa Thiên Chúa và tác giả nhân bản, trung thành với những cách mà theo đó, mối liên hệ này được chứng thực trong các trang của Thánh Kinh, do đó nhấn mạnh sự kiện này: chúng chứa đựng Lời phát xuất từ Thiên Chúa. Trong tài liệu này, Ủy ban Giáo hoàng về Thánh Kinh không nhằm mục đích chứng minh chính sự kiện linh hứng của các trước tác Thánh Kinh: công việc này thuộc Thần học Căn bản. Khởi điểm của chúng ta là sự thật của đức tin, theo đó các sách Thánh Kinh được Thiên Chúa linh hứng và truyền tải Lời của Người. Đóng góp chuyên biệt của chúng ta hệ ở việc làm rõ khái niệm linh hứng này, như đã được phát biểu trong chứng từ của chính các trước tác Thánh Kinh.

Chúng ta có thể gọi là “việc tự chứng thực” (autoattestation) hiện tượng chuyên biệt được tìm thấy trong các trước tác Thánh Kinh này, một hiện tượng nói lên mối liên hệ giữa các tác giả của chúng với Thiên Chúa và nguồn gốc thần thiêng của chúng. Việc tự chứng thực, được định nghĩa như thế, sẽ là tâm điểm cuộc khảo sát thực hiện trong tài liệu này.

7. Các văn kiện giáo hội mà chúng ta đã trích dẫn nhiều lần (Dei Verbum và Verbum Domini) xác lập sự khác biệt giữa ‘mạc khải’ và ‘linh hứng’, là những điều vốn tạo thành hai hành động thần thiêng khác biệt nhau. “Mạc khải” được trình bày như hành động căn bản của Thiên Chúa, qua đó Người truyền đạt Người là ai và mầu nhiệm ý chí của Người là gì (xem DV 2), đồng thời làm cho con người có khả năng tiếp nhận mạc khải . Mặt khác, “linh hứng” là hành động qua đó Thiên Chúa làm cho một số người nào đó, do Người lựa chọn, có khả năng truyền đạt một cách trung thành sự mạc khải của Người bằng bản văn (xem DV, 11). Linh hứng giả thiết mặc khải và phục vụ việc truyền đạt mạc khải một cách trung thành trong các trước tác Thánh Kinh.

Khởi từ chứng từ của các trước tác Thánh Kinh, chúng ta chỉ có thể suy ra một vài manh mối liên quan tới mối liên hệ chuyên biệt hiện hữu giữa tác giả nhân bản và Thiên Chúa, trong chính hoạt động viết lách. Đây là lý do tại sao “hiện tượng học” mà chúng ta đề nghị trình bày, liên quan đến cả mối liên hệ giữa tác giả nhân bản và Thiên Chúa, và nguồn gốc thần thiêng của các bản văn Thánh Kinh đã vẽ nên một bức tranh rất chung chung và đa dạng. Chúng ta sẽ thấy rằng khái niệm chuyên biệt về linh hứng hầu như không bao giờ được giải thích trong Thánh Kinh, và cũng không nhận được ở đó việc làm sáng tỏ nào. Khái niệm này liên quan đến bản chất chuyên biệt của chứng từ nơi các sách Thánh Kinh khác nhau: thực thế, nếu, một mặt, các bản văn liên tục chỉ rõ nguồn gốc thần thiêng của nội dung và thông điệp của chúng, thì rất ít điều được nói về cách chúng đã được viết ra hoặc nói về bản thân chúng như là tài liệu bằng bản văn. Kết quả là, khái niệm rộng rãi về mạc khải và khái niệm, chuyên biệt hơn, về việc chứng thực bằng bản văn (linh hứng) được hình dung như một diễn trình độc đáo. Thông thường, nếu người ta nói đến một trong các khái niệm này, thì khái niệm kia cũng được giả thiết. Tuy nhiên, do sự kiện đơn giản các biểu thức mà chúng tôi trích dẫn xuất phát từ các bản văn viết, nên rõ ràng là các tác giả của chúng mặc nhiên khẳng định rằng bản văn của họ tạo nên cách phát biểu sau cùng ghi lại một cách ổn định bằng bản văn các hành động của Thiên Chúa tự mạc khải chính Người.

1.3 Các trước tác Tân Ước và mối liên hệ của chúng với Chúa Giêsu.

8. Liên quan đến các trước tác của Tân Ước, chúng ta ghi nhận một tình huống chuyên biệt: nếu chúng chứng thực mối liên hệ của các tác giả của chúng với Thiên Chúa, thì đó chỉ là qua con người của Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu đã công bố cách chính xác lý do của hiện tượng này: “Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14: 6). Câu khẳng định này dựa trên nhận thức đặc biệt mà Chúa Con có về Chúa Cha (x. Mt 11,27, Lc 10,22: Ga 1,18).

Tác phong của Chúa Giêsu đặc biệt có ý nghĩa và mang tính giáo huấn đối với các môn đệ của Người: Tin Mừng làm nổi bật việc đào tạo Người dành cho họ và trong đó diễn tả một cách điển hình rằng mối liên hệ với Chúa Giêsu và với Thiên Chúa là điều chủ yếu để lời của một Tông đồ hay hay một trước tác Tin Mừng trở thành “Lời của Thiên Chúa”. Theo các nguồn của chúng ta, chính Chúa Giêsu không viết gì cả và không đọc gì cho các môn đệ của Người viết cả. Điều Người làm có thể được tóm tắt như sau: Người kêu gọi một số người bước theo Người, chia sẻ cuộc sống của Người, làm chứng cho hành động của Người, có được một nhận thức ngày một sâu sắc hơn về con người của Người, lớn lên trong niềm tin vào Người, và trong sự hiệp thông cuộc sống với Người. Đây là cách có thể mô tả hồng phúc Chúa Giêsu dành cho các môn đệ của Người và cách thức Người chuẩn bị để họ trở thành các Tông đồ của Người, để công bố sứ điệp của Người: lời của họ phải thế nào đó để Chúa Giêsu mô tả các Kitô hữu tương lai là “những người, nhờ lời của chúng, sẽ tin vào Con “(Ga 17,20). Và Người nói với các kẻ Người sai đi: “Ai nghe các con là nghe Thầy; bất cứ ai bác bỏ các con là bác bỏ Thầy; và người bác bỏ Thầy là bác bỏ Đấng đã sai Thầy”(Lc 10,16, xem Ga 15,20). Lời của các kẻ Người sai đi chỉ có thể là nền tảng cho đức tin của tất cả các Kitô hữu bởi vì, phát xuất từ sự kết hợp mật thiết nhất với Chúa Giêsu, nó là lời của Chúa Giêsu. Mối liên hệ bản thân với Chúa Giêsu, khi được sống bằng một niềm tin mãnh liệt và minh nhiên vào con người của Người, tạo thành nền tảng chính cho “linh hứng” này, một linh hứng khiến các Tông đồ có khả năng thông truyền, bằng miệng hoặc bằng bản văn, thông điệp của Chúa Giêsu, Đấng vốn là “Lời của Thiên Chúa “. Không phải là việc thông truyền theo nghĩa đen các lời lẽ được Chúa Giêsu thốt ra có tính quyết định, mà là việc công bố Tin Mừng của Người. Tin Mừng Gioan tượng trưng một minh họa tuyệt vời của khẳng định này, vì trong Tin Mừng này, tất cả các lời đều phản ảnh phong cách của Thánh Gioan và đồng thời, trung thành truyền tải tất cả những gì Chúa Giêsu đã nói.

9. Ở đây, dựa trên nền Tin Mừng Gioan, ta thấy vẽ ra mối liên hệ mật thiết giữa bản chất mối liên hệ với Chúa Giêsu và với Thiên Chúa (“linh hứng”) và nội dung của thông điệp được truyền đạt như Lời của Thiên Chúa (“chân lý”). Trung tâm sứ điệp của Chúa Giêsu theo Tin Mừng Gioan là như sau: Thiên Chúa Cha và tình yêu vô biên của Người đối với thế giới được mạc khải trong Con của Người (Ga 3:16). Điều này tương ứng với nội dung của Hiến chế Dei Verbum số 2 (Thiên Chúa và mạc khải cứu rỗi). Thông điệp này không thể được tiếp nhận và hiểu theo phương thức nhận thức thuần túy tri thức, hoặc theo lối học thuộc lòng. Chỉ trong niềm tin vào Người và tình yêu của Người, hồng phúc của Thiên Chúa mới có thể được tiếp nhận, như chứng tá đã chứng tỏ. Do đó, chúng ta thấy rằng thông điệp trung tâm (“chân lý”) và cách thức tiếp nhận nó để giải thích về nó (“linh hứng”) tự tạo điều kiện cho nhau. Nhưng trong cả hai trường hợp, đây là vấn đề hiệp thông trọn vẹn và mãnh liệt đời sống với Chúa Cha, được Chúa Giêsu mạc khải: hiệp thông sự sống vốn là ơn cứu rỗi.

1.4 Tiêu chuẩn để đưa ra ánh sáng mối liên hệ với Thiên Chúa trong các trước tác Thánh Kinh.

10. Phù hợp với những gì chúng ta đã tìm thấy trong các sách Tin mừng, đức tin sống động vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, là đối tượng chính của những gì Chúa Giêsu dạy các môn đệ của Người, và chính đức tin này đặc trưng cho mối liên hệ căn bản của họ với Chúa Giêsu và với Thiên Chúa. Đức tin này là một hồng phúc của Chúa Thánh Thần (Ga 3:5; 16:13) và được sống trong một sự kết hợp mật thiết, minh nhiên và bản thân với Chúa Cha và với Chúa Con (Ga 17:20-23). Nhờ đức tin này, các môn đệ được nối kết với con người của Chúa Giêsu, Đấng “vừa là Đấng Trung Gian vừa là sự viên mãn của Mạc khải” (DV, số 2), và họ nhận được từ Người nội dung chứng từ tông đồ của họ, bất luận Người phát biểu bằng miệng hay bằng bản văn. Vì một chứng từ như vậy phát xuất từ Chúa Giêsu, Lời của Thiên Chúa, nên nó chỉ có thể là Lời phát xuất từ chính Thiên Chúa. Mối liên hệ bản thân của đức tin (1) với nguồn nhờ đó Thiên Chúa tự mạc khải Người ra (2) là hai thuật ngữ có tính quyết định giúp chúng ta có thể coi lời nói và việc làm của các Tông đồ phát xuất từ Thiên Chúa.

Chúa Giêsu là “đỉnh mạc khải của Thiên Chúa Cha” (VD, 20), một đỉnh cao được đi trước bởi một “nhiệm cục” phong phú mạc khải thần thiêng. Như chúng ta đã đề cập, Thiên Chúa tự mạc khải Người trong sáng thế (DV, số 3), và đặc biệt trong con người được tạo ra “giống hình ảnh Người” (St 1:27). Người tự mạc khải cách đặc biệt trong lịch sử dân Israel, trong “các hành động và lời nói liên quan mật thiết với nhau” (DV, 2). Qua cách này, ta nhận ra nhiều hình thức mạc khải của Thiên Chúa, đạt đến sự viên mãn và đỉnh cao của nó trong con người của Chúa Giêsu (Dt, 1:1-2).

Trong trường hợp các sách Tin mừng (và nói chung trong các trước tác tông đồ), hai yếu tố có tính quyết định lên đặc điểm cho nguồn gốc thần thiêng là đức tin sống động trong Chúa Giêsu (1), và chính con người của Chúa Giêsu, Đấng là đỉnh cao của mạc khải thần thiêng (2). Trong việc nghiên cứu nguồn gốc thần thánh của các trước tác Thánh Kinh khác, hai tiêu chuẩn sẽ được sử dụng:

– niềm tin bản thân vào Thiên Chúa (theo “giai đoạn” chuyên biệt của nhiệm cục mc khải) được chứng thực ra sao?

– mạc khải tự tỏ hiện ra sao trong các bản văn Thánh Kinh khác nhau?

Mỗi bản văn Thánh Kinh xuất phát từ Thiên Chúa thông qua đức tin sống động nơi tác giả của nó, và qua sự trung gian của mối liên hệ của tác giả này với một (hoặc nhiều) hình thức đặc thù của sự mạc khải thần thiêng. Không hiếm việc một bản văn Thánh Kinh dựa trên một bản văn được linh hứng trước đó và do đó chia sẻ cùng một nguồn phát xuất thần thánh.

Những tiêu chuẩn này rất hữu ích để lên đặc điểm cho chứng từ của các trước tác Thánh Kinh khác nhau, và để xem chúng phát xuất ra sao từ Thiên Chúa, như các bản văn luật, lời lẽ khôn ngoan, sấm ngôn tiên tri, lời cầu nguyện đủ loại, lời khuyên tông đồ, do đó, để xem Thiên Chúa là tác giả của chúng ra sao, thông qua sự trung gian của các tác giả nhân bản. Tùy vào tình huống, các cách phát biểu nguồn phát xuất thần thánh đều khác nhau, và do đó không thể so sánh chúng với một “việc Thiên Chúa đọc chính tả” đơn giản, giống hệt như nhau trong mọi trường hợp. Tuy nhiên, đức tin bản thân vào Thiên Chúa của tác giả phàm nhân và sự ngoan ngoãn của họ đối với các hình thức mạc khải thần thiêng khác nhau được chứng thực trong mọi tình huống.

Do đó, khi nghiên cứu các bản văn Thánh Kinh và tìm kiếm cách mà chúng chứng thực mối liên hệ của các tác giả của chúng với Thiên Chúa, chúng ta tìm cách cụ thể hơn để chứng tỏ linh hứng được trình bầy cách nào như mối liên hệ giữa Thiên Chúa, Đấng linh hứng và là tác giả, và những con người, các tác giả chân chính được Người chọn lựa.

2. Chứng thực các bản văn đã được chọn của Cựu Ước

http://www.vietcatholicnews.net/pics/moses.jpg

11. Chúng ta đã chọn các cuốn sách đại diện cho Cựu Ước và Tân Ước để minh họa xuất xứ thần thiêng của những cuốn sách này được phát biểu trong chính bản văn ra sao. Về Cựu Ước, chúng ta theo lối phân chia cổ điển thành Lề Luật, Tiên tri và các trước tác (x. Lc 24:44); cuộc điều tra của chúng ta sẽ tập trung vào Ngũ kinh, các tiên tri và các sách lịch sử (còn được gọi là các tiên tri trước), cuối cùng vào các Thánh vịnh và sách Huấn Ca.

2.1 Ngũ kinh

Ý tưởng về nguồn gốc thần thiêng của các bản văn Thánh kinh được khai triển trong các câu chuyện của Ngũ kinh bắt đầu bằng ý niệm viết, ấn định các truyền thống bằng chữ viết. Do đó, trong hoàn cảnh đặc biệt giàu ý nghĩa, Môsê nhận từ Thiên Chúa trách nhiệm “đặt thành bản văn”, thí dụ, như văn kiện lập ra giao ước (Xh 24:4), hoặc bản văn liên quan đến việc đổi mới nó (Xh 34: 27); ở nơi khác, dường như ông thi hành lệnh truyền thần thiêng này bằng cách viết ra các yếu tố quan trọng khác (Xh 17:14, Ds 33:2, Đnl 31:22), cho đến khi soạn tác toàn bộ Tôra (xem Đnl 27: 3,8; 31:9). Cuốn Đệ nhị luật đặc biệt nhấn mạnh vai trò chuyên biệt của Môsê, trình bày ông như một người trung gian được linh hứng của mạc khải và là người giải thích có thẩm quyền của Lời Chúa. Chính từ các yếu tố này đã khai triển một cách hợp luận lý ý tưởng truyền thống cho rằng Môsê là tác giả của Ngũ kinh, nghĩa là các sách Ngũ kinh không những nói về ông, mà còn phải được coi như là trước tác của ông nữa.

Các khẳng định chính liên quan đến sự kiện Thiên Chúa tự thông đạt chính Người tìm thấy trong các câu chuyện gặp gỡ của Israel với Thiên Chúa trên Núi Sinai / Hôrép (Xh 19 – Ds 10, Đnl 4 ff.). Các câu chuyện này tìm cách phát biểu bằng những hình ảnh sống động ý tưởng cho rằng Thiên Chúa là nguồn gốc của cả truyền thống Thánh kinh nữa. Do đó, người ta có thể quả quyết rằng nền tảng của sự thấu hiểu Thánh kinh như là Lời Chúa đã bắt đầu ngay lúc ở Sinai, bởi vì ở đó, Thiên Chúa đã đặt Môsê làm người trung gian duy nhất cho sự mạc khải của Người. Tùy thuộc ở Môsê việc cố định hóa mạc khải thần thiêng bằng bản văn, để ông có thể truyền tải nó và bảo tồn nó như là Lời của Thiên Chúa cho mọi người mọi thời. Chữ viết không những có thể truyền tải Lời mà còn thúc đẩy người ta chất vấn về tác giả phàm nhân, người mà trong trường hợp Thánh kinh, có thể làm cho nó tự biểu lộ mình như là Lời Thiên Chúa trong ngôn ngữ con người. Ý tưởng này (xem DV, số 12) đã được phát biểu trong vắn tắt trong Xh 19:19, trong đó có chép rằng Thiên Chúa trả lời Môsê bằng một “tiếng nói”; do đó, người ta ước tính rằng Thiên Chúa “đồng ý” sử dụng ngôn ngữ con người, đặc biệt là đối với người trung gian của mạc khải Người.

12. Mặt khác, nguồn gốc thần thiêng của lời viết được giải thích một cách tinh tế trong câu chuyện Núi Sinai. Trong bối cảnh này, Thập Điều tạo nên một văn kiện độc đáo và khôn sánh. Nó có thể được coi như khởi điểm cho ý tưởng nguồn gốc thần thiêng của Thánh kinh (linh hứng), bởi vì, trong tư cách bản văn, Thập điều là điều duy nhất nên được liên kết với ý tưởng được viết bởi chính Thiên Chúa (xem Xh 24:12; 31:18; 32:16; 34:1,28, Đnl 4:13; 9:10; 10: 4). Bản văn mà chính Thiên Chúa đã viết trên hai phiến đá này là nền tảng cho khái niệm nguồn gốc thần thiêng của các bản văn Thánh kinh. Khái niệm này tự triển khai theo hai hướng trong các câu chuyện của Ngũ kinh. Một mặt, thẩm quyền chuyên biệt của Thập điều được nhấn mạnh, khi so với tất cả các lề luật và lệnh truyền khác của Thánh kinh, mặt khác, người ta có thể nhận thấy rằng khái niệm “viết” (hiểu “đặt thành bản văn”) đặc biệt liên quan đến người trung gian của mạc khải – là Môsê – đến nỗi sau này Môsê và Ngũ kinh được coi như tương đồng.

Về khía cạnh thứ nhất – Thập điều do chính Thiên Chúa viết – người ta cần lưu ý rằng việc truyền tải và tiếp nhận các bản văn đã được chứng thực trong truyền thống Sách Thánh được thể hiện một cách độc lập đối với sự hỗ trợ vật lý của nó – tức hai phiến đá . Không phải những phiến đá trên đó Thiên Chúa viết được bảo tồn và tôn kính, mà là bản văn mà Chúa đã viết mới thuộc về Thánh kinh (xem Xh 20, Dt 5).

Mười điều răn mà Thiên Chúa đã viết và giao phó cho Môsê – ở đây, chúng ta bàn đến khía cạnh thứ hai – ám chỉ mối liên hệ đặc thù hiện diện giữa Thiên Chúa và con người liên quan đến Thánh Kinh. Thực thế, Môsê không được thiết lập làm người trung gian theo một kế hoạch thần thiêng, nhưng đúng hơn, Thiên Chúa thuận theo lời cầu nguyện của dân (Israel), muốn có người trung gian. Sau khi Thiên Chúa tỏ mình ra một cách trực tiếp với dân Do Thái (xem Xh 19), dân chúng khẩn khoản xin Môsê làm trung gian, vì họ sợ phải gặp gỡ Thiên Chúa một cách trực diện (Xh 20: 18-21). Do đó, Thiên Chúa đã chiều theo ý muốn của dân và lập Môsê làm người trung gian, nói chuyện với ông, và thông truyền cho ông một cách chi tiết các huấn giáo của Người (Xh 20:22; 23:33). Môsê cuối cùng đã viết những lời này thành bản văn, vì Thiên Chúa thiết lập giao ước của Người với Israel bằng cách sử dụng những ngôn từ này (Xh 24: 3-8). Để xác nhận hành động này, Thiên Chúa hứa với Môsê sẽ ban các phiến đá trên đó chính Người đã viết (xem Xh 24:12). Chúng ta không thể diễn tả rõ ràng và sâu sắc hơn được sự kiện này: Thánh Kinh, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ nọ trong cộng đồng đức tin của Israel, sau đó là các Kitô hữu, tìm thấy nguồn gốc của nó trong Thiên Chúa, ngay cả trong các tình huống trong đó nó được soạn tác bởi những con người. Trong Ngũ kinh, “sự tự chứng thực” này của Thánh kinh đạt đến đỉnh cao khi nó được khẳng định rằng chính Môsê đặt thành bản văn các yếu tố nhằm giáo huấn dân Israel, trước khi họ vào đất hứa (x. Đnl 31:19), truyền chúng lại cho mọi người như một chương trình cho cuộc sống và tác phong tương lai của dân này. Chỉ khi nào con người cho phép bản thân bị chất vấn bởi lời Thánh kinh đã được mạc khải cho họ này, họ mới có thể nhận ra nó và chào đón nó không phải như lời nói của con người, mà là “lời của Thiên Chúa đang hành động” trong họ, các tín hữu (1Tx 2:13).

2.2 Các sách tiên tri và các sách lịch sử

13. Với Ngũ kinh, các sách tiên tri và các sách lịch sử là một phần của Cựu Ước nhấn mạnh nhiều nhất đến nguồn gốc nội dung của nó. Nói chung, Thiên Chúa tự mạc khải Người cho dân Người hoặc các nhà lãnh đạo của họ qua trung gian của những con người nhân bản: trong Ngũ kinh, qua Môsê, nguyên mẫu các tiên tri (Đnl 18: 18-22); trong các sách tiên tri và lịch sử, qua các tiên tri. Ở đây, người ta sẽ tìm cách chứng tỏ các sách tiên tri và sách lịch sử chứng thực nguồn gốc thần thiêng của nội dung chúng như thế nào. http://www.vietcatholicnews.net/pics/jeremiah.jpg

2.2.1. Các sách tiên tri: các bộ sưu tập những gì Thiên Chúa đã nói với dân của Người qua các trung gian của Người.

Các sách tiên tri được trình bày dưới dạng các bộ sưu tập những gì Chúa đã nói với dân của Người qua các “tác giả” (được cho là) đã ghi tên của mình trên các bộ sưu tập này. Thật vậy, những cuốn sách này quả quyết một cách nhấn mạnh rằng Chúa là tác giả nội dung của chúng. Họ làm điều này bằng nhiều cách diễn đạt khác nhau nhằm dẫn nhập và nhấn mạnh các ngôn từ. Những phát biểu này khẳng định và giả định rằng các sách tiên tri là các ngôn từ của Chúa và chỉ rõ rằng Chúa nói với dân của Người qua các tác giả các cuốn sách này. Và, thực sự, một phần đáng kể nội dung của những cuốn sách tiên tri được đặt, một cách chính thức, vào môi miệng Chúa. Như một hệ quả tất yếu, các cuốn sách này trình bày các tác giả của chúng như những con người được Chúa sai đến với sứ mệnh truyền tải thông điệp tới dân của Người.

a. Các “công thức tiên tri”

Các tiêu đề của hai phần ba các sách tiên tri minh nhiên khẳng định rằng chúng có nguồn gốc thần thiêng, bằng cách sử dụng một công thức xác định rằng lời này phát xuất từ Chúa. Không kể đến các khác biệt chi tiết, công thức được tóm tắt trong câu khẳng định này: “Lời Chúa đã ngỏ cùng …”, theo sau là tên của vị tiên tri đã nhận được lời này (như trong các sách của Giêrêmia, Edêkien, Hôsê, Gioen, Giôna, Xôphônia và Dacaria), và đôi khi là tên của những người nhận nó (như trong Khaggai và Malaki). Những tiêu đề này khiến có khẳng định cho rằng nội dung của những cuốn sách được đề cập, dù được đặt trong miệng của Thiên Chúa hay trong các tiên tri, hoàn toàn là Lời của Thiên Chúa. Tiêu đề của những cuốn sách tiên tri còn lại cho đến nay cho thấy chúng kể lại nội dung các thị kiến mang lại lợi ích cho các nhân vật có tên như Isaia, Amốt, Ôvađia, Nakhum và Khabacúc. Tiêu đề của sách Mikha đặt cạnh nhau công thức nói rằng Lời Chúa diễn ra và việc nhắc đến thị kiến. Mặc dù điều này không được viết một cách minh nhiên, nhưng trong bối cảnh các sách tiên tri, nguồn gốc các thị kiến chỉ có thể là chính Chúa. Do đó, Người là tác giả của những cuốn sách này.

Các tiêu đề không tạo nên phần duy nhất của những cuốn sách tiên tri miêu tả chúng là Lời của Thiên Chúa. Nhiều “công thức tiên tri” để nhấn mạnh bản văn cũng làm như vậy. Biểu thức phổ biến nhất, “công thức tiên tri” tuyệt nhất, là “Chúa nói như thế”. Mở đầu diễn từ bằng công thức này, nhà tiên tri tự giới thiệu mình là sứ giả của Chúa. Ngài bác bỏ với người nghe rằng diễn từ ngài ngỏ với họ không phát xuất từ ngài, mà có tác giả là Chúa.

Không dám cho là thấu triệt, cần đề cập đến ba công thức khác nhằm nhấn mạnh các sách tiên tri: “sấm ngôn của Chúa”; “Chúa / Thiên Chúa nói như thế”; và “Chúa phán”. Không giống như biểu thức đầu tiên được gọi là “công thức sứ giả” và là biểu thức nhằm dẫn nhập các diễn từ, các biểu thức này có thể kết luận chúng. Hành xử như một chữ ký ở cuối bài viết, chúng chứng thực rằng Chúa là tác giả của diễn từ trước đó.

b. Các tiên tri: sứ giả của Chúa

14. Trong số các trước tác tiên tri, có bốn sách giải thích cách Chúa hành động để các tác giả của chúng trở thành sứ giả của Người: Isaia (6:1-13); Giêrêmia (1:4-10); Êdêkien (1:3-3,11) và Amốt (7:15). Việc sai đi thi hành sứ vụ nơi Isaia và Êdêkien dùng thị kiến làm bối cảnh. Có lẽ cũng tương tự như thế với Giêrêmia. Câu truyện sai Isaia đi thi hành sứ vụ là một thí dụ điển hình của loại này, bởi vì nó vừa khá được khai triển vừa đồng thời rất cô đọng. Trong lời khuyên thần thiêng mà Isaia hỗ trợ trong thị kiến, Chúa, khi đi tìm một tình nguyện viên, đã đặt câu hỏi: “Ta sẽ sai ai đi? Ai sẽ đi làm sứ giả của chúng ta?” và Isaia trả lời: “Con đây: xin hãy sai con đi!”. Chấp nhận đề nghị của Isaia, Chúa kết luận: “Hãy đi nói với dân này …”. Hãy theo sứ điệp của Chúa (Is 6:8-10). Câu truyện, được cấu trúc bởi các động từ “sai, đi, nói”, tìm thấy kết luận trong diễn từ của Chúa rằng Isaia có sứ mệnh truyền đến dân. Điều tương tự cũng xẩy ra với ba “câu chuyện sai tiên tri” khác được đề cập ở trên, cũng được kết luận bằng lệnh của Chúa để sứ giả của Người truyền đi thông điệp Người muốn truyền đạt (Edk 2:3-4; 3:4-11, Am 7:15). Trong Câu chuyện sai Giêrêmia, Chúa nhấn mạnh vào đặc tính tuyệt đối của mệnh lệnh Người (xem thêm Am 3:8) và, đồng thời, vào độ chính xác phải là đặc điểm cho việc truyền tải thông điệp: “Chúa trả lời: Đừng nói ‘Con là một đứa trẻ!’ Ngươi sẽ đi đến tất cả những người mà Ta sẽ sai ngươi đến; tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi, ngươi sẽ nói chúng … “(Grm 1:7, xem 1:17, 26:2,8, Đnl 18:18,20). Những tường thuật này ấn định trách nhiệm của “sứ giả của Chúa”, mà các sách tiên tri thừa nhận cho các tác giả tương ứng của chúng và, đồng thời, thiết lập nguồn gốc thần thiêng cho thông điệp của chúng.

2.2.2. Sách lịch sử: lời của Chúa có hiệu quả không thể sai lầm, và kêu gọi hoán cải.

a. Các sách của Giosuê – Các Vua

http://www.vietcatholicnews.net/pics/solomon.jpg 15. Trong các sách Giosuê, Thủ lãnh, Samuen và Các Vua, Chúa thường xuyên lên tiếng, như trường hợp trong các sách tiên tri, mà theo truyền thống Do Thái, bộ sưu tập này cũng thuộc về. Thực thế, ở mỗi bước trong cuộc chinh phục Đất Hứa, Chúa nói với Giosuê điều ông phải làm. Trong Gs 20:1-6 và 24: 2-15, Ngài nói với mọi người qua trung gian Giosuê, người do đó được trao cho sứ mệnh tiên tri. Trong cuốn Thủ Lãnh, Chúa hay Thiên thần của Người, thường nói chuyện với các nhà lãnh đạo, đặc biệt là Giđêông hoặc dân. Chúa hành động đích thân, ngoại trừ ở Tl 4:6-7 và 6:7-9 khi Người qua trung gian nữ tiên tri Đơvôra và một tiên tri ẩn danh để ngỏ lời một mặt với Barắc, và một mặt với toàn dân.

Mặt khác, trong các sách Samuen và Các Vua, ngoài một số ngoại lệ hiếm hoi, Chúa thường tự mạc khải chính Người cho những người mà Người ngỏ lời qua các trung gian các nhân vật tiên tri. Các diễn từ của Người sau đó được đóng khung bởi các phát biểu giống hệt với các cách phát biểu nhằm dẫn nhập và nhấn mạnh các sách tiên tri. Trong số các sách Thánh Kinh, các sách Samuen và Các Vua đặc biệt nhấn mạnh đến các tiên tri và hoạt động làm sứ giả cho Chúa của họ. Đối với phần lớn các sấm ngôn được ghi lại trong Samuen và Các Vua, Chúa công bố những bất hạnh mà Người sẽ giáng xuống các nhà lãnh đạo của dân, đặc biệt hơn xuống vị vua này hay vị vua nọ và triều đại của ông, hoặc xuống các vương quốc Israel (xem 1 V 14: 15-16) và Giuđa (xem 2 V 21:10-15), vì sự kiện ở đó có việc thờ phượng các vị thần khác với Người. Các lần Chúa công bố bất hạnh thường được kèm theo với việc kể lại thành tựu của họ. Các sách Samuen và Các Vua được trình bày, phần lớn, như một chuỗi nối tiếp các công bố bất hạnh và những câu truyện thành tựu. Chuỗi nối tiếp này chỉ kết thúc với sự hủy diệt của vương quốc Giuđa. Trong phần dẫn nhập câu truyện chinh phạt Babylon (597-587 TCN), 2 V 24:24 công bố rằng sự hủy diệt Giuđa là công việc của Chúa, thể hiện những gì Người đã công bố “qua trung gian các tôi tớ tiên tri của Người”. Vì Chúa không bao giờ lại không hoàn thành điều Người đã công bố, nên lời nói của Người tự mạc khải là vô cùng hiệu quả. Nói cách khác, Chúa là tác giả chính của lịch sử dân Người; Người công bố các sự kiện của nó, và làm chúng xảy ra.

Như các bản văn mà nó từng là vấn đề, 2 V 17:7-20 tóm tắt lịch sử Israel và Giuđa giống như một chuỗi các diễn từ mà Chúa đã ngỏ cùng họ qua sự trung gian của các tôi tớ tiên tri. Tuy nhiên, giọng điệu của các diễn từ khá khác nhau. Chúa không công bố bất hạnh cho Israel cũng như cho Giuđa, nhưng khuyên nhủ họ hãy hoán cải. Vì các kẻ có liên hệ đã cứng đầu trong việc từ chối trước lời kêu gọi của Chúa (2 V 17:13-14), nên Người mới bác bỏ họ xa khỏi Thánh Nhan Người.

b. Các sách Sử biên

16. Như trong bộ Giosuê-Các Vua J, các diễn từ của Chúa hiện diện rất nhiều trong các sách Sử Biên. Người nói chuyện trực tiếp với Salômôn (2 Sb 1:7, 11-12; 7:12-22). Nói chung, Chúa ngỏ lời với nhà vua hoặc người dân qua các trung gian: hầu hết trong số họ nhận danh hiệu “tiên tri”, nhưng một số thì không. Vị trí đầu tiên thuộc các tiên tri như Nathan (x. 1 Sb 17:1-15) và nhiều vị khác. Chúa cũng sử dụng các thầy chiêm (voyants) như Gát (1 Sb 21: 9-12) và những người trong các ngành nghề khác nhau và thậm chí các vị vua nước ngoài như Nơkhô (2 Sb 35:21) và Kyrô (2 Sb 36:23). Các gia đình chính của các nhạc sĩ đền thờ nói tiên tri (xem 1 Sb 25:1-3).

Các sách Sử biên lấy lại các quan niệm về Lời Chúa đã diễn tả trong Samuen và Các Vua. Cũng trong những sách này, nhưng có lẽ ít nhấn mạnh hơn, các diễn từ của Chúa có mục đích công bố các biến cố mà sau đó thuật lại các thành tựu (x. 1 Sb 11:1-3; 6:10; 10:15). Các sách Sử biên đặc biệt nhấn mạnh vai trò này của Lời Chúa khi nhắc đến việc lưu đày ở Babylon. Theo 2 Sb 36:20-22, lưu vong, cũng như kết cục của nó, hoàn thành những gì Chúa đã công bố qua miệng Giêrêmia (x. Grm 25:11-14; 29:10). Với các hạn từ khác với 2 V 17:13-14; 2 Sb 36:15-16 lấy lại chủ đề can thiệp không ngừng được Chúa thực hiện một cách vô ích để tránh sự bất hạnh cho dân Người, dân mà Người đã sai các tiên tri và / hoặc sứ giả đến. Cuối cùng, người ta cần lưu ý rằng các sách Sử biên không khẳng định nguồn gốc thần thiêng cho nội dung của chúng, nhưng dường như chúng gợi ý điều này, theo mức chúng nhắc đến các nguồn tiên tri (xem 2 Sb 36:12,15-16, 21-22).

Tóm lại, các sách tiên tri được trình bày trọn vẹn như lời của Thiên Chúa. Những lời này cũng chiếm một vị trí quan trọng trong các sách lịch sử. Cả hai, và trên hết, các sách lịch sử, xác định rằng Lời Thiên Chúa có hiệu lực không thể sai lầm, và kêu gọi hoán cải.

2.3 Thánh vịnh

http://www.vietcatholicnews.net/pics/king-david-harp.jpg

17. Thánh vịnh là một tập hợp các lời cầu nguyện phát xuất từ trải nghiệm bản thân và cộng đồng về sự hiện diện và hành động của Chúa. Các Thánh vịnh diễn tả lời cầu nguyện của Israel vào những thời kỳ khác nhau trong lịch sử của họ: vào thời hoàng gia và sau đó, trong thời lưu đày, lúc chính Thiên Chúa ngày càng được nhìn nhận là vua của Israel, và cuối cùng, sau lưu đầy vào thời đền thờ thứ hai. Mọi thánh vịnh tạo nên một bằng chứng về mối liên hệ sống động và mạnh mẽ với Thiên Chúa, và trên cơ sở đó có thể quả quyết rằng mọi thánh vịnh đều phát xuất từ Thiên Chúa và được Thiên Chúa linh hứng. Tùy theo điều chính các bản văn phát biểu, chúng ta có thể dựng lại, tuy không cho là rốt ráo, ít nhất ba loại biểu thức của mối liên hệ này:

a/ Cảm nghiệm sự can thiệp của Chúa vào đời sống tín hữu.

b / Cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa trong đền thánh

c / Cảm nghiệm chính Thiên Chúa, nguồn gốc mọi khôn ngoan.

Ba loại liên hệ với Thiên Chúa được sống dựa trên giao ước Sinai, bao gồm lời hứa Thiên Chúa sẽ hiện diện tích cực trong đời sống hàng ngày của dân và trong đền thờ.

a. Cảm nghiệm sự can thiệp của Chúa vào đời sống tín hữu

Những người cầu nguyện cảm nghiệm được sự giúp đỡ mạnh mẽ của Thiên Chúa theo hai cách: đó có thể là một đáp ứng đối với lời kêu cầu của họ, hoặc có thể tỏ hiện trong những điều kỳ diệu mà Người là tác giả.

Về đáp ứng của Thiên Chúa đối với lời cầu nguyện, trong khá nhiều thí dụ khả hữu, ta hãy trích dẫn Thánh vịnh 30 (1): 10-13: “Con kêu lên Chúa, lạy Chúa, con khẩn cầu Thiên Chúa của con (…) Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con, lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ! Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu, cởi áo sô, mặc cho con lễ phục huy hoàng. Vì thế, tâm hồn con ca ngợi Chúa, và không hề nín lặng.

“Lạy Chúa là Thiên Chúa con, xin tạ ơn Ngài”.

Một cảm nghiệm bản thân, và đồng thời cộng đồng, về Chúa, Đấng cứu rỗi là sức linh hứng của các Thánh vịnh cầu khẩn và ngợi khen. Cảm nghiệm này thường được chỉ định, nếu không được thuật lại, ở đầu (xem Tv 18:5-7; 30:2), ở cuối (xem Tv 142:6-8) hoặc ở giữa Thánh vịnh (xem Tv 22: 22; 85: 7-9). Nửa chừng giữa sự cầu xin và ngợi khen của con người, ta thấy Lời (diễn tả lời hứa và hành động) của Thiên Chúa (Tv 30:12). Sau khi nhận ra nó, thánh vịnh gia cảm thấy được linh hứng để nói nó cho người khác. Do đó, Lời này được tiếp nhận và cầu nguyện không chỉ bởi một cá nhân, mà bởi toàn dân.

Những người cầu nguyện chú ý đến các kỳ công của Chúa, bởi vì Chúa nói với họ, cũng như với toàn dân qua những công trình vĩ đại mà Người đã thực hiện trong suốt diễn trình sáng tạo và trong lịch sử Israel. Tv 19:2-5 nhắc tới các điều kỳ diệu của sáng thế và mô tả “ngôn ngữ” của chúng:

“Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm. Ngày qua mách bảo cho ngày tới, đêm này kể lại với đêm kia. Chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh, mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển”. Chỉ có người cầu nguyện mới hiểu thứ ngôn ngữ nói về “vinh quang của Thiên Chúa” này (xem Tv 147:15-20), và diễn đạt nó bằng lời nói của mình.

Thánh vịnh 105 nhắc nhớ các công trình của Thiên Chúa trong lịch sử Israel và khuyên nhủ mỗi cá nhân, cũng như toàn dân trong tính toàn thể của họ: Tv. 5: “Hãy nhớ lại những kỳ công Người thực hiện, những dấu lạ và những quyết định Người phán ra”. Các Thánh vịnh lịch sử ghi lại “những kỳ công” do Thiên Chúa thực hiện, đồng thời là “những phán đoán từ miệng Người”. Lời lẽ của các Thánh vịnh này, được lên công thức bằng ngôn từ con người, được linh hứng từ các công trình vĩ đại của Chúa. Tiếng nói này của Chúa tiếp tục vang lên trong “ngày hôm nay” của người cầu nguyện và của dân. Cần khẩn cấp lắng nghe tiếng nói này.

b/ Cảm nghiệm sự hiện diện mạnh mẽ của Chúa trong đền thánh

18. Chúng ta hãy lấy các thánh vịnh 17 và 50 làm thí dụ. Trong bản văn đầu tiên, cảm nghiệm về Thiên Chúa linh hứng cho một người bị buộc tội sai lầm dâng lời cầu nguyện tin tưởng vô điều kiện vào Thiên Chúa; trong bản văn thứ hai, cảm nghiệm này làm người ta nhận ra tiếng nói của Thiên Chúa tố cáo hành vi sai lầm của dân.

Trong Thánh vịnh 17, câu cuối cùng bày tỏ niềm hy vọng gần như chắc chắn: “Về phần con, sống công minh chính trực, con sẽ được trông thấy mặt Ngài, khi thức giấc, được thoả tình chiêm ngưỡng Thánh nhan Ngài” (c.15). Hai lời cầu nguyện khác của những người bị bách hại kết thúc cách tương tự: Tv 11:7 – “những kẻ sống ngay lành sẽ được chiêm ngưỡng Thánh Nhan Chúa”; và Thánh vịnh 27, trong câu áp chót (câu 13) – “Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống” (xem câu 4: 8-9). Kiểu nói “Thánh nhan Chúa” có nghĩa là chính Thiên Chúa, Ngôi vị Thiên Chúa theo thực tại chân thực và hoàn hảo của Người. Do đó, kiểu nói “nhìn thấy thánh nhan Thiên Chúa” có nghĩa là cuộc gặp gỡ mãnh liệt, thực chất và có tính bản thân với Thiên Chúa, không qua trung gian giác quan thị giác, nhưng trong “thị kiến” đức tin. Niềm hy vọng không thể lay chuyển có được cảm nghiệm này về Thiên Chúa (“Tôi sẽ thấy” trong tương lai) và nhận thức về Thiên Chúa, Đấng tự bày tỏ Người ra, là nền tảng của toàn bộ lời cầu nguyện.

Thánh vịnh 50 đề cập đến cảm nghiệm thần hiện (théophanie) trong phụng vụ ở Đền thờ. Với việc xuất hiện của Thiên Chúa giao ước (Tv 50:5), đã tái tạo các hiện tượng của Sinai, lửa hồng thiêu đốt, bạo vũ cuồng phong (Tv 50:3). Sự tỏ mình của chính Thiên Chúa và mối liên hệ của Người với Israel (50:7: “Ta là Thượng Đế, là Chúa ngươi thờ” dẫn đến lời buộc tội chống lại dân: “Ta đặt điều này dưới con mắt ngươi, và Ta buộc tội ngươi” (Tv 50:21). Thiên Chúa chỉ trích hành vi của dân hai cách: mối liên hệ của họ với Thiên Chúa chỉ tập trung vào các lễ hy sinh (Tv 50: 8-13), và mối liên hệ với người lân cận trái ngược 180 độ với các điều răn của giao ước (Tv 50:16-22 ). Thiên Chúa đòi lời ngợi khen, lời cầu nguyện trong nỗi xao xuyến âu lo (Tv 50:14-15.23) và sự chính trực đối với người lân cận (Tv 50:23). Do đó, Thánh vịnh 50, ở tâm điểm sách Thánh vịnh, lặp lại các công thức tiên tri: không những nó làm cho Chúa lên tiếng, mà còn trình bày tất cả lời khẩn cầu và tất cả hành động ngợi khen cũng như vâng lời lệnh truyền của Thiên Chúa. Do đó, mọi lời cầu nguyện đều được Thiên Chúa “linh hứng”.

c/ Cảm nghiệm chính Thiên Chúa, nguồn khôn ngoan

19. Khôn ngoan và trí hiểu là những thuộc tính thần thiêng (xem Tv 136:5; 147:5). Chính Người là Đấng truyền đạt các thuộc tính này (“Trong bí nhiệm, Ngài dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan”: Tv 51:8), khiến con người ra khôn ngoan, nghĩa là có khả năng thấy mọi sự như Thiên Chúa thấy chúng. Đavít từng sở hữu sự khôn ngoan và trí hiểu như vậy từ lúc Thiên Chúa gọi ông làm Vua Israel (xem Tv 78:72).

Kính sợ Thiên Chúa là điều kiện cần thiết để được Thiên Chúa “dạy dỗ” và để nhận được sự khôn ngoan. Trong phần đầu của Thánh vịnh 25, người cầu nguyện ngông khừng xin được Chúa dạy dỗ (câu 4-5: “Lạy Chúa, đường nẻo Ngài, xin dạy cho con biết, lối đi của Ngài, xin chỉ bảo con. Xin dẫn con đi theo đường chân lý của Ngài và bảo ban dạy dỗ, vì chính Ngài là Thiên Chúa cứu độ con”, dựa vào việc Thiên Chúa sẵn lòng để ban sự khôn ngoan (xem câu 8-9). Sự kính sợ Thiên Chúa là thái độ không thể thiếu để hưởng được sự giáo huấn đặc biệt của Thiên Chúa: “Phàm ai kính sợ Thiên Chúa, Người chỉ cho thấy đường phải chọn” (Tv 25:12). Những người kính sợ Thiên Chúa không chỉ nhận được giáo huấn về con đường phải theo, mà như Thánh vịnh 25 giải thích, họ còn nhận được sự soi sáng sâu rộng và sâu sắc hơn: “Chúa xử thân tình với những ai kính sợ Chúa và cho họ biết giao ước của Người”(c. 14); nói cách khác, Người dẫn họ vào mối liên hệ bè bạn mật thiết với Người và hiểu biết thấu đáo về giao ước mà Người đã lập với Israel tại Sinai. Do đó, chúng ta nhận thấy rằng mối liên hệ với Thiên Chúa, được phát biểu trong kiểu nói “kính sợ Thiên Chúa”, là nguồn linh hứng mà từ đó nhiều Thánh vịnh khôn ngoan đã phát xuất.

2.4 Sách Huấn Ca

http://www.vietcatholicnews.net/pics/grandfather-reading-to-grandkids.jpg 20. Trong các sách tiên tri, chính Thiên Chúa nói qua trung gian các Tiên tri. Như chúng ta đã xem xét, những cách mà theo đó, Thiên Chúa nói với những người mà Người đã chọn làm người phát ngôn bên cạnh dân Israel rất đa dạng. Trong các Thánh vịnh, chính con người nói chuyện với Thiên Chúa, nhưng làm như vậy trước sự hiện diện của Người và chọn các phát biểu giả thiết có sự hiệp thông chặt chẽ với Người. Trái lại, trong các sách khôn ngoan, những con người nói chuyện với những con người khác; tuy nhiên, cả người nói lẫn người nghe đều bắt rễ sâu xa trong đức tin vào Thiên Chúa của dân Israel. Trong Cựu Ước, thông thường sự khôn ngoan được minh nhiên quy cho Thần trí Thiên Chúa (xem G 32:8; Kn 7:22; 9:17, cũng xem 1 Cr 12:4-11). Những sách này được gọi là “sách khôn ngoan” vì tác giả của chúng nghiên cứu kỹ lưỡng và chỉ ra những con đường dẫn đến lối sống được dẫn dắt bởi khôn ngoan. Trong cuộc tìm kiếm của họ, họ ý thức được rằng sự khôn ngoan là một hồng ân của Thiên Chúa vì ” Chỉ có một Đấng khôn ngoan rất đáng sợ, Đấng ấy ngự trên ngai của Người” (Hc 1:8). Khi tìm cách xác định rõ cung cách các sách khôn ngoan trình bầy mối liên hệ với Thiên Chúa như nguồn gốc và nền tảng của những gì được các tác giả của chúng dạy dỗ, chúng ta đã tập trung cuộc nghiên cứu của chúng ta vào sách Huấn Ca, vì bản chất tổng hợp của nó.

Ngay từ đầu cuốn sách, tác giả đã tỏ ra ý thức được rằng “mọi sự khôn ngoan đều phát xuất từ Chúa và ở bên cạnh Người mãi mãi” (Hc 1:1). Ngay trong Lời Tựa, dịch giả Sách này chỉ rõ sự trung gian qua đó Thiên Chúa thông truyền sự khôn ngoan cho tác giả: Dịch giả viết: “Lề Luật, Các ngộn sứ và các trước tác khác của tiền nhân, và hiểu được ý nghĩa sâu xa của sách ấy, Ông tôi là cụ Giêsu đã có sáng kiến viết đôi điều liên quan đến đường giáo huấn và lẽ khôn ngoan”. Việc đọc Thánh Kinh một cách cẩn thận và tin tưởng, trong đó Thiên Chúa nói với dân Israel, đã kết hợp tác giả với Thiên Chúa, trở thành nguồn khôn ngoan của ông, và dẫn ông viết tác phẩm của mình.

Do đó, cách thức theo đó cuốn sách phát xuất từ chính Thiên Chúa được trình bày cách rõ ràng. Những gì dịch giả quả quyết trong lời tựa được xác nhận bởi chính tác giả ở tâm điểm cuốn sách. Sau khi đề cập đến lời khen ngợi mà Đức Khôn Ngoan tự làm cho chính mình (Hc 24: 1-22), ông đã đồng hóa nó với các trước tác của Môsê: “Tất cả những điều ấy đều có trong sách Giao ước của Thiên Chúa Tối Cao, trong Lề Luật ông Môsê đã truyền, để các cộng đồng Giacóp nhận làm gia nghiệp “(Hc 24:23). Sau đó, Huấn ca giải thích đâu là kết quả nghiên cứu của ông về Lề Luật và hậu quả của những gì ông viết: ” Tôi sẽ làm cho lời dạy bảo rực sáng tựa bình minh, cho nó chiếu toả mãi tận chốn xa vời. Tôi sẽ tung gieo giáo huấn như lời của ngôn sứ, sẽ lưu truyền cho các thế hệ mai sau. Hãy xem: tôi vất vả đâu phải cho riêng mình, nhưng còn vì mọi người muốn tìm kiếm khôn ngoan “(Hc 24:32-34, xem 33:18). Sự khôn ngoan mà mọi người – ngày nay cũng như trong tương lai – có thể tìm thấy trong các trước tác của ông là kết quả của việc ông nghiên cứu Lề Luật và những gì Thiên Chúa đã làm cho ông biết trong các thử thách của cuộc sống (xem Hc 4:11,17 -18).

Tác giả dường như cung cấp chân dung của chính mình khi nói về “một người tận tụy với lề luật của Đấng Tối Cao và suy gẫm nó” (Hc 38:34) và ông viết: “Kẻ để hết tâm hồn suy gẫm luật Đấng Tối Cao thì không phải vậy. Người ấy truy tầm lẽ khôn ngoan nơi mọi bậc lão thành, không ngừng nghiên cứu các sấm ngôn” (Hc 39:1). Sau đó, ông tuyên bố kết quả của việc bước đi này: ” Nếu đẹp lòng Đức Chúa cao cả, người ấy sẽ dư đầy trí thông minh, ban phát lời khôn ngoan như mưa móc tràn trề, dùng lời kinh mà chúc tụng Đức Chúa” (Si 39:6). Việc thủ đắc sự khôn ngoan như thành quả của học hành nghiên cứu được nhìn nhận là hồng phúc của Thiên Chúa và dẫn đến lời cầu nguyện ngợi khen. Do đó, mọi điều được triển khai, nhằm một sự kết hợp sống động và liên tục với Thiên Chúa. Tác giả quả quyết, không chỉ cho bản thân mình, mà cho mọi người rằng những gì mà sự kính sợ Thiên Chúa và sự vâng phục Lề Luật giúp ta tiếp cận với khôn ngoan: “Điều đó, kẻ kính sợ Đức Chúa sẽ thi hành, và người tuân giữ Lề Luật sẽ đạt được khôn ngoan “(Hc 15:1). Trong phần cuối cùng của tác phẩm (Hc 44-50), Huấn ca bàn đến nhiều cách khác nhau trong truyền thống của dân mình, ca ngợi cha ông và mô tả hành động của Thiên Chúa phù trợ Israel, Đấng sử dụng sự trung gian của nhiều tác nhân nhân bản. Nhờ cách đọc lại này, ông cũng cho thấy những gì ông viết đã phát xuất ra sao từ mối liên hệ của ông với Thiên Chúa. Cách riêng, ông nói về Môsê: ” Người cho ông nghe thấy tiếng Người, dẫn ông vào trong đám mây dày đặc, và, diện đối diện, ban cho ông các điều răn, đó là luật ban sự sống và thông hiểu, để dạy cho Giacóp biết giao ước, cho Ítraen biết các quyết định của Người” (Hc 45:5). Tác giả đề cập đến nhiều tiên tri và tuyên bố về Isaia: “Ông được đầy thần khí, nên đã nhìn thấy trước những sự việc thời cuối cùng, và đã ủi an những người sầu khổ tại Xion”. (Hc 48:24).

Do đó, bằng cách suy ngẫm về Lề Luật và các Tiên tri, rồi lắng nghe Lời Thiên Chúa, tác giả của khôn ngoan đã kết hợp với Thiên Chúa, nhận được sự khôn ngoan và thủ đắc các nền tảng cần thiết cho tác phẩm của mình (xem Lời Tựa của cuốn sách Huấn Ca).

Kết luận của sách Huấn Ca mô tả nội dung của nó như “Cuốn sách này ghi lại một giáo huấn đầy khôn ngoan và hiểu biết” (Hc 50:27). Ông liên kết mối phúc với việc đánh giá này: “Phúc cho ai nghiền ngẫm những lời này! Ai ghi vào tâm khảm, ắt sẽ được khôn ngoan. Quả thật, nếu đem ra thực hành, họ sẽ nên kiên cường trong hết mọi hoàn cảnh. Bởi vì ánh sáng của Chúa sẽ chiếu soi đường nẻo họ đi”

(Hc 50:28-29). Mối phúc khuyên người ta suy gẫm và đem ra thực hành nội dung cuốn sách và hứa hẹn sự khôn ngoan và ánh sáng của Chúa: tất cả điều này chỉ khả hữu nếu cuốn sách phát xuất từ chính Thiên Chúa.

2.5 Kết luận

21. Sau khi tường trình các bản văn được chọn từ Cựu Ước, bây giờ chúng ta có thể phác thảo một tổng hợp. Các bản văn đã nghiên cứu, khác nhau về việc định ngày tháng của chúng, vị trí soạn tác của chúng, ngoài nội dung chuyên biệt và văn phong đặc thù của chúng, tuy nhiên trình bầy rất khớp một thông điệp căn bản duy nhất: Thiên Chúa nói với chúng ta. Thiên Chúa duy nhất và cùng một Thiên Chúa tìm kiếm con người, trong sự đa dạng và đa nguyên các tình huống lịch sử, Người nối vòng tay lớn với họ và nói chuyện với họ. Và thông điệp thần thiêng, vốn đa dạng tùy theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mạc khải, có xu hướng liên tục khơi dậy nơi con người một đáp ứng yêu thương. Ý hướng thần thiêng không đổi này “lấp đầy” các trước tác phát biểu về Thiên Chúa “bằng chính Thiên Chúa”. Ý hướng này làm chúng được linh hứng và gây linh hứng, nghĩa là có khả năng soi sáng và phát triển trí hiểu và sự nhạy cảm nơi các tín hữu. Con người, trong một chuyển động ngạc nhiên và vui mừng, ý thức được điều đó, hẳn sẽ tự hỏi: Vị Thiên Chúa khôn tả đang nói với tôi này sẽ còn khả năng ban cho tôi điều gì? Các tác giả Tân Ước, những người vốn là thành viên của dân Ítraen, biết “Các Trước Tác” của dân tộc họ và nhận ra chúng như các lời linh hứng phát xuất từ Thiên Chúa. Họ cho chúng ta thấy Thiên Chúa tiếp tục hành động nói của Người như thế nào, đến mức bày tỏ lời tối hậu và dứt khoát của Người bằng cách sai Con của Người xuống trần gian (Dt 1: 1-2).

3. Chứng từ của các bản văn được chọn trong Tân Ước

Chúng ta đã nhấn mạnh như một nét chuyên biệt trong các trước tác Tân Ước, cách chúng diễn tả mối liên hệ giữa các tác giả của chúng với Thiên Chúa qua trung gian độc hữu con người của Chúa Giêsu. Có một vị trí đặc biệt ở đây dành cho bốn Tin Mừng. Thực vậy, Hiến chế tín lý Dei Verbum nói đến “ưu thế xứng đáng của chúng, bao lâu chúng tạo thành chứng từ tuyệt vời cho đời sống và giáo huấn của Ngôi Lời nhập thể, Chúa Cứu Thế của chúng ta” (số 18). Chúng ta sẽ xét đến vai trò ưu tuyển này của các Tin mừng, và để làm điều này, sau phần giới thiệu để trình bày những gì chúng có chung, sẽ lần lượt bàn đến các Tin mừng nhất lãm, sau đó là Tin mừng của Thánh Gioan. Đối với các trước tác Tân Ước khác, chúng ta sẽ giữ lại các chủ đề quan trọng nhất cho chủ đề được bàn: Công vụ Tông đồ, các thư của Tông đồ Phaolô, thư cho người Do Thái và Sách Khải Huyền.

3.1 Bốn sách Tin Mừng

http://www.vietcatholicnews.net/pics/gospel.jpg Bốn sách Tin Mừng được phân biệt với mọi sách Thánh Kinh khác vì chúng đề cập trực tiếp đến “tất cả những gì Chúa Giêsu đã làm và dạy” (Cv 1:1), và trong đó, cùng một lúc, chúng trình bày việc Chúa Giêsu chuẩn bị các nhà truyền giáo cho nhiệm vụ truyền bá Lời Chúa mà Người đã mạc khải. Các Tin mừng chứng thực một cách đặc biệt nguồn gốc thần thiêng của bản văn của chúng, vì chúng trình bày chính con người của Chúa Giêsu và mối liên hệ của Người với Thiên Chúa, và vì chúng trình bày các Tông đồ, việc đào tạo các ngài và quyền bính đã được Chúa Giêsu phong ban cho các ngài.

a. Chúa Giêsu, đỉnh cao mạc khải của Thiên Chúa cho mọi dân tộc

Các Tin mừng trình bày giữa chúng một sự đa dạng thực sự trong các chi tiết của câu chuyện, và cả trong các định hướng thần học, nhưng chúng gặp nhau trong việc trình bày con người của Chúa Giêsu và thông điệp của Người. Chúng tôi đề nghị ở đây một tổng hợp làm nổi bật các khía cạnh chính.

Bốn Tin Mừng trình bày con người và câu chuyện của Chúa Giêsu như đỉnh cao của câu chuyện Thánh Kinh. Từ sự kiện này, chúng thường nhắc đến các trước tác Cựu Ước, được bản dịch sang tiếng Hy Lạp tức bản Bẩy Mươi biết đến nhưng kể cả các bản văn gốc bằng tiếng Do Thái và tiếng Aram của chúng nữa. Chúng ta hãy nhấn mạnh tầm quan trọng của nhiều mối liên kết được các sách Tin Mừng đề cập giữa Chúa Giêsu, các tổ phụ, Môsê và các tiên tri, những nhân vật mà kỷ niệm và ý nghĩa được chứa đựng trong các trước tác thánh thiêng của Cựu Ước.

Các Tin mừng chứng thực rằng Chúa Giêsu là sự hoàn tất, là sự thành tựu của mạc khải Thiên Chúa của Israel, của Đấng Thiên Chúa kêu gọi, dạy dỗ, trừng phạt và thường xây dựng lại Israel như là dân của Người, tách biệt khỏi các dân khác, nhưng được kêu gọi trở thành sự chúc phúc cho mọi dân tộc. Đồng thời, các Tin Mừng mở rộng một cách dứt khoát tính phổ quát của Cựu Ước và cho thấy: trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa tự mạc khải cho toàn thể nhân loại, thuộc mọi thời đại (xem Mt 28:20, Mc 14:9 Lc 24:47, Ga 4:42).

Bốn Tin Mừng – mỗi Tin theo một cách riêng – quả quyết rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, không những theo nghĩa tước hiệu thiên sai, mà như còn nói lên mối liên hệ, độc đáo và chưa từng có, với Cha trên trời, do đó vượt quá vai trò cứu rỗi và mạc khải của mọi con người nhân bản khác. Điều này được trình bầy một cách minh nhiên hơn trong Tin Mừng Gioan, một mặt trong lời mở đầu (Ga 1:1-18), mặt khác trong các chương liên quan đến Chúa phục sinh, trước hết lúc gặp gỡ Thánh Tôma (Ga 20:28), sau đó, trong quả quyết tối hậu về giá trị vô tận của cuộc đời và giáo huấn của Chúa Giêsu (Ga 21:25). Cũng cùng thông điệp này được tìm thấy trong Tin mừng Máccô dưới hình thức lồng chữ: ban đầu, ở đấy, người ta quả quyết rằng Chúa Giêsu là Chúa Kitô và là Con Thiên Chúa (Mc 1:1), và cuối cùng, người ta trích dẫn ở đấy lời chứng của viên bách quân Rôma về Chúa Giêsu bị đóng đinh: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15:39). Cùng một nội dung này đã được chứng thực bởi các Tin Mừng nhất lãm khác, với các hạn từ mạnh mẽ và minh nhiên, trong một lời cầu nguyện hân hoan mà Chúa Giêsu ngỏ cùng Thiên Chúa Cha của Người (Mt 11:25-27, Lc 10:21-22). Sử dụng các kiểu nói thực sự độc đáo, Chúa Giêsu không những phát biểu sự bình đẳng hoàn toàn và tình thân mật kết hợp Thiên Chúa Cha và chính Người trong tư cách Chúa Con, mà còn quả quyết rằng mối liên hệ này chỉ có thể được thừa nhận nhờ hành động mạc khải: chỉ có Chúa Con có thể mạc khải Chúa Cha, và chỉ có Chúa Cha mới có thể mạc khải Chúa Con.

Theo quan điểm văn chương, các sách Tin Mừng chứa đựng các tình tiết tự sự và các diễn từ giáo huấn, nhưng trong thực tế, ý nghĩa tối hậu của chúng có liên quan với việc truyền tải lịch sử mạc khải và cứu rỗi. Chúng trình bày cuộc sống của Con Thiên Chúa nhập thể, Đấng, từ thân phận khiêm nhường của một cuộc sống bình thường, và trải qua các sỉ nhục tàn khốc của khổ nạn và sự chết, cuối cùng đạt được sự tôn vinh trong vinh quang. Nhờ cách này, các sách Tin mừng, khi truyền tải mạc khải của Thiên Chúa nơi Con của Người là Chúa Giêsu, đã mặc nhiên cho thấy nguồn gốc thần thiêng của bản văn của chúng.

b. Sự hiện diện và việc đào tạo các nhân chứng tận mắt và các thừa tác viên lời Chúa

24. Tất cả các tình tiết Tin mừng đều tập trung vào Chúa Giêsu, Đấng, tuy nhiên, được bao quanh bởi các môn đệ. Thuật ngữ “môn đệ” dùng để chỉ nhóm người theo chân Chúa Giêsu, mà số lượng không được xác định. Mọi sách Tin mừng đều nói chuyên biệt tới “nhóm mười hai”, một nhóm được chọn để đồng hành với Chúa Giêsu trong suốt thời gian thừa tác của Người, một nhóm mà giá trị có tầm quan trọng lớn. Nhóm mười hai họp thành một cộng đồng, được xác định một cách chính xác bằng tên riêng của những người lập thành ra nó. Mọi sách Tin mừng đều tường trình rằng nhóm này được Chúa Giêsu chọn lựa (Mt 10:1-4, Mc 3:13-19, Lc 6:12-16, Ga 6:70). Mười hai người này theo Người để trở thành nhân chứng tận mắt cho thừa tác vụ của Người, và đảm nhận vai trò những người được sai đi với trọn quyền hành (Mt 10:5-8, Mc 3:14-15; 6:7, Lc 9:1-2, Ga 17:18; 20:21). Con số họ tượng trưng cho mười hai chi tộc Israel (Mt 19:28, Lc 22:30) và biểu thị sự trọn vẹn của dân Thiên Chúa, một điều cần đạt được qua sứ mệnh truyền giảng Tin Mừng của họ cho toàn thế giới. Thừa tác vụ của họ không những chỉ truyền tải sứ điệp của Chúa Giêsu cho mọi người trong thời đại sắp tới, mà còn nhờ việc chu toàn lời tiên tri của Isaia về sự xuất hiện của Đấng Emanuen (Is 7,14), nó làm cho sự hiện diện của Chúa Giêsu trên thế giới được kéo dài, phù hợp với lời hứa của Người: “Và Thầy ở cùng chúng con mỗi ngày cho đến tận cùng thế giới” (Mt 28,20). Các sách Tin mừng, tức các sách chứng thực thành phần chuyên biệt của Nhóm Mười Hai, cho thấy một cách cụ thể nguồn gốc của nhóm này, nơi Chúa Giêsu và nơi Thiên Chúa.

3.2 Các Tin Mừng nhất lãm

http://www.vietcatholicnews.net/pics/synoptic%20gospels1.jpg

Các Tin Mừng nhất lãm trình bày câu chuyện về Chúa Giêsu theo cách không để chỗ cho quan điểm của tác giả của tường thuật, cũng như việc mỗi vị trình bầy về con người, cuộc đời và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Khi mô tả các mối liên hệ phong phú và đa dạng của Chúa Giêsu với Thiên Chúa, các sách Tin mừng mặc nhiên mô tả mối liên hệ của chúng với Thiên Chúa – nguồn gốc thần thiêng của chúng – và điều này luôn qua sự trung gian của con người và hành động mạc khải và cứu rỗi của Chúa Giêsu.

Chỉ có thánh Luca là cung cấp phần dẫn nhập vào hai cuốn trong bộ tác phẩm của ngài (Lc 1:1-4, xem Cv 1:1), dựa câu chuyện của ngài trên các giai đoạn trước đó của truyền thống tông đồ. Như thế, ngài dự kiến công trình của ngài bên trong diễn trình các tông đồ làm chứng cho Chúa Giêsu, và lịch sử cứu độ của Người, một chứng tá đã bắt đầu với các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu (“nhân chứng tận mắt”), được công bố trong truyền giảng tông đồ đầu tiên (“các thừa tác viên của ‘Lời’”), và bây giờ được tiếp diễn trong một hình thức mới qua Tin Mừng Luca. Nhờ cách này, Thánh Luca cho thấy một cách minh nhiên mối liên hệ giữa Tin mừng của ngài và Chúa Giêsu Đấng mạc khải Thiên Chúa, và ngài khẳng định thế giá công trình của ngài về vấn đề mạc khải.

Tại trung tâm của mọi Tin mừng là con người của Chúa Giêsu, được quan niệm theo các mối liên hệ rất nhiều và đặc thù của Người với Thiên Chúa, các liên hệ tự biểu lộ trong các biến đời sống Chúa Giêsu và trong các hoạt động của Người, nhưng cả trong vai trò của Người trong lịch sử cứu độ. Phần đầu của chương này sẽ đề cập đến con người và hoạt động của Chúa Giêsu. Phần thứ hai sẽ xem xét vai trò của Người trong lịch sử chung của Thiên Chúa và của nhân loại.

a. Chúa Giêsu và mối liên hệ đặc thù của Người với Thiên Chúa.

Các sách Tin Mừng xem xét mối liên hệ chuyên biệt nối kết Chúa Giêsu với Thiên Chúa theo nhiều cách khác nhau. Chúng trình bày Người như:

a / Chúa Kitô, Con Thiên Chúa hiện hữu trong một mối liên hệ đặc quyền và độc đáo với Chúa Cha.

b / Đấng đầy Thần khí của Thiên Chúa

c / Đấng hành động với quyền năng của Thiên Chúa

d / Đấng dạy dỗ với uy thế của Thiên Chúa

e / Đấng mà mối liên hệ với Chúa Cha được mạc khải và xác nhận dứt khoát bằng cái chết và sự phục sinh của Người.

Chúa Giêsu Con Duy Nhất của Chúa Cha

http://www.vietcatholicnews.net/pics/jesus%20son%20of%20god.jpg Các Tin mừng về thời thơ ấu, trong Thánh Mátthêu và Thánh Luca, đề cập rõ ràng đến nguồn gốc thần thiêng của Chúa Giêsu (Mt 1:20, Lu-ca 1:35) và mối liên hệ độc đáo của Người với Chúa Cha (Mt 2:15, 49).

Ba Tin Mừng nhất lãm đề cập đến, như những biến cố quan trọng trong cuộc đời của Chúa Giêsu, các tình tiết trong đó Người trực tiếp nói chuyện với Cha của Người, và trong đó, về phần Chúa Cha, Người xác nhận nguồn gốc thần thiêng của danh tính và sứ mệnh Chúa Con.

Trong tất cả các Tin Mừng nhất lãm, thừa tác vụ công khai của Chúa Giêsu được dẫn đầu bởi việc Người chịu phép rửa và cuộc thần hiện gây ấn tượng. Các tầng trời mở ra, Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu và tiếng nói của Thiên Chúa tuyên bố Người là Con yêu dấu của Mình (Mt 3:13-17, Mc 1:9-11, Lc 3:21-22). Sau biến cố có thể nói là đăng quang này, các Tin mừng cho thấy Người được Thánh Thần dẫn vào sa mạc (Mt 4:1-11, Mc 1:12-13, Lc 4:1-13) để đương đầu với Satan (do đó gợi lên việc Israel lưu tại sa mạc), sau đó Người bắt đầu thừa tác vụ ở Galilê.

Một cuộc thần hiện có tính xác định khác – việc hiển dung của Chúa Giêsu – xẩy đến vào cuối thừa tác vụ của Người ở Galilê, khi Người lên đường đi Giêrusalem, lúc cận kề biến cố vượt qua. Như lúc chịu phép rửa, Thiên Chúa Cha tuyên bố: “Đây là Con yêu dấu của Ta” (Mt 17:5 tt.) và nhấn mạnh một cách minh nhiên quyền bính thuộc về Người: “Hãy lắng nghe Người!”. Nhiều yếu tố của lần thần hiện này gợi lại các biến cố Sinai: đỉnh núi, sự hiện diện của Môsê và Êlia, sự kiện con người của Chúa Giêsu tỏa sáng, sự hiện diện của đám mây che phủ Người bằng bóng râm của nó. Bằng cách này, Chúa Giêsu và sứ mệnh của Người được nối kết với sự mạc khải của Thiên Chúa tại Sinai và lịch sử cứu độ của Israel.

Tin Mừng Mátthêu sử dụng một tước hiệu không có tương đương để đặt tên và mạc khải Chúa Giêsu là ai. Được gắn với tên riêng của Người – “Giêsu” – mà thánh nhân diễn giải bằng cụm từ: “Vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1:21), Thánh Mátthêu còn nhắc đến tước hiệu “Emmanuen” (Mt 1: 23), có nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Is 7:14). Bằng cách này, tin mừng gia khẳng định một cách minh nhiên sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu, và nhấn mạnh thẩm quyền do đó mà ra đối với việc giảng dạy của Người cũng như các hành vi khác của thừa tác vụ của Người. Tước hiệu “Emmanuen” xuất hiện trở lại, theo một nghĩa nào đó, trong Mt 18:20, nơi Chúa Giêsu nói về sự hiện diện của Người giữa cộng đồng (“Khi hai hoặc ba người tập hợp nhân danh Thầy, Thầy ở đó giữa họ”) và trong Mt 28: 20 với lời hứa tối hậu của Chúa Giêsu phục sinh: “Và Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến ngày tận thế”.

Chúa Giêsu tràn đầy Thánh Thần Thiên Chúa

Trong bối cảnh phép rửa, các Tin Mừng nhất lãm cùng ghi lại việc Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu (Mt 3:16, Mc 1:10, Lc 3:22) và xác nhận hoạt động của Chúa Thánh Thần trong các hành vi của Người (xem Mt 12:28, Mc 3:28-30). Đặc biệt, Thánh Luca nhiều lần nhắc đến Thánh Thần, Đấng thúc đẩy Chúa Giêsu trong sứ mệnh giảng dạy và chữa bệnh của Người (Lc 4:1,14,18-21). Cũng tin mừng gia này lưu ý rằng, trong khoảnh khắc hết sức cảm xúc, Chúa Giêsu “hân hoan nhẩy mừng dưới hành động của Chúa Thánh Thần” (Lc 10:21), và nói: “Tất cả đã được Cha tôi ban cho tôi. Không ai biết Con là ai, ngoài Cha; và không ai biết Cha là ai ngoài Con và kẻ Người muốn mạc khải “(Lc 10:22, xem thêm Mt 11:25-27).

Chúa Giêsu hành động bằng quyền năng Thiên Chúa

27. Mối liên hệ đặc biệt giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa cũng được biểu lộ trong các vụ trừ qủy và chữa bệnh. Trong ba Tin Mừng nhất lãm, và nhất là trong Máccô, các vụ trừ qủy là dấu ấn đặc biệt trong sứ mệnh của Chúa Giêsu. Quyền năng của Chúa Thánh Thần hiện diện trong Chúa Giêsu cũng có thể đánh đuổi thần giam hãm tìm cách tiêu diệt các hữu thể nhân bản (thí dụ, Mc 1: 21-28). Cuộc giáp mặt của Chúa Giêsu với Satan, diễn ra trong những lần cám dỗ khi Chúa Giêsu khởi đầu thừa tác vụ của Người, tiếp diễn cách này, trong suốt đời Người, trong cuộc đấu tranh chiến thắng chống lại các lực lượng xấu xa từng gây ra đau khổ cho con người. Cùng những sức mạnh ma quỷ này được trình bày như biết rõ một cách lo lắng danh tính của Chúa Giêsu như là Con Thiên Chúa (xem, thí dụ, Mc 1:24; 3:11; 5:7). “Sức mạnh” từ Chúa Giêsu phát ra là sức mạnh chữa lành (x. Mc 5:30). Những câu chuyện như vậy có rất nhiều trong mỗi Tin Mừng nhất lãm. Khi các đối thủ của Chúa Giêsu buộc tội Người nhận được sức mạnh từ Satan, Người đáp lại bằng một tuyên bố tổng hợp liên kết các hành động lạ lùng của Người với sức mạnh của Chúa Thánh Thần và với sự hiện diện của triều đại Thiên Chúa: ” Còn nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Mt 12:28, xem Lc 11:20).

Sự hiện diện của quyền năng Thiên Chúa trong chính Chúa Giêsu thể hiện một cách đặc biệt trong các tình tiết trong đó, quyền bính của Người cũng được triển khai đối với các sức mạnh tự nhiên. Những câu chuyện dẹp yên bão tố và đi trên nước đều tương đương với các lần thần hiện, trong đó Chúa Giêsu thi hành quyền bính thần thiêng đối với lực lượng hỗn loạn của biển, và khi đi trên mặt nước, Người công bố tên thần thiêng (egô eimi) như tên riêng của Người (xem Mt 14:27, Mc 6:50). Trong câu chuyện của Tin Mừng Mátthêu, các môn đệ tham dự phép lạ đã xúc động đến độ tuyên xưng danh tính của Chúa Giêsu như Con Thiên Chúa (Mt 14:33). Cũng vậy, những câu chuyện về việc hóa bánh ra nhiều cho thấy sức mạnh đặc biệt và uy quyền của Chúa Giêsu (x. Mt 14:13-21, Mc 6:32-44, Lc 9:10-17, xem Mt 15: 32-39, Mc 8:1-10). Sự hóa nhiều các ổ bánh có thể liên kết với ơn Thiên Chúa ban manna trong sa mạc, và với thừa tác vụ tiên tri của Elia và Elisa. Đồng thời, bằng những lời nói và cử chỉ trên các ổ bánh, và bằng sự dư thừa các mẩu bánh còn lại, đã có sự ám chỉ đến việc cử hành Thánh Thể của cộng đồng Kitô giáo, trong đó quyền năng cứu độ của Chúa Giêsu được triển khai một cách bí tích.

Chúa Giêsu giảng dạy với uy quyền của Thiên Chúa

Các Tin Mừng nhất lãm nói rằng Chúa Giêsu giảng dạy với thẩm quyền đặc biệt. Khi hiển dung, giọng nói từ trời cho biết rõ: “Đây là Con yêu dấu của Ta: hãy lắng nghe Người!” (Mc 9:7, Mt 17:5, Lc 9:35). Trong hội đường Caphanaum, các nhân chứng của bài giáo huấn đầu tiên và phép trừ quỷ đầu tiên của Chúa Giêsu kêu lên: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh! ” (Mc 1:27). Trong Mt 5:21-48, Chúa Giêsu, một cách đầy uy quyền, đặt giáo huấn của Người mâu thuẫn với các yếu tố chính của Lề Luật: ” “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…” Người cũng tuyên bố là “chủ của ngày Sabát” (Mt 12:8, Mc 2:28, Lc 6:5). Thẩm quyền mà Chúa Giêsu nhận được từ Thiên Chúa cũng bao trùm cả việc tha thứ tội lỗi (Mt 9:6, Mc 2:10, Lc 5:24).

Cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu là sự mạc khải cuối cùng và như xác nhận mối liên hệ độc đáo của Người với Thiên Chúa

28. Việc đóng đinh Chúa Giêsu, một định mệnh cực kỳ tàn khốc và ô nhục, dường như xác nhận ý kiến của những kẻ thù của Người, những người coi Người là kẻ phạm thượng (Mt 26:65, Mc 14:63). Họ yêu cầu người bị đóng đinh từ trên thập giá bước xuống và do đó chứng minh được cao ngạo cho mình là Con Thiên Chúa (Mt 27:41-43, Mc 15:31-3). Cái chết trên Thập giá dường như chứng minh rằng những tuyên bố ngạo mạn và hành động của Người bị Thiên Chúa bác bỏ (recusé). Nhưng theo các sách Tin mừng, Chúa Giêsu, khi hấp hối, đã phát biểu sự kết hợp mật thiết của Người với Thiên Chúa Cha, Đấng mà Người chấp nhận thánh ý (Mt 26:39. 42; Mc 14:36; Lc 22:42). Và Thiên Chúa Cha, khi phục sinh Chúa Giêsu từ cõi chết (Mt 28:6; Mc 16:6; Lc 24:6.34) chứng tỏ Người chấp thuận hoàn toàn và dứt khoát con người của Chúa Giêsu, trong tất cả các hoạt động và các tuyên bố của Người. Bất cứ ai, đã tin vào sự phục sinh của Chúa Giêsu bị đóng đinh, thì không thể nghi ngờ mối liên hệ độc đáo của Người với Thiên Chúa Cha, cũng như tính hợp lệ của toàn bộ thừa tác vụ của Người.

b. Chúa Giêsu và vai trò của Người trong lịch sử cứu độ

29. Kinh thánh của dân Israel được coi như câu chuyện về lịch sử của Thiên Chúa với dân tộc này và như Lời Thiên Chúa. Các Tin Mừng nhất lãm cho thấy mối liên hệ kết hợp Chúa Giêsu với Thiên Chúa, và giải thích lịch sử của Người như sự nên trọn của Kinh thánh. Mối liên hệ đặc biệt kết hợp Chúa Giêsu với Thiên Chúa cũng được diễn dịch trong sự trở lại của Chúa Giêsu vào lúc tận cùng thời gian.

Sự nên trọn của Sách Thánh

Điều quan trọng cần lưu ý là, trong tất cả những điều Người nói, không những Chúa Giêsu hoàn tất lời dạy của Môsê và các tiên tri, mà Người còn tự trình bầy Người như người đích thân hoàn tất các Sác Thánh. Thánh Mátthêu (Mt 2:15) nhận xét rằng từ thời thơ ấu, Chúa Giêsu đã lặp lại hành trình của Israel “từ Ai Cập” (xem Hôsê 11: 1). Được tràn đầy Chúa Thánh Thần (Lc 4:15), sau khi đọc Isaia ở hội đường Nadarét, Người đã đóng sách lại và tuyên bố: “Hôm nay đoạn Kinh thánh này mà anh em vừa nghe đã nên trọn” (Lc 4:21). Cùng cách đó, Người gửi lời nói với Thánh Gioan Tẩy Giả đang ở trong tù rằng những gì các đặc phái viên của thánh nhân thấy đã hoàn tất toàn diện các lời tiên tri về Đấng Mêsia của Isaia (Mt 11:2-6 nối kết Is 26:19; 29:18-19; 35:5; 61:1). Lời mở đầu có tính lên chương trình của Tin mừng Máccô, trong những câu đầu tiên, đã cung cấp một bản tóm tắt về căn tính của Chúa Giêsu: không những ngay từ dòng đầu tiên, nó đã nói đến “Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (Mc 1:1) nhưng, trong những câu sau đây, nó cũng đã công bố chính Chúa trong con người của Người, mà việc xuất hiện đã được chuẩn bị, theo chứng từ của các tiên tri (Mc 1: 2-3, tự nhắc đến Is 23:20; Ml 3:1; Is 40: 3). Nếu các Tin mừng gia trình bày Người một cách nhất quán như là hậu duệ của Đavít, thì người ta cũng nói về Người, trong những điều liên quan đến khôn ngoan, Người còn vĩ đại hơn Salômôn (Mt 12:41; Lc 11:32), vĩ đại hơn Đền thờ (Mt 12:6), hoặc thậm chí vĩ đại hơn Giôna (Mt 12:41, Lc 11:32). Trong bài diễn văn trên núi, Người lập luật với một thẩm quyền vượt quá cả thẩm quyền của Môsê (xem Mt 5:21.27.33.38.43).

Sự hoàn tất lịch sử và việc trở lại vinh thắng của Chúa Giêsu

Theo các Tin Mừng nhất lãm, mối liên hệ rất mật thiết của Chúa Giêsu với Thiên Chúa được biểu lộ không những ở sự kiện cuộc đời của Chúa Giêsu là sự hoàn tất của lịch sử Thiên Chúa với Israel, mà còn ở sự kiện toàn bộ lịch sử được đem đến chỗ hoàn tất của nó bằng việc trở lại của Chúa Giêsu trong vinh quang của Người. Trong các ngôn từ khải huyền, (Mt 24-25, Mc 13, Lc 21), Người chuẩn bị cho các môn đệ của Người trước các day dắt của lịch sử sau khi Ngài chết và sống lại, và Người khuyên họ hãy trung thành và sẵn sàng chờ đợi Người trở lại. Từ nay, họ sống trong một thời gian giữa việc hoàn tất lịch sử trước đó, được hiện thực hóa bởi công việc và cuộc đời của Chúa Giêsu, và sự hoàn tất dứt khoát của lịch sử vào lúc tận cùng mọi thời gian. Thời gian ỡ giữa này là thời gian của cộng đồng những người tin vào Chúa Giêsu, thời của Giáo hội. Trong thời trung gian này, các Kitô hữu có sự bảo đảm này là Chúa phục sinh luôn ở bên cạnh họ (Mt 28:20), đặc biệt qua sự trung gian của quyền năng Chúa Thánh Thần (Lc 24:49, xem Cv. 1: 8). Họ cũng có nhiệm vụ loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu cho mọi người (xin xem Mt 26:13; Mc 13:10; Lc 24:47), để biến họ trở thành môn đệ của Chúa Giêsu (Mt 28:19) và sống theo Chúa Giêsu. Toàn bộ cuộc sống của họ, và toàn bộ thời gian này nhận làm chân trời việc hoàn tất lịch sử, một lịch sử sẽ trở thành sự thật trong việc trở lại vinh thắng của Chúa Giêsu.

c. Kết luận

30. Tin mừng nhất lãm cho thấy mối liên hệ đặc biệt kết hợp Chúa Giêsu với Thiên Chúa trong mọi chiều kích của cuộc sống và hoạt động của Người. Chúng cũng cho thấy ý nghĩa đặc biệt của cuộc đời Chúa Giêsu trong việc hoàn tất lịch sử chung của Thiên Chúa và dân Israel, cũng như trong sự hoàn tất dứt khoát toàn bộ lịch sử. Chính trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa tự mạc khải Người và mạc khải dự án cứu rỗi của Người cho toàn thể nhân loại, chính trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa nói với mọi con người nhân bản, và chính nhờ Chúa Giêsu mà họ được dẫn tới Thiên Chúa và kết hợp với Người, nhờ Chúa Giêsu họ có được ơn cứu rỗi. Khi trình bày Chúa Giêsu, Lời của Thiên Chúa, chính các Tin mừng trở thành Lời của Thiên Chúa. Bản chất Kinh thánh của Israel là nói về Thiên Chúa một cách có thẩm quyền, và dẫn tới Thiên Chúa một cách bảo đảm. Đặc điểm này cũng là bản chất của các Tin mừng, và dẫn tới việc ra đời của qui điển các trước tác Kitô giáo có liên hệ với qui điển Kinh thánh Do Thái.

3.3 Tin Mừng Gioan

31. Lời mở đầu của Tin mừng Gioan kết thúc bằng lời quả quyết long trọng: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết”(Ga 1:18). Lời trình bày này về bản tính của Chúa Giêsu (Con duy nhất, Thiên Chúa kết hợp mật thiết với Chúa Cha) và khả năng độc đáo biết và mặc khải Thiên Chúa không chỉ được chứng thực ở đầu Tin Mừng mà thôi; nhưng, khi cấu thành một luận đề căn bản, nó còn được xác nhận bởi trọn bộ công trình của Thánh Gioan: ai bước vào liên hệ với Chúa Giêsu và cởi mở đón nhận lời Người đều nhận được từ Người sự mặc khải về Thiên Chúa Cha. Cũng một cách như các Tin Mừng khác, Tin Mừng thứ tư nhấn mạnh đến việc hoàn tất Kinh thánh bằng công trình của Chúa Giêsu, và trình bày nó như một thành phần tạo nên kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Nhưng một đặc điểm riêng của Tin Mừng Gioan là việc mô tả một số đặc điểm trong mối liên hệ đặc biệt kết hợp tin mừng gia với Chúa Giêsu:

Chiêm ngưỡng vinh quang của người Con duy nhất

Chứng từ minh nhiên tận mắt

Giáo huấn của Thần Chân lý cho các nhân chứng

Những đặc điểm chuyên biệt trên, các đặc điểm nối kết tin mừng gia với con người của Chúa Giêsu cách thân mật hơn, có tác dụng nhấn mạnh nguồn gốc thần thiêng của Tin Mừng của ngài. Chúng ta hãy khai triển các đặc điểm chuyên biệt này.

a.Chiêm ngưỡng vinh quang của Con duy nhất

http://www.vietcatholicnews.net/pics/john2.jpg

Lời mở đầu viết rằng: ” Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được chiêm ngưởng vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1:14). Sau khi đã quả quyết việc nhập thể của Ngôi Lời và việc Người bước vào trong nhân loại, trở thành nơi ở dứt khoát của Thiên Chúa giao ước, bản văn bỗng nhiên nói về một cuộc gặp gỡ bản thân và sâu sắc với Ngôi Lời nhập thể. Trong các bản văn Gioan, “chiêm ngưỡng, nhìn thấy” không chỉ một hành động nhất thời, hời hợt, mà là một hành động nhìn mãnh liệt và lâu dài, nối kết với việc suy niệm, cũng như sự hiểu biết sâu sắc và gắn bó với đức tin. Gioan 11:45 đề cập đến đối tượng trực tiếp của chiêm ngưỡng: “những gì Người đã làm”, nghĩa là sự phục sinh Ladarô, và nhắc đến hậu quả của việc này: đức tin vào Chúa Giêsu. Ga 1:14b giải thích kết quả của việc “nhìn thấy”, chiêm ngưỡng này: sự thấu hiểu đầy đức tin, việc thừa nhận Chúa Con duy nhất phát sinh từ Chúa Cha (1 Ga 1:1; 4:14). Do đó, đối tượng chiêm ngưỡng là Chúa Giêsu, con người và hoạt động của Người, vì, trong thời gian ở dưới thế, Ngôi Lời của Thiên Chúa trở nên hữu hình đối với con người.

Tác giả tự bao gồm mình trong nhóm các nhân chứng chăm chú (“chúng tôi”), những người, sau khi chiêm ngưỡng công trình của Chúa Giêsu, đã đạt được Đức tin vào Người, như Con duy nhất của Thiên Chúa Cha. Chứng từ tận mắt của tin mừng gia và đức tin của ngài vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, là nền tảng trước tác của ngài. Có thể diễn dịch một cách gián tiếp rằng trước tác này phát xuất từ Chúa Giêsu, và do đó xuất phát từ Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhấn mạnh tới sự kiện này là Thánh Gioan là thành viên của một nhóm các nhân chứng được đức tin cư ngụ. Kết luận đầu tiên của Tin mừng thứ tư (Ga 20: 30-31) cho phép nhận diện nhóm này. Tin mừng gia minh nhiên nói tới công trình của mình (“cuốn sách này”) và “những dấu lạ” được kể ở đấy. Ngài khẳng định rằng Chúa Giêsu đã làm những điều đó “trước sự hiện diện của các môn đệ”. Như thế, những người này tự tỏ ra mình là nhóm nhân chứng tận mắt mà tác giả của Tin mừng thứ tư vốn thuộc về.

b. Chứng từ minh nhiên tận mắt

Hai lần, Tin mừng gia minh nhiên nhấn mạnh rằng ngài là nhân chứng tận mắt của những gì ngài viết. Thực vậy, chúng ta đọc trong phần kết luận của Tin mừng: “Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực” (Ga 21: 24). Một nhóm (“chúng tôi”) trình bày người môn đệ – được nhận diện như nhân vật chính của câu chuyện cuối cùng – như một nhân chứng đáng tin cậy và là tác giả của toàn bộ tác phẩm. Nó nói tới người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến (xin xem Ga 21:20), người, trong các dịp khác, cũng là nhân chứng cho hành động của Người, cho sự gần gũi đặc biệt của ngài với Chúa Giêsu (x. Ga 13:23; 19:26; 20:2; 21:7). Theo cách này, người ta xác nhận rằng Tin Mừng này phát xuất từ Chúa Giêsu và từ chính Thiên Chúa. Những người tuyên bố “chúng tôi biết” (Ga 21:24) muốn phát biểu ý thức cho rằng mình đủ điều kiện để đánh giá như vậy. Biểu thức này cấu thành một hành động nhận ra, tiếp nhận và đề xuất bản văn này từ phía cộng đồng tín hữu.

Trong một đoạn khác, nhân chứng tận mắt được giải thích về sự trào nước và máu sau cái chết của Chúa Giêsu: “Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (Ga 19:35). Ở đây, các khái niệm “nhìn thấy”, “làm chứng”, “sự thật” và “tin ” có tính quyết định. Nhân chứng tận mắt khẳng định sự thật của chứng từ mình, trong đó, ngài ngỏ với một cộng đồng (“anh em”), khuyến khích họ chia sẻ đức tin của ngài (Ga 20:31; 1 Ga 1:1-3). Chứng từ này liên quan không những các sự kiện đã xảy ra, mà cả ý nghĩa của chúng, do hai trích dẫn từ Cựu Ước cung cấp (Ga 19: 36-37). Nhờ bối cảnh, chúng ta biết rằng nhân chứng tận mắt là môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến, người đứng gần thập giá của Chúa Giêsu, và là người mà Chúa Giêsu đã nói với (Ga 19:25-27). Do đó, khi đề cập chuyên biệt đến cái chết của Chúa Giêsu, Ga 19:35 nhấn mạnh điều Ga 21:24 phát biểu cho toàn bộ các tường thuật của Tin Mừng thứ tư: Tin Mừng này được viết bởi một tác giả, nhờ kinh nghiệm trực tiếp và nhờ đức tin, vốn được kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu và với Thiên Chúa, và truyền đạt chứng từ của ngài cho một cộng đồng các tín hữu có cùng đức tin như mình.

c. Giáo huấn của Thần Chân lý cho các nhân chứng.

Chứng từ của người môn đệ được làm cho khả hữu là nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần. Trong các phát biểu giã biệt (Ga 14-16), Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu” (Ga 15: 26-27). Các môn đệ là các nhân chứng tận mắt cho mọi hoạt động của Chúa Giêsu “ngay từ đầu”. Nhưng chứng từ đức tin, 1 chứng từ khiến chúng ta tin vào Chúa Giêsu như Đấng Kitô và Con Thiên Chúa (Ga 20,31), và được ban cho bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần, Đấng vốn phát sinh từ Chúa Cha và được Chúa Giêsu sai đến, chứng từ ấy tạo nên nơi các môn đệ một sự kết hợp mãnh liệt với Thiên Chúa. Thế giới không thể tiếp nhận Chúa Thánh Thần (xem Ga 14:17), nhưng các môn đệ tiếp nhận Người vì sứ mệnh của họ trong thế giới (Ga 17:18). Chúa Giêsu giải thích Chúa Thánh Thần đã làm chứng cho Người cách nào: “Người sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14:26); “Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16:13). Công trình của Chúa Thánh Thần hoàn toàn qui chiếu vào hoạt động của Chúa Giêsu và có mục tiêu dẫn đến sự thấu hiểu sự thật luôn luôn sâu sắc hơn, nghĩa là thấu hiểu mặc khải của Thiên Chúa mà Chúa Cha đã làm cho khả hữu bởi Chúa Giêsu (xem Ga 1:17-18). Chứng từ về Chúa Giêsu bởi bất cứ môn đệ nào chỉ trở nên “hữu hiệu” nhờ hành động của Chúa Thánh Thần. Điều nhận xét tương tự cũng có giá trị đối với chính Tin Mừng thứ tư, một tin mừng tự trình bày mình như chứng từ viết của người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến.

http://www.vietcatholicnews.net/pics/240px-ApostleFedorZubov.jpg3.4 Công vụ tông đồ

34. Công vụ tông đồ được gán cho cùng một tác giả như Tin mừng Luca (x. Lc 1:14, Cc 1:1). Thánh Luca minh nhiên đề cập như là các nguồn Tin Mừng của ngài những người “đã được chứng kiến tận mắt ngay từ đầu và đã phục vụ lời Chúa” (Lc 1:2), do đó gợi ý cho thấy Tin Mừng của ngài phát xuất từ Chúa Giêsu, Đấng mặc khải tối hậu và tối cao của Thiên Chúa Cha. Ngài không trình bày cùng một cách như thế các nguồn của sách Công vụ, cũng không nói tới nguồn gốc thần thiêng của nó. Nhưng người ta có thể nhận thấy, một mặt, tên trong danh sách các Tông đồ giống hệt như trong Công vụ 1:13 và trong Lc 6:14-16 (trừ Giuđa), và, mặt khác, trong sách Công vụ, đặc điểm của họ như các nhân chứng tận mắt được nhấn mạnh (xem Công vụ 1: 21-22; 10: 40-41), cũng như sứ mệnh của họ làm các thừa tác viên của Lời Chúa (Công vụ 6: 2; xem 2:42). Do đó, Thánh Luca mô tả trong Công vụ các hoạt động của những người được ngài nói đến ở Lk 1:2, do đó là những người có thể được coi là nguồn gốc của cả hai tác phẩm của ngài (Tin mừng Luca và Công vụ).

Chúng ta có thể cho rằng Thánh Luca đã được thông tri về các hoạt động của các ngài (vốn là chủ đề của sách Công vụ) với cùng sự quan tâm (x. Lc 1:3) như lúc ngài tìm tòi – qua các trung gian – về công trình của Chúa Giêsu.

Do đó, đối với nguồn phát sinh sách Công vụ Tông đồ, dữ kiện căn bản là mối liên hệ bản thân và trực tiếp với Chúa Giêsu của các nhân chứng tận mắt và các thừa tác viên của Lời Chúa này. Mối liên hệ của họ với Chúa Giêsu xuất hiện đặc biệt trong các ngôn từ và hành động của họ, trong công trình của Chúa Thánh Thần và trong việc giải thích Kinh thánh. Những yếu tố khác nhau chứng thực nguồn gốc thần thiêng của sách Công vụ giờ đây được bày tỏ rõ ràng.

a. Mối liên hệ bản thân và trực tiếp của các Tông đồ với Chúa Giêsu

Sách Công vụ kể lại việc loan báo Tin Mừng của các Tông đồ, đặc biệt là của Thánh Phêrô và Thánh Phaolô. Trong phần đầu của cuốn sách, Thánh Luca trình bày danh sách các vị, với Thánh Phêrô và mười tông đồ khác (xem Công vụ 1:13). Mười một vị này tạo thành hạt nhân của cộng đồng được Chúa Phục sinh hiện ra (x. Lc 24: 9.33) và đại diện cho cây cầu nối thiết yếu giữa Tin Mừng Luca và sách Công vụ (xem Công vụ 1:13.26).

Danh tính của các tên giữa danh sách Luca 6:14-16 và Công vụ 1: 13 tìm cách xác nhận mối liên hệ bản thân lâu bền và thâm hậu vốn nối kết mỗi Tông đồ với Chúa Giêsu. Mối liên hệ này tạo nên một đặc ân được ban cho họ trong lúc sinh thời của Chúa Giêsu và giúp họ trở thành những người chủ đạo của sách Công vụ. Các Tông đồ vẫn là những người đối thoại và ngồi cùng bàn của Chúa Giêsu trước biến cố Thăng thiên (Công vụ 13: 1-4). Người hứa với các vị sức mạnh của Chúa Thánh Thần, do đó định cho họ trở thành các chứng nhân của Người “cho đến tận cùng trái đất” (Cc 1:8). Toàn bộ các yếu tố này kết hợp để làm cho sách Công vụ được coi là phát xuất từ Chúa Giêsu và từ Thiên Chúa.

Tương tự như vậy, Thánh Phaolô, nhân vật chính của phần thứ hai của sách Công vụ, được đặc trưng hóa bằng mối liên hệ bản thân và trực tiếp của ngài với Chúa Giêsu. Cuộc gặp gỡ của ngài với Chúa phục sinh được thuật lại và làm nổi bật ba lần (Công vụ 9: 1-22; 22:3-16; 26:12-18). Chính Thánh Phaolô tuyên bố rõ ràng nguồn gốc thần thiêng của Tin Mừng của ngài: “Vì không có ai trong loài người đã truyền lại hay dạy cho tôi Tin Mừng ấy, nhưng là chính Đức Giêsu Kitô đã mặc khải” (Gl 1:12). Các phần của sách sử dụng chữ “chúng ta” (Công vụ 16:10-18; 20:5-15; 21:1-18; 27:1-28,16) gợi lên mối liên hệ của tác giả cuốn sách với Thánh Phaolô và qua Thánh Phaolô, với Chúa Giêsu.

b. Các ngôn từ và hành động của các Tông đồ

35. Hoạt động của các Tông đồ, như cuốn sách kể lại, cho thấy bằng nhiều cách mối liên hệ của các ngài với Chúa Giêsu. Các bài phát biểu của Thánh Phêrô (xem Công vụ 1:15-22; 2:14-36; 3:12-26; 10:34-43) và của Thánh Phaolô (thí dụ: Công vụ 13:16-41) là các bản tóm lược, các bản “tóm tắt” đem lại ý nghĩa cho cuộc đời và thừa tác vụ của Chúa Giêsu. Chúng trình bày các sự kiện căn bản về cuộc đời và thừa tác vụ ấy: Người thuộc dòng dõi Đavít (xem Công vụ 13:22-23), mối liên kết của Người với Nadarét (xem Công vụ 2:22; 4:10), thừa tác vụ khởi đầu của Người ở Galilê (x. Công vụ 10: 37-39). Cuộc khổ nạn và cái chết của Người, trong đó có sự liên quan của người Do Thái (xem Công vụ 2:23; 3:13; 4:10-11) và của dân ngoại (xem Công vụ 2:23; 4:26-27), Philatô (xem Công vụ 3:13; 4:27; 13:28) và Hêrốt (xem Công vụ 4:27) được đặc biệt nhấn mạnh, cũng như hình phạt thập giá (xem Công vụ 5:30; 10:39; 13:29) và sự phục sinh của Người nhờ Thiên Chúa (xem Công vụ 2:24,32; v.v.).

Việc trình bầy sự phục sinh của Chúa Giêsu làm nổi bật hành động của Chúa Cha, trái ngược với hành động của con người: “anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết” (Công vụ 2:23-24; xem Công vụ 3:15; v.v.). Thiên Chúa đã nâng Chúa Giêsu lên bên hữu của Người (Công vụ 2:33; 5:31) và tôn vinh Người (xem Công vụ 3:13). Mối liên hệ rất chặt chẽ giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa được nhấn mạnh như thế, đồng thời cả nguồn phát xuất thần thiêng của những điều được thuật lại. Các tước hiệu Kitô học của Tin Mừng Luca cũng được tìm thấy trong sách Công vụ: Đấng Kitô (Công vụ 2:31; 3:18), Chúa (Công vụ 2:36; 11:20), Con Thiên Chúa (Công vụ 9:20; 13:33), Cứu Chúa (Cv 5: 31; 13:23). Nói chung, theo cách diễn đạt của Công vụ, chính Thiên Chúa là nguồn gốc của những tước hiệu này, trong đó, phẩm tính và sứ mệnh được Người gán cho Chúa Giêsu đã được phát biểu (Công vụ 2:36: 5:31; 13: 33).

Cũng cùng cách đó, các hành động lạ lùng nối kết các Tông đồ với Chúa Giêsu. Các phép lạ của Chúa Giêsu là dấu chỉ triều đại Thiên Chúa (x. Lc 4:18; 11:20, Công vụ 2:22; 10:38). Chính Người ủy thác sứ mệnh này cho nhóm mười hai (Lc 9:1). Sách Công vụ, cách chung, gán cho các tông đồ “nhiều điềm thiêng dấu lạ” (Công vụ 2:43; 5:12; 14:3). Ngài cũng kể lại các phép lạ đặc thù, chẳng hạn như các vụ chữa lành (xem Công vụ 3:1-10; 5:14-16; 14:8-10), trừ quỉ (xem Công vụ 5:16; 8:7; 19:12), phục sinh người chết (Công vụ 9:36-42; 20:9-10). Các tông đồ thực hiện những dấu lạ này nhân danh Chúa Giêsu, với sức mạnh và uy quyền của Người (Công vụ 3: 1-10; 9: 32-35).

Hoạt động của các Tông đồ hoàn toàn do Chúa Giêsu quyết định, phát xuất từ Người và dẫn đến Người và Thiên Chúa Cha. Công vụ nhấn mạnh đến tính liên tục của kế hoạch thần thiêng, được hoàn thành nơi Chúa Giêsu Kitô, và sau đó được theo đuổi trong Giáo hội. Thánh Luca đặc biệt thấy trong các phép lạ sự xác nhận thần thiêng đối với sứ mệnh tông đồ, một sứ mệnh được định vị trong việc kéo dài sứ mệnh của Môsê (x.Công vụ 7:35-36), sau đó là sứ mệnh của Chúa Giêsu (Công vụ 2:22).

c. Công trình của Chúa Thánh Thần

36. Mối liên hệ của các Tông đồ với Chúa Giêsu cũng được biểu lộ qua việc ban Chúa Thánh Thần mà Chúa Giêsu đã hứa và gửi đến cho họ, Chúa Thánh Thần, trong Người, họ thể hiện công trình của họ.

Chúa phục sinh loan báo cho họ “lời hứa của Chúa Cha” (Công vụ 1:4; Lc 24:49), phép rửa “trong Chúa Thánh Thần” (Công vụ 1:5), “sức mạnh” của Chúa Thánh Thần (Cc 1:8). Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên họ và “tất cả đều được đầy dẫy Chúa Thánh Thần” (Công vụ 2:4), Thần khí được Chúa Cha hứa ban và được Chúa Giêsu phân phát, được nâng lên bên tay phải Thiên Chúa (x. Cc 2:33). Chính trong Chúa Thánh Thần này, Thánh Phêrô và nhóm Mười một (xem Công vụ 2:14) mạnh mẽ đưa ra chứng từ công khai đầu tiên về các công trình và sự phục sinh của Chúa Giêsu (Công vụ 2:14-41).

Trong bản tóm tắt liên quan đến đời sống của Giáo hội Giêrusalem, hoạt động tông đồ được tóm tắt bằng những lời sau đây: “Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giêsu đã sống lại” (Cv 4,33; xem Cv 1:22, v.v.). Chứng từ này diễn ra dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần (xem Công vụ 4:8,31; v.v.). Thừa tác vụ của Thánh Phaolô, công bố sự phục sinh của Chúa Giêsu (Công vụ 13: 30,37), được mô tả theo cùng một cách: Thánh Phaolô được tràn đầy Chúa Thánh Thần (xem Công vụ 9:17; 13:2, 4, 9).

d. Sự hoàn tất của Cựu Ước

37. Tin Mừng Luca cho thấy Chúa phục sinh đã giải thích cho các môn đệ của mình như thế nào về Kinh thánh, khiến họ hiểu rằng trong cuộc khổ nạn, sự chết và sự sống lại của Ngài, kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa do Môsê, các Tiên tri và Thánh vịnh (x. Lc 24:27,44) loan báo đã được thể hiện . Có 37 trích dẫn Cựu Ước trong sách Công vụ, phần lớn trong các diễn từ mà các Thánh Phêrô, Stêphanô và Phaolô ngỏ với khán giả Do Thái. Cuốn sách đề cập đến các văn bản được linh hứng, khi cho thấy sự hoàn tất của chúng nơi Chúa Giêsu, và nó gán cho lời lẽ của các nhà truyền giảng Kitô giáo cùng một giá trị của những lời được linh hứng.

Các sự kiện Kitô học cấu thành nội dung của lời truyền giảng, giống như các sự kiện cùng xẩy ra với chúng, được nối kết với Kinh thánh. Trong diễn từ khai mạc ngày lễ Ngũ tuần, Thánh Phêrô giải thích việc đột xuất các hiện tượng lạ thường có liên quan đến sự xuất hiện của Chúa Thánh Thần (xem Công vụ 2:4-13,15), dưới ánh sáng lời tiên tri Giôen 3:1-5). Ở cuối cuốn sách, người ta thấy Thánh Phaolô diễn giải ra sao việc người Do Thái Rôma bác bỏ các đề nghị của ngài bằng cách nại đến lời tiên tri Isaia 6:9-10 (xem Công vụ 28:23-27). Do đó, những gì xảy ra ở đầu và ở cuối cuốn sách đều được liên kết với Lời tiên tri của Thiên Chúa. Kiểu bao hàm này có thể gợi lên ý tưởng cho rằng mọi thứ xảy đến và được tường trình trong sách Công vụ đều tương ứng với kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa.

Liên quan đến nội dung của lời truyền giảng tông đồ, ở đây chúng ta trình bầy một vài thí dụ. Thánh Phêrô bênh đỡ việc loan báo sự phục sinh của Chúa Giêsu (Công vụ 2:24) bằng cách trích dẫn Thánh vịnh 16: 8-11, vốn được gán cho Đavít (Công vụ 2:29-32). Ngài đặt cơ sở cho việc tôn vinh Chúa Giêsu bên tay phải Thiên Chúa (xem Công vụ 2:33) dựa vào Thánh vịnh 110:1, cũng được gán cho Đavít. Chúng ta cũng hãy trích dẫn, một cách tổng quát hơn, các tham chiếu mọi tiên tri, mà qua miệng các ngài, Thiên Chúa đã loan báo trước vận mệnh của Chúa Giêsu (xem Công vụ 3:18,24; 24:14; 26:22; 28:23). Thánh Phaolô trình bày sự phục sinh của Chúa Giêsu như là việc hoàn tất lời hứa đã ngỏ cùng các bậc Cha Ông và trích dẫn Thánh vịnh 2:7 (Công vụ 13:32-33).

Sách Công vụ làm chứng một cách đặc biệt cách mà Giáo hội sơ khai không những chỉ nhận Kinh thánh Do Thái như là di sản của riêng mình, mà còn nhận làm của riêng từ vựng và nền thần học linh hứng, như được tỏ lộ do cách các bản văn của Cựu Ước được trích dẫn ở đấy. Do đó, ở đầu (xem Công vụ 1:16), cũng như ở cuối cuốn sách (Công vụ 28:15), có sự khẳng định rằng Chúa Thánh Thần nói qua trung gian các tác giả và các bản văn Kinh thánh. Ở đầu cuốn sách, các Sách thánh- được tuyên bố là được Đức Giêsu hoàn tất – đã được định tính như một điều đã được Chúa Thánh Thần “nói trước” (Cc 1:16, xem thêm Công vụ 4:25) và ở cuối cuốn sách, những lời của Thánh Phaolô – tức những lời kết thúc hai tập của tác phẩm Luca – đã trích dẫn Is 6:9-10 cùng một cách tương tự: “Thánh Thần đã nói rất đúng khi dùng ngôn sứ Isaia [Is 6:9-10 bản Hy Lạp] mà phán với cha ông anh em” (Công vụ 28:25). Cách qui chiếu về Chúa Thánh Thần, lên tiếng trong các trước tác Kinh thánh và sử dụng các tác giả phàm nhân làm trung gian, là đặc điểm của các trước tác Kitô giáo, không những trong sự hiểu biết của họ về Kinh thánh Do Thái được linh hứng, mà cả trong sự hiểu biết của họ về việc truyền giảng tông đồ nữa. Sách Công vụ trình bày lời truyền giảng của các nhà truyền giáo Kitô giáo – đặc biệt của Thánh Phêrô (xem Cv 4:8) và của Thánh Phaolô (Cv 13:9) – một cách tương tự như các diễn từ tiên tri của Cựu Ước, và các diễn từ nối kết với thừa tác vụ của Chúa Giêsu: đó là những ngôn từ (bằng lời nói và sau đó được viết ra) phát xuất từ sự viên mãn của Chúa Thánh Thần.

e. Kết luận

Tính chuyên biệt của sách Công vụ hệ ở chỗ tường trình hoạt động của các nhân chứng tận mắt và các thừa tác viên của Lời Chúa từng có mối liên hệ đủ loại khác nhau với Chúa Giêsu. Trước hết, họ là các nhân chứng cho sự phục sinh của Chúa Giêsu, và chứng thực điều đó trên cơ sở các cuộc gặp gỡ với Chúa phục sinh và trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Họ trình bày câu chuyện về Chúa Giêsu như là sự hoàn tất kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, bằng cách tham chiếu Cựu Ước, và họ diễn giải hoạt động của chính họ dưới ánh sáng của cùng một nguồn này. Tất cả những gì được kể lại đều phát xuất từ Chúa Giêsu và Thiên Chúa. Lập luận rõ ràng này từ sách Công vụ nêu bật sự kiện này: bản văn bản của ngài phát xuất từ Chúa Giêsu và từ Thiên Chúa.

3.5 Các lá thư của Thánh Tông đồ Phaolô.

http://www.vietcatholicnews.net/pics/paul%201.jpg Thánh Phaolô làm chứng cho nguồn gốc thần thiêng của Sách thánh Israel, của Tin Mừng của ngài, của thừa tác vụ tông đồ và các lá thư của ngài.

a. Thánh Thánh Phaolô làm chứng cho nguồn gốc thần thiêng của Sách thánh

Thánh Phaolô rõ ràng nhìn nhận thẩm quyền của Kinh thánh, ngài làm chứng về nguồn gốc thần thiêng của nó và ngài coi chúng như những lời tiên tri của Tin mừng.

Qua thuật ngữ “Sách Thánh” (Rm 1,2), Thánh Phaolô muốn chỉ các cuốn sách tiếp nhận từ truyền thống Do Thái viết bằng tiếng Hy Lạp. Ngài không bao giờ đặt câu hỏi về sự thật hay sự linh hứng của chúng. Là một tín hữu Do Thái, ngài tiếp nhận chúng như các chứng từ cho thấy ý muốn và kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Với các đồng tín hữu của mình, ngài tin vào sự thật, sự thánh thiện và sự thống nhất của chúng. Qua chúng, Thiên Chúa truyền đạt chính mình Người cho chúng ta, thách thức chúng ta và bày tỏ ý muốn của Người cho chúng (Rm 4:23-25; 15:4; 1 Cr 9:10; 10:4, 11).

Cũng phải nói thêm rằng Thánh Phaolô đọc và tiếp nhận Kinh thánh như những lời tiên tri về Chúa Kitô và của thời đại chúng ta (Rm 16: 25-26), nói cách khác như những lời tiên tri về sự cứu rỗi được hiến tặng trong và qua trung gian Chúa Giêsu Kitô và vì vậy, như những lời tiên tri về Tin Mừng (x. Rm 1:2): những trước tác này được định hướng theo Kitô học và phải được đọc như vậy (xem 2 Cr 3).

Như Lời của Thiên Chúa và làm chứng cho Tin mừng, Kinh thánh xác nhận tính thống nhất và ổn định của kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, Đấng là một như từ thuở khởi đầu (xem Rm 9:6-29).

b. Thánh Phaolô làm chứng cho nguồn gốc thần thiêng của Tin Mừng của ngài

http://www.vietcatholicnews.net/pics/paul2.jpg

40. Trong chương đầu tiên của thư gửi tín hữu Galát, Thánh Phaolô thừa nhận đã bắt bớ Giáo hội vì lòng nhiệt thành với Lề Luật, nhưng ngài thú nhận rằng Thiên Chúa, vì lòng nhân hậu vô hạn của Người, đã mặc khải cho ngài Con của Người (x. Gl 1:16; xem Eph 3:1-6). Nhờ sự mặc khải này, Chúa Giêsu thành Nadarét, Đấng trước đây, đối với Thánh Phaolô, là người phạm thượng, một Mêxia giả mạo, nay trở thành Đấng Phục sinh, Đấng Mêxia vinh quang, Đấng chinh phục sự chết, Con Thiên Chúa. Trong cùng lá thư này, ở câu Gl 1:12, ngài tuyên bố rằng Tin mừng của ngài đã được mặc khải cho ngài. Chữ Tin Mừng ở đây chúng ta phải hiểu là các thành phần chính của đời sống, hành trình và sứ mệnh của Chúa Giêsu, ít nhất cái chết và sự phục sinh cứu độ của Người.

Trong thư Galát 1-2, ngài loan báo rằng Tin mừng của ngài không bao gồm việc cắt bì. Nói cách khác, ngài tuyên bố rằng, theo những gì đã được mặc khải cho ngài, không cần thiết phải cắt bì hoặc trở thành người giữ Luật Môsê mới được thừa hưởng các lời hứa cánh chung. Đối với Thánh Phaolô, sự kiện bắt các Kitô hữu có nguồn gốc không Do Thái cắt bì không phải là vấn đề ngoại biên hay có tính địa phương, nhưng chạm đến trái tim của Tin mừng. Ngài kiên quyết tuyên bố rằng người cắt bì – để trở thành người giữ Luật Môsê và để có được, nhờ cách này, sự công chính – sẽ làm cho cái chết trên thập giá của Chúa Kitô trở nên vô ích: “tôi đây, Phaolô, tôi nói cho anh em biết: anh em mà chịu phép cắt bì thì Đức Kitô sẽ không có ích gì cho anh em” (Gl 5: 2; xem Gl 2:21; 5:4). Do đó, điều đang bị đe doạ là chính Tin Mừng, một Tin Mừng đã được mặc khải cho ngài và do đó, không thể sửa đổi.

Ở thư Galát 1-2, Thánh Phaolô chứng minh ra sao rằng Tin Mừng của ngài – mà việc cắt bì không phải là một thành phần – có nguồn gốc thần thiêng? Ngài bắt đầu bằng cách khẳng định rằng đặc điểm này của Tin Mừng không thể phát xuất từ ngài, bởi vì, khi còn là một người Pharisiêu, ngài đã chống đối nó cách quyết liệt, và do đó, nếu nay ngài tuyên bố ngược lại với những gì ngài đã nghĩ trước đây, thì đó không phải là do sự bất ổn về tri thức: tất cả những người đồng đạo của ngài đều biết rõ rằng ngài kiên định trong các xác tín của ngài (x. Gl 1:13-14). Sau đó, Thánh Phaolô cho thấy rằng Tin Mừng của ngài không thể đến từ các Tông đồ khác, không những vì ngài đã chỉ thấy họ không lâu sau cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô, mà còn vì ngài không ngần ngại mâu thuẫn với Thánh Phêrô, người đáng chú ý nhất trong các tông đồ, khi vị này có lập trường muốn biến việc cắt bì trở thành một yếu tố phân biệt giữa các Kitô hữu (xem Gl 2:11-14). Cuối cùng, vì Tin mừng của ngài được mặc khải cho ngài, ngài cũng phải tuân theo những gì Chúa đã nói với ngài. Đó là lý do tại sao ngài có thể khẳng định, ở đầu bức thư gửi tín hữu Galát, “Tuy nhiên, nếu chính chúng tôi, hoặc nếu một thiên thần từ trời tuyên bố với anh em một tin mừng khác với những gì chúng tôi đã loan báo cho anh em, hãy để người ấy bị tuyệt thông” (Gl 1:8, xem Gl 1:9).

Tại sao Thánh Phaolô muốn nhấn mạnh đến đặc điểm được mặc khải của Tin mừng của ngài? Nguồn gốc thần thiêng này bị tranh biện bởi các nhà truyền giáo chủ trương Do thái hóa, vì việc cắt bì đã được áp đặt bởi một mệnh lệnh có tính sấm ngôn thần thiêng trong luật Môsê (St 17: 10-14). Thực thế, St 17: 10-14 quả quyết rằng để được ơn cứu rỗi, điều cần là phải thuộc về gia đình Ápraham và, vì lý do này, phải cắt bì. Như thế, trong hai bức thư của mình – Thư Galát và thư Rôma – Thánh Phaolô hẳn cho thấy rằng Tin Mừng của ngài không đi ngược lại Sách thánh và không mâu thuẫn với St 17: 10-14, một đoạn văn không thừa nhận ngoại lệ. Thực thế, Thánh Phaolô không thể tuyên bố rằng sấm ngôn này vô giá trị vì nó được công nhận là quy phạm bởi mọi người Do Thái thực hành đạo. Vì Thánh Phaolô không thể làm ngơ đoạn văn này, nên ngài phải diễn giải nó một cách khác, nhưng ngài không thể làm như vậy mà không dựa vào các đoạn Sách thánh khác (St 15:6 và Tv 32:1-2 trong Rm 4:3, 6), vốn tạo thành quy tắc mà căn cứ vào đó St 17:10-14 phải được giải thích.

c. Thừa tác vụ tông đồ của Thánh Phaolô và nguồn gốc thần thiêng của nó

41. Thánh Phaolô cũng phải nhấn mạnh đến nguồn gốc thần thiêng của hoạt động tông đồ của ngài, vì một số người trong nhóm các Tông đồ đã mói xấu ngài và coi thường giá trị Tin Mừng của ngài; mặc dù đã gặp Đấng Phục sinh, ngài không phải là một thành phần trong số những người từng sống với Chúa Giêsu và là chứng nhân sự dạy dỗ, các phép lạ và cuộc khổ nạn của ngài. Đây là lý do tại sao Thánh Phaolô khẳng định sự kiện ngài đã được để riêng ra và được Chúa gọi làm Tông đồ cho dân ngoại (xin xem Rm 1:5; 1 Cr 1:1, 2 Cr 1:1, Gl 1:1). Đây cũng là lý do tại sao, trong diễn từ dài tự khen mình ở 2 Cr 10-13, ngài nhắc đến các mặc khải nhận được từ Chúa (2 Cr 12:14). Đó không phải là một sự cường điệu tu từ hay một lời nói dối ngoan đạo nhằm làm nổi bật tư cách tông đồ của ngài, mà là một bằng chứng xác thực đơn giản. Trong diễn từ ca ngợi chính mình ở 2 Cr 10-13, Thánh Phaolô nhấn mạnh rất ít về các mặc khải ngoại thường mà ngài được hưởng, và trước nhất nhấn mạnh đến những đau khổ làm tông đồ của ngài cho Giáo hội, vì sức mạnh của Thiên Chúa biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối mong manh của ngài. Nói cách khác, khi ngài kể lại các điều mặc khải nhận được từ Thiên Chúa, Thánh Phaolô không làm như vậy để được các giáo hội ngưỡng mộ, nhưng để chứng tỏ rằng các đặc điểm đặc trưng của vị Tông đồ chân chính, đúng hơn, là các mệt mỏi và đau khổ. Vì lý do này, chứng từ của ngài đáng tin cậy.

Trong Gl 2:7-9, Thánh Phaolô cũng lưu ý rằng khi ngài đến Giêrusalem, Thánh Giacôbê, Thánh Phẹrô, và Thánh Gioan, những người có ảnh hưởng nhất trong các tông đồ, đã thừa nhận rằng Thiên Chúa đã lập ngài thành Tông đồ dân ngoại. Do đó, Thánh Phaolô không phải là người duy nhất khẳng định nguồn gốc thần thiêng của ơn gọi của ngài, vì nó được các thẩm quyền trong giáo hội thời đó công nhận.

d. Thánh Phaolô chứng thực nguồn gốc thần thiêng của các lá thư của ngài

42. Thánh Phaolô không chỉ xác nhận nguồn gốc thần thiêng của hoạt động tông đồ và Tin Mừng của ngài. Sự kiện Tin Mừng của ngài đã được mặc khải cho ngài không tự động bảo đảm tính chính xác và độ đáng tin của việc truyền tải nó. Đây là lý do tại sao ngài đề cập, ngay ở đầu các lá thư của ngài, đến ơn gọi và sứ mệnh tông đồ của ngài: ví dụ, trong thư Rôma 1:1, ngài tự định nghĩa ngài như sau: “Tôi là Phaolô, tôi tớ của Đức Kitô Giêsu; tôi được gọi làm Tông Đồ, và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa”. Do đó, ngài khẳng định rằng các lá thư của ngài đã trung thành truyền tải Tin Mừng của mình và muốn mọi giáo hội cùng đọc chúng (xem Cl 4:16).

Ngay cả những khuyên dạy về kỷ luật không liên kết trực tiếp với Tin mừng cũng phải được các tín hữu của các giáo hội khác nhau tiếp nhận như thể chúng là một lệnh truyền của Chúa (xem 1 Cr 7:17b; 14:37). Thánh Phaolô chắc chắn không gán cùng một thẩm quyền cho mọi trước tác của ngài, như lập luận giải nghi của 1 Cr 7 cho thấy, nhưng vì chúng thường giải thích và biện minh cho Tin Mừng của ngài, nên các luận điểm của ngài (xem Rm 1-11 và Gl 14). ) chắc chắn tạo thành một cách giải thích mới về chính Tin mừng, một cách giải thích có thẩm quyền.

3.6. Thư gửi tín hữu Do Thái

43. Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái không có cao vọng tông đồ minh nhiên, khác với Thánh Phaolô, người tuyên bố đã nhận được Tin mừng trực tiếp từ Chúa Kitô (xem Gl 1:1,12,16).

Tuy nhiên, bức thư này có hai đoạn có tầm quan trọng đặc biệt: Dt 1:12, trong đó tác giả tổng hợp lịch sử mặc khải của Thiên Chúa cho con người, và cho thấy mối liên hệ chặt chẽ của sự mặc khải thần thiêng giữa hai giao ước, và Dt 2:1-4, nơi ngài tự trình bầy mình như người thuộc thế hệ Kitô hữu thứ hai, nhận được lời Thiên Chúa, sứ điệp cứu rỗi, không trực tiếp từ Chúa Giêsu, nhưng qua trung gian các nhân chứng của Chúa Kitô, các môn đệ đã từng được nghe Người.

a. Lịch sử mặc khải của Thiên Chúa

Ở đầu trước tác của mình, tác giả nhận xét: ” Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua (1) các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, trong những ngày chúng ta đang sống này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua (2) Thánh Tử” (Dt 1:1-2). Trong câu khai mạc đáng ngưỡng mộ này, tác giả đã vẽ lại trọn lịch sử của Lời Thiên Chúa được ngỏ cùng con người. Đoạn văn có tầm quan trọng quyết định đối với chủ đề mặc khải và linh hứng và xứng đáng được giải thích chính xác.

Ở đấy, một sự kiện chính đã được khẳng định cách long trọng: Thiên Chúa tìm cách bước vào mối liên hệ bản thân với con người. Đối với cuộc gặp gỡ này, Người đưa ra sáng kiến: Thiên Chúa lên tiếng. Động từ được sử dụng không có túc từ trực tiếp và nội dung của lời này không được xác định. Mặt khác, những người được đặt trong mối liên hệ đều được xác định: Thiên Chúa, cha ông, các Tiên tri, chúng ta, Thánh Tử. Ở đây, Lời Thiên Chúa không được trình bày như một mặc khải sự thật, nhưng như một phương tiện để thiết lập mối liên hệ giữa con người.

Trong lịch sử Lời Thiên Chúa, hai giai đoạn chính được phân biệt. Việc lặp lại cùng một động từ “lên tiếng hay nói” thể hiện một sự liên tục rõ ràng, và sự song hành của hai câu mang lại sự tương đồng của hai sự can thiệp. Nhưng sự khác biệt nhấn mạnh đến sự đa dạng của thời đại, cung cách, người nhận và người trung gian.

Về những điều liên quan với thời đại, đối với dữ kiện đầu tiên (“Thuở xưa”), một khái niệm phức tạp hơn đã được đặt đối lập với nó về trình tự thời gian. Tác giả sử dụng một kiểu nói của Kinh thánh “thời sau hết”, một kiểu nói mơ hồ chỉ thời tương lai (xem St 49: 1), nhưng ý nghĩa của nó đặc biệt liên quan đến thời điểm Thiên Chúa tự tỏ mình ra một cách dứt khoát: “lúc cuối thời”(xem Edk 38:16, Đn 2:28: 10:14). Tác giả lấy lại biểu thức này, nhưng thêm vào đó một cụm từ chỉ độ chính xác mới: “trong những ngày chúng ta đang sống này”. Độ chính xác nhỏ trên bình diện vật chất, nhưng cho thấy một sự thay đổi tận gốc về viễn ảnh. Trong Cựu Ước, sự can thiệp dứt khoát của Thiên Chúa luôn được định vị trong viễn ảnh đen tối của tương lai. Ở đây, tác giả quả quyết rằng thời sau hết đã có mặt, vì một kỷ nguyên mới đã được khai mở bởi cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô (xem Cv 2:17,: 1 Cr 10:11, 1 Pr 1:20). Nếu “những ngày chúng ta đang sống này” là một phần của thời sau hết, thì ngày tối hậu vẫn chưa đến (x. Ga 6:39: 12:48), nó chỉ đang đến gần mà thôi (xem Dt 10:25). Nhưng, kể từ bây giờ, sự hiện hữu của Kitô hữu đã tham dự vào những sự thiện dứt khoát, được hứa cho thời sau hết (Dt 6: 4-5: 12:22-24, 28). Mối liên hệ của Thiên Chúa với con người đã thay đổi bình điện: nó chuyển từ hứa hẹn qua thể hiện, từ hình tượng loan báo đến sự hoàn thành. Sự khác biệt có tính định tính.

Cách thức mà Lời Chúa được trình bày khác nhau đối với hai thời đại của lịch sử cứu độ. Trong thời cổ đại, nó được đặc trưng bằng tính đa dạng: “nhiều lần”, “nhiều cách”. Trong tính đa dạng này, có một sự phong phú. Thiên Chúa, một cách không mệt mỏi (xem Grm 7:13), tìm phương thế để tiếp cận chúng ta: ra lệnh, đưa ra lời hứa, xử phạt những kẻ nổi loạn, an ủi những người đau khổ, sử dụng mọi hình thức biểu lộ có thể có như thần hiện gây kinh sợ, các thị kiến đầy an ủi, các sấm ngôn ngắn gọn, những bức tranh lịch sử vĩ đại, bài thuyết giáo tiên tri, các thánh ca và nghi thức phụng vụ, lề luật, câu truyện. Nhưng tính đa dạng cũng là một dấu hiệu của sự không hoàn hảo (x. Dt 7:23; 10:1-2, 11-14). Thiên Chúa tự phát biểu Người một cách hạn chế. Như một nhà sư phạm giỏi, Người bắt đầu bằng cách nói những điều sơ đẳng nhất, dưới những hình thức dễ tiếp cận nhất. Người nói về dòng dõi và đất đai, hứa hẹn và thực hiện việc giải phóng dân Người, ban cho họ những định chế tạm thời: các triều đại hoàng gia, chức tư tế cha truyền con nối. Nhưng tất cả điều này chỉ là một hình ảnh loan báo. Trong giai đoạn sau hết, Lời Thiên Chúa sẽ được ban cho một cách trọn vẹn, dứt khoát và hoàn hảo. Các kho tàng rải rác trong các thời đại trước được tập hợp và đem tới đỉnh cao của chúng trong sự thống nhất của mầu nhiệm Chúa Kitô.

Song song với việc các thời kỳ tiếp nối nhau, ta thấy có sự thay đổi các lớp người lắng nghe Lời Thiên Chúa. Lời thuở xưa ngỏ cùng “cha ông” theo nghĩa rộng, nghĩa là cho toàn bộ các thế hệ đã nhận được sứ điệp tiên tri (Dt 3:9). Lời sau cùng được ngỏ cùng “chúng ta”. Đại từ “chúng ta” bao gồm tác giả và người nhận bản văn của ngài, nhưng cả những người đã nghe Lời Chúa và những người đương thời của họ (Dt 2:3).

Để mô tả những người trung gian, tác giả sử dụng một biểu thức đáng kinh ngạc, khác thường: theo nghĩa đen (Dt 1:1-2), Thiên Chúa nói “trong” các tiên tri, “trong Thánh Tử”; trong khi biểu thức thông thường là “qua trung gian” (xem Mt 1:22, 2:15, v.v., Cv 28:25). Tác giả có thể thấy rõ sự hiện diện tích cực của chính Thiên Chúa trong các sứ giả của Người.

Đây là ý nghĩa duy nhất phù hợp với biểu thức thứ hai “trong Thánh Tử”. Tiếp nối các tiên tri theo nghĩa rộng nhất – nghĩa là, đối với tất cả những người mà Kinh thánh kể lại các vụ lên tiếng, là sứ giả tối hậu tức “Thánh Tử”. Địa vị được chọn làm tên cho Người, ở cuối câu, kéo chú ý tập trung vào Người (Dt 1: 2-4). Cuộc gặp gỡ của Thiên Chúa với con người chỉ thể hiện duy nhất ở trong Người. Trước tiên, Thiên Chúa gửi “các tiên tri đầy tớ” của Người (Grm 7:25; 25:4; 35:15; 44:4); nhưng bây giờ sứ giả của Người không còn đơn thuần là một người đầy tớ nữa, mà là “Thánh Tử”. Nói qua trung gian các Tiên tri, Thiên Chúa tự tỏ mình ra, nhưng một cách gián tiếp, bởi một người đứng làm trung gian; giờ đây, cuộc gặp gỡ với Lời Thiên Chúa được thể hiện nơi Thánh Tử. Bây giờ, không còn là một người khác với Thiên Chúa nói với chúng ta về Lời nữa, mà là một ngôi vị thần thiêng, mà sự hợp nhất với Chúa Cha được phát biểu bằng một công thức mạnh mẽ hơn tác giả có thể tìm thấy ” phản ánh vinh quang Thiên Chúa, biểu thức hoàn hảo của hữu thể Người” (Dt 1: 3). Thiên Chúa không lấy làm đủ việc Người tỏ mình ra cho chúng ta bằng cách sử dụng ngôn ngữ của chúng ta: Người đến, trong con người của Chúa Giêsu Kitô, để thực sự chia sẻ cuộc hiện sinh của chúng ta, và nói không những ngôn ngữ của lời nói, mà còn là ngôn ngữ của cuộc sống hiến dâng và của máu đổ ra.

b. Mối liên hệ của tác giả với sự mặc khải của Thánh Tử

http://www.vietcatholicnews.net/pics/paul3.jpg 44. Khi khai triển một khía cạnh của học thuyết liên quan đến Lời của Thiên Chúa ngỏ với con người trong các Tiên tri và trong Thánh Tử (xem Dt 1:1-14), tác giả ngay lập tức làm rõ mối liên hệ của nó với cuộc sống và đề cao mối liên hệ của nó với Thánh Tử: “Vì thế, chúng ta càng phải chú tâm hơn nữa vào những lời đã nghe, kẻo bị cuốn trôi đi mất. Quả vậy, nếu lời được các thiên thần loan báo đã có hiệu lực, và nếu mọi vi phạm cũng như bất tuân đều bị phạt đích đáng, thì làm sao chúng ta thoát khỏi, nếu chúng ta thờ ơ với ơn cứu độ cao quý như thế? Ơn cứu độ đó, đầu tiên đã được Chúa rao giảng, rồi được những kẻ nghe cho chúng ta thấy là có hiệu lực, đồng thời được Thiên Chúa chứng thực bằng những dấu lạ điềm thiêng, bằng nhiều quyền năng khác nhau và bằng các ân huệ của Thánh Thần mà Người phân phát tuỳ ý muốn của Người”(Dt 2:1-4).

Các Kitô hữu được mời gọi chú ý nhiều đến lời mình nghe. Nhưng nghe sứ điệp không đủ; phải gắn bó với nó bằng cả trái tim và cuộc sống của mình. Không có sự gắn bó nghiêm túc vào Tin Mừng, người ta có nguy cơ lầm đường lạc lối (xem Dt 2:1). Bất cứ ai tự xa rời Thiên Chúa chỉ có thể bị lạc lối và tiêu vong. Trong khi đó, ai cố gắng gắn bó với sứ điệp mình nghe thì tiến gần lại Thiên Chúa (Dt 7:19) và nhận được ơn cứu rỗi.

Sau khi đã giới thiệu chủ đề trên (Dt 2:1), tác giả khai triển nó thành một câu dài (Dt 2:2-4). Ngài đặt cơ sở cho lập luận của mình trên sự so sánh giữa các thiên thần và Chúa.

Yếu tố duy nhất giống hệt nhau giữa hai bên là biểu thức “được loan báo bởi”. Lời được loan báo bởi các thiên thần; “ơn cứu rỗi” khởi đầu được loan báo bởi Chúa.

Khi nhắc đến “lời”, tác giả nghĩ nhiều hơn đến việc công bố Lề Luật ban hành ở Sinai. Kiểu nói “ơn cứu rỗi” là kiểu nói bất ngờ. Có lẽ chúng ta mong đợi một thuật ngữ song hành với “lời”. Việc thiếu song hành này rất phong phú về nội dung. Nó cho thấy một sự khác biệt sâu xa giữa Cựu Ước và Tân Ước. Trong giao ước cũ, chỉ có một “lời”, một lề luật bên ngoài chỉ đạo và trừng phạt. Trong giao ước mới, đó là ơn cứu rỗi thực sự được đề nghị. Vậy, liệu có lời bào chữa nào cho những người bác bỏ ơn cứu rỗi chăng? Nơi họ, chỉ có sự bất tuân và vô ơn mà thôi. Họ không bác bỏ một đòi hỏi, mà tự khép lòng mình đối với tình yêu.

Diễn từ dài trên đây về chủ đề này cho thấy ơn cứu rỗi đã kết hợp ra sao giữa tác giả và những người tiếp nhận trước tác của ngài đồng thời chỉ ra ba đặc điểm của ơn cứu rỗi: lời truyền giảng của Chúa, thừa tác vụ của các môn đệ đầu tiên, chứng từ của Thiên Chúa (x. Dt 2: 3b-4). Đặc tính đầu tiên của ơn cứu rỗi là nó bắt đầu được Chúa loan báo. Tác giả không sử dụng một động từ đơn giản (“bắt đầu”), mà là một cụm từ vòng vo trang trọng: “ở đầu”. Đây có thể là một việc kín đáo nhắc tới St 1:1. Ơn cứu rỗi tạo nên một sáng thế mới. Tước hiệu “Chúa” ám chỉ Chúa Kitô, Thánh Tử vốn là Đấng mặc khải tối hậu được Thiên Chúa sai đến (xem Dt 1: 2). Ơn cứu rỗi mà Người mặc khải là đỉnh cao của công trình cứu độ của Thiên Chúa. Việc loan báo được thực hiện bởi Chúa đã đến với “chúng ta” (Dt 2:3) – “chúng ta”, nghĩa là tác giả và người nhận tác phẩm của ngài – qua trung gian thừa tác vụ của các nhân chứng từng “nghe” và từng là các môn đệ đầu tiên của Chúa Kitô. Thiên Chúa, mà từ Người, mọi mặc khải và ơn cứu rỗi phát xuất (Dt 1: 1-2), xác nhận thừa tác vụ của các môn đệ như dấu lạ, phép lạ và ơn Chúa Thánh Thần (xem Cv 5:12, Rm 15:19). 1 Cr 12:4,11; 2 Cr 12:12).

Sau khi gợi lên một cách tổng hợp toàn bộ lịch sử mặc khải (Dt 1:1-2), tác giả cho thấy (xem Dt 2:1-4) rằng chính ngài, và do đó, tác phẩm của ngài, được liên kết với với Thánh Tử và với Thiên Chúa qua trung gian thừa tác vụ chứng nhân trực tiếp của Chúa.

3.7 Sách Khải huyền

45. Thuật ngữ “linh hứng” không xuất hiện trong Sách Khải huyền, nhưng nó chứa đựng thực tại mà thuật ngữ này chỉ định, khi trong bản văn có sự thừa nhận mối liên hệ phụ thuộc, chặt chẽ và trực tiếp, đối với Thiên Chúa. Chúng ta gặp lời khẳng định này trong phần mở đầu (xem Kh 1:1-3), chúng ta tìm thấy nó trong Kh 1:10 và Kh 4:2, khi Thánh Gioan, trong tương quan với nội dung cuốn sách, được đặc biệt tường thuật là tiếp xúc với Chúa Thánh thần, và khi, trong Kh 10:8-11, sứ mệnh tiên tri liên quan đến “cuốn sách nhỏ” được đổi mới cho ngài; cuối cùng lời khẳng định đó được tìm thấy trong cuộc đối thoại phụng vụ kết thúc, khi sự thánh thiện tuyệt đối của toàn bộ sứ điệp được nhấn mạnh, một sứ điệp từ nay được liên kết với chính cuốn sách (xem Kh 22:18-19). Những phần này của cuốn sách cung cấp một sự hiểu biết đầu tiên về ơn linh hứng trong sách Khải Huyền.

a. Nguồn gốc thần thiêng của bản văn theo lời mở đầu của nó (Kh 1:1-3)

Việc đọc kỹ lời mở đầu của Sách Khải huyền sẽ cung cấp cho chúng ta một tài liệu thú vị và chi tiết về con đường, theo bản văn của Sách Khải huyền, sẽ, từ bình diện của chính Thiên Chúa dẫn tới bình diện cụ thể của một cuốn sách có thể được đọc trong cộng đồng phụng vụ.

Người ta có thể lưu ý một ám chỉ đầu tiên đến bình diện thần thiêng ở ngay đầu bản văn: đó là “mặc khải của Chúa Giêsu Kitô” (Kh 1:1a). Nhưng Chúa Giêsu Kitô không phải là nhà phát minh ra nó. Mà chính là “Thiên Chúa”, một thuật ngữ mà chúng ta có thể hiểu, theo cách sử dụng liên tục thuật ngữ này của Tân Ước, là “Cha”. Phát xuất từ Chúa Cha, và được ban cho Chúa Con Giêsu Kitô, do đó, có thể nói, luôn luôn tiếp xúc gần gũi với Thiên Chúa, mặc khải nhận được và giữ dấu ấn của Người.

Từ bình diện Thiên Chúa, chúng ta sau đó, bước xuống bình diện con người. Chính tại đây, chúng ta gặp Chúa Giêsu Kitô: tất cả những gì thuộc về Thiên Chúa – Cha được tìm thấy ở nơi Người, “Lời” hằng sống “của Thiên Chúa”. Khi Chúa Giêsu Kitô tự ngỏ lời với loài người, Người xuất hiện với họ, do đó, như một nhân chứng hoàn toàn đáng tin cậy, trong tư cách Thánh Tử ở bình diện Ba Ngôi, có khả năng đạt tới sự viên mãn của “nội dung” Chúa Cha, mà từ Người mọi sự đều phát xuất, và như Thánh Tử nhập thể, còn có thể truyền đạt nội dung này một cách thỏa đáng cho con người.

Bằng cách này, mặc khải đã bước vào tiếp xúc với Thánh Gioan. Điều này diễn ra một cách đặc biệt: Chúa Cha, qua trung gian Chúa Giêsu Kitô, Đấng vốn là “người mang Người”, phát biểu mặc khải “bằng các dấu hiệu” tượng trưng được Thánh Gioan nhận thức, “nhìn thấy”, và ngài hiểu chúng một cách thỏa đáng, nhờ trung gian một thiên thần, đã giải thích chúng cho ngài. Đến lượt Thánh Gioan, ngài phát biểu sự mặc khải mà ngài có được trong sứ điệp ngài gửi cho các giáo hội, và, ở thời điểm đó, mặc khải trở thành một bản văn viết. Sự tiếp xúc với Chúa Cha và với Chúa Con nhập thể, Đấng đã khai sinh ra bản văn, vẫn còn ở đấy sau đó, trở thành một phẩm chất vĩnh viễn của nó. Ở giai đoạn cuối của hành trình, khi mặc khải bằng bản văn được công bố cho cộng đồng phụng vụ, nó mang bộ mặt tiên tri.

b. Sự biến đổi của Thánh Gioan được thực hiện bởi Chúa Thánh thần, qui hướng về Chúa Kitô (Kh 1:10; 4:1-2)

46. Ở đầu phần thứ nhất (Kh 1:4-3:22) và phần thứ hai (Kh 4:1-22:5) của bản văn, tác giả Sách Khải huyền, người tự nhận mình là Gioan (xem Kh 1:2,4), cho ta một sự chính xác đáng chú ý về tính năng động của mặc khải, một tính năng động khởi đi từ Chúa Cha và băng qua Chúa Giêsu, cuối cùng trở về với Người: sự can thiệp đặc biệt của Chúa Thánh Thần đã biến đổi Thánh Gioan và đưa ngài vào mối liên hệ đổi mới với Chúa Giêsu Kitô, một liên hệ dẫn ta đến chỗ biết rõ hơn về Người.

Điều này trước hết được biểu lộ ở phần đầu của cuốn sách (xem Kh 1:10), nhắc đến toàn bộ phần này. Ẩn dật tại đảo Patmos, luôn nghĩ tới và thương nhớ cộng đồng Êphêsô xa xôi của ngài, Thánh Gioan tri nhận “ngày của Chúa”, đặc điểm của cộng đồng phụng vụ, việc Chúa Thánh thần tỏ mình ra một cách mới mẻ: “Tôi đã được Thánh Thần chiếm hữu vào ngày của Chúa”. Sự kiện được Chúa Thánh thần chiếm hữu và được tiếp xúc với Người, đưa Thánh Gioan vào một sự biến đổi bên trong, một sự biến đổi không nhất thiết phải đạt đến một mức độ ngất trí, làm ngài có khả năng tiếp nhận và giải thích dấu hiệu tượng trưng phức tạp sẽ được tỏ bầy với ngài. Nó phát khởi nơi Thánh Gioan một kinh nghiệm hiện sinh, nhận thức và xúc cảm mới mẻ về Chúa Giêsu Kitô phục sinh, mà từ Người, ngài sẽ nhận được nhiệm vụ gửi đi một thông điệp viết cho bảy Giáo hội (xem Kh 1:10b-3:22).

Sự tiếp xúc đặc biệt này với Thánh Thần được đổi mới ở đầu (Kh 4:1-2) phần thứ hai của sách (Kh 4:1-22,5): “Ngay lập tức tôi được chiếm hữu bởi Thánh Thần” (Kh 4:2) và được giữ nguyên như thế cho đến khi kết luận. Giống như lần tỏ mình ra trước đây, lần tỏ mình ra mới mẻ này của Chúa Thánh thần nhằm sự biến đổi bên trong của Thánh Gioan. Nó được đi trước bởi sự can thiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng bảo Thánh Gioan từ bình diện dưới đất vươn tới bình diện trên trời. Trong sức mạnh của sự biến đổi thứ hai này trong Chúa Thánh thần, Thánh Gioan sẽ có thể nhận thức được nhiều “dấu hiệu” mà Thiên Chúa sẽ ban cho ngài qua Chúa Giêsu Kitô, và được thuật lại một cách thỏa đáng trong bản văn. Sự tiếp xúc đổi mới này với Chúa Thánh thần sẽ được làm cho nổi bật bằng một số đặc điểm nói lên bản chất mối liên hệ của Thánh Gioan với Chúa Giêsu Kitô. Đây là trường hợp ở Kh 17:3, trước khi trình bày một cách hết sức phức tạp, cuộc phán xét “gái điếm vĩ đại” (xem Kh 17:3-18:24), kẻ, dưới ảnh hưởng của Quỷ Dữ, vốn thể hiện trong lịch sử việc đối lập triệt để nhất đối với các giá trị của Chúa Giêsu Kitô. Sau đó, khi đã được ban cho “dấu hiệu” kết luận tuyệt vời về Giêrusalem mới, một Giêrusalem sẽ biểu lộ mối liên hệ yêu thương bền vững giữa Chúa Giêsu Kitô Chiên Con và Giáo hội trở thành cô dâu của Người, sẽ là một việc nhắc đến Thánh Thần nữa (x. Kh 21:10), Đấng sẽ mở cho Thánh Gioan đạt tới một sự hiểu biết cao nhất về Chúa Giêsu Kitô. Việc mở rộng sự hiểu biết do Chúa Thánh thần tạo ra nhằm “cái hơn” này trong mối liên hệ với Chúa Giêsu Kitô sau đó sẽ được chuyển từ Thánh Gioan sang công việc của ngài, và sau đó sang cho độc và thính giả của ngài.

c. Hệ luận nhân bản để phát biểu sứ điệp tiên tri (Kh 10,9-11)

47. Việc mở rộng sự hiểu biết trên, được Thánh thần tạo ra, phát triển trong con người như thế nào? Về phương diện này, chúng ta tìm thấy một dấu mốc đáng lưu ý trong Kh 10:9-11. Một thiên thần, một biểu hiện long trọng của Chúa Kitô (xem Kh 10:1-8), cầm trong tay trái một “cuốn sách nhỏ”, chứa sứ điệp của Thiên Chúa, có lẽ là nội dung “sổi” của Kh 11:1-13, và mời Thánh Gioan cầm lấy nó: “Ngài bảo tôi: “Cầm lấy mà nuốt đi! Nó sẽ làm cho bụng dạ ông phải cay đắng, nhưng trong miệng ông, nó sẽ ngọt ngào như mật ong “(Kh 10:9). Ở lần đầu tiên tiếp xúc với cuốn sách nhỏ, Thánh Gioan rất ngạc nhiên và trải nghiệm sự ngọt ngào khôn tả của Lời Chúa. Nhưng sự quyến rũ của lời nói nghe được sẽ phải nhường chỗ cho việc hấp thụ nó một cách mệt nhọc. Lời Chúa sẽ phải chuyển từ bình diện thần thiêng sang bình diện thông đạt nhân bản qua một việc làm nặng nhọc bên trong, một điều đòi hỏi trí thông minh, cảm giới và khả năng sáng tạo văn chương của Thánh Gioan. Một khi giai đoạn mệt nhọc này đã được hoàn thành, Thánh Gioan sẽ có thể công bố Lời Chúa, một lời từ nay đã rời khỏi trạng thái “sổi” ban đầu của nó, để trở thành lời nói của con người, nhờ việc triển khai công phu này.

d. Đặc tính không thể thay đổi của cuốn sách được linh hứng (Kh 22:18-19)

48. Đến cuối tác phẩm của mình, khi bản văn soạn thảo có thể được gọi bằng biểu thức “cuốn sách này” (Kh. 22:18,19 b), tác giả, khi đặt toàn bộ vào miệng Thánh Gioan, đưa ra tuyên bố triệt để về tính cách không thể thay đổi của chính cuốn sách.

Lấy các bản văn Đệ nhị luật khác nhau làm khởi điểm (xem Đnl 4:2; 13:1; 29:19), tác giả Sách Khải huyền nhấn mạnh đến tính triệt để của nó: từ nay, cuốn sách hiện được soạn thảo có được sự hoàn hảo riêng của Thiên Chúa, Đấng không có gì có thể được thêm vào hoặc bớt đi. Sự tiếp xúc kéo dài mà ngài có được trong thời gian soạn thảo, với Chúa Giêsu, qua trung gian Thánh thần, đã đóng vào cuốn sách một dấu ấn thánh thiêng: người ta có thể nói rằng “một cái gì đó” của Chúa Giêsu Kitô và của Thánh Thần còn lại trong đó, do đó làm cho bản văn xứng đáng đóng vai trò một lời tiên tri, có thể đi vào cuộc sống với khả năng biến đổi nó.

e. Một tổng hợp đầu tiên về chủ đề “nguồn gốc thần thiêng”

49. Các nhận xét đã đưa ra cho phép chúng ta nhấn mạnh, liên quan đến chủ đề của chúng ta, một số đặc điểm căn bản của bản văn Khải huyền. Bản văn này có nguồn gốc thần thiêng rõ ràng, trực tiếp phát xuất từ Thiên Chúa Cha và từ Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà Thiên Chúa Cha đã ban nó cho Người. Đến lượt Người, Chúa Giêsu Kitô ban nó cho Thánh Gioan, đem vào đó nội dung các “dấu lạ” tượng trưng mà Thánh Gioan, với sự giúp đỡ của Thiên thần, đã giải thích, đã thành công trong việc tri nhận. Sự tiếp xúc ban đầu và trực tiếp này của bản văn với bình diện thần thiêng kéo dài sau đó, suốt cuốn sách, trong phần thứ nhất cũng như trong phần thứ của sách, dưới hành động chuyên biệt và chặt chẽ của Thánh thần, Đấng làm mới và biến đổi Thánh Gioan từ bên trong, tạo nơi ngài một “bước nhảy vọt về phẩm chất” trong việc hiểu biết Chúa Giêsu Kytô.

Nội dung mạc khải không tự động chuyển từ bình diện thần thiêng nơi nó phát sinh để phát triển ở bình diện nhân bản nơi nó phải được nghe. Đoạn văn làm cho Lời của Thiên Chúa trở thành lời không kém của con người đòi hỏi nơi Thánh Gioan, sau niềm hân hoan phấn khởi lúc đầu tiên tiếp xúc với Lời, một việc triển khai công phu cho phép sứ điệp bắt tay với thân phận người và trở nên dễ hiểu. “Đoạn văn” này không làm cho nó mất đi đặc điểm khởi nguyên của nó: trong toàn bộ bản văn, từ nay được viết một cách dứt khoát và trở thành một cuốn sách, vẫn còn một chiều kích thánh thiêng vốn thuộc cõi thần thiêng. Chiều kích thánh thiêng này một mặt làm cho bản văn thành không thể thay đổi được, không có khả năng thêm vào hay bỏ bớt, và mặt khác, chiều kích này mang lại cho nó sức mạnh của lời tiên tri khiến nó có khả năng biến đổi hiện sinh một cách quyết định.

Nhóm các tính năng phức tạp trên, một nhóm vốn tạo thành một toàn bộ, giúp ta hiểu, như tác giả của Sách Khải huyền trải nghiệm và hiểu các thành phần của điều ngày nay chúng ta gọi là “linh hứng”: ở đây muốn nói tới sự can thiệp thường hằng của Thiên Chúa Cha; sự can thiệp thường hằng, đặc biệt phong phú và được xây dựng tốt đẹp của Chúa Giêsu Kitô và sự can thiệp thường trực của Chúa Thánh thần. Đây cũng là sự can thiệp của Thiên thần, người diễn giải, và cuối cùng, liên quan đến việc kết nối bản văn với con người, sự can thiệp chuyên biệt của Thánh Gioan. Cuối cùng, bản văn này, Lời của Thiên Chúa đến tiếp xúc với con người, sẽ thành công không những trong việc làm nội dung khai sáng của nó được hiểu rõ, mà còn làm cho nó tỏa sáng trong cuộc sống: nó sẽ được linh hứng và truyền linh hứng.

Cuối cùng, chúng ta hãy lưu ý một sự kiện gây ấn tượng này là cuốn sách cuối cùng của Tân Ước, một cuốn sách chứa đựng nhiều tham chiếu nhất về Cựu Ước và dường như là một tổng hợp của nó, do đó là cuốn sách chứng thực nguồn gốc thần thiêng và đặc tính linh hứng của Cựu Ước, một cách chính xác nhất và được xây dựng tốt nhất. Do đó, một chiều kích mới đã được thêm vào việc tiếp xúc với Chúa Kitô: Cựu Ước cũng được linh hứng và truyền linh hứng nhờ cách giải thích theo Kitô học này.

4. Kết luận

50. Để kết luận phần liên quan đến nguồn gốc thần thiêng của các sách Kinh thánh (nguồn gốc thần thiêng tương ứng với khái niệm linh hứng), trước tiên chúng ta, một mặt, sẽ tóm tắt những gì đã được trình bầy về mối liên hệ giữa Thiên Chúa và các tác giả loài người, bằng cách đặc biệt nhấn mạnh sự kiện này là các trước tác Tân Ước nhìn nhận tính linh hứng của Cựu Ước, và thể hiện cách đọc Kitô học về nó. Sau đó, chúng ta sẽ mở rộng viễn ảnh và tìm cách hoàn tất các kết quả đã thu lượm được: Với việc xem xét theo lối đồng đại (synchnonique), chúng ta sẽ thêm một xem xét vắn tắt theo lối dị đại (diachronique) việc cấu tạo văn chương của các trước tác Kinh Thánh. Mặt khác, việc nghiên cứu các trước tác cá thể đã được trình bày sẽ được hoàn tất bằng một tổng quan về các trước tác Kinh thánh được tập họp lại trong cùng một qui điển. Khía cạnh cuối cùng này sẽ được bàn tới trong hai phần: đầu tiên sẽ nói đến qui điển của cả hai giao ước, tìm thấy trong Tân Ước, sau đó là lịch sử hình thành qui điển và việc tiếp nhận các sách Kinh thánh của Israel và của Giáo hội.

http://www.vietcatholicnews.net/pics/man%20god.jpg

4.1 Tổng quan về mối liên hệ “Thiên Chúa – tác giả loài người”

51. Dự án của chúng ta hệ ở việc, qua một số sách Kinh Thánh, nêu bằng chứng cho mối liên hệ giữa những người viết chúng và Thiên Chúa, bằng cách đặc biệt chú ý đến cách họ chứng thực nguồn gốc thần thiêng của chúng. Kết quả của nghiên cứu này hệ ở “hiện tượng học Kinh thánh” (phénoménologie biblique) về mối liên hệ “Thiên Chúa – tác giả loài người”. Chúng ta trình bày ở đây một bản tóm tắt ngắn gọn về những gì đã được thảo luận, và sau đó các đặc điểm chính về linh hứng sẽ được làm nổi bật, do đó cho phép mô tả các điều kiện của một sự tiếp nhận thích đáng và chính đáng các sách được linh hứng.

a. Tổng hợp ngắn gọn

Trong các bản văn Cựu Ước, mối liên hệ hiện hữu giữa các tác giả khác nhau và Thiên Chúa được phát biểu nhiều cách. Trong Ngũ kinh, Môsê xuất hiện như một nhân vật được Thiên Chúa đặt làm người trung gian duy nhất cho sự mặc khải của Người. Trong nhóm Kinh thánh này, chúng ta tìm thấy lời khẳng định nguyên ủy rằng chính Thiên Chúa đã viết bản Mười Điều Răn và giao nó cho Môsê (Xh 24:12); một điều chứng thực nguồn gốc thần thiêng trực tiếp của bản văn này. Môsê cũng được trình bầy chịu trách nhiệm viết các lời lẽ thần thiêng khác (xem Xh 24:4; 34:27), trở thành người trung gian dứt khoát của Chúa trong toàn bộ Tôra (xem Đnl 31:9). Còn các sách tiên tri, các sách này biết các công thức khác nhau để diễn tả sự kiện này là Thiên Chúa truyền đạt Lời của Người cho các sứ giả được linh hứng, những người có trách nhiệm truyền đạt lời này cho dân. Trong khi trong Ngũ kinh và các sách tiên tri, Lời của Thiên Chúa được tiếp nhận trực tiếp bởi các trung gian do Thiên Chúa tuyển chọn, chúng ta tìm thấy một tình huống khác trong các Thánh Vịnh và sách Khôn ngoan. Trong các Thánh vịnh, người cầu nguyện nghe tiếng Thiên Chúa, Đấng được tri nhận trước hết trong các biến cố vĩ đại của sáng thế và lịch sử cứu độ của Israel, và cả trong một số kinh nghiệm bản thân. Tương tự như vậy, trong các sách Khôn ngoan, việc suy gẫm Lề Luật và các Tiên tri, được linh hứng bởi việc kính sợ Thiên Chúa, nhờ các chỉ dẫn khác nhau, dẫn tới một nền huấn giáo khôn ngoan của Thiên Chúa.

Trong Tân Ước, con người của Chúa Giêsu, hoạt động và hành trình của Người diễn tả đỉnh cao của mặc khải thần thiêng. Đối với mọi tác giả và trong mọi trước tác Tân Ước, bất cứ mối liên hệ nào với Thiên Chúa cũng đều phụ thuộc vào mối liên hệ với Chúa Giêsu. Các Tin Mừng nhất lãm chứng thực nguồn gốc thần thiêng của chính chúng, qua việc trình bày Chúa Giêsu và công trình mặc khải của Người. Đặc tính này chung cho bốn Tin Mừng, nhưng không phải không có những sắc thái nhất định. Các Tin Mừng Mátthêu và Máccô tự đồng nhất với con người và công việc của Chúa Giêsu. Chúng trình bày hành động của Người theo cách kể chuyện, cũng như cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Người, vốn là một xác nhận tối cao của Thiên Chúa đối với toàn bộ các lời lẽ của Người và tất cả những lời khẳng định của Người liên quan đến danh tính của Người. Thánh Luca, trong phần mở đầu Tin Mừng của ngài, giải thích trình thuật của ngài dựa trên mối liên hệ của các nhân chứng tận mắt, các thừa tác viên của Lời Chúa. Cuối cùng, Thánh Gioan quả quyết mình là nhân chứng tận mắt công trình của Chúa Giêsu kể từ lúc bắt đầu. Được Chúa Thánh Thần dạy dỗ và tin vào tư cách làm con thần thiêng của Chúa Giêsu, ngài làm chứng cho công trình mặc khải của Người.

Các trước tác khác của Tân Ước chứng thực theo nhiều cách khác nhau rằng chúng phát xuất từ Chúa Giêsu và từ Thiên Chúa. Qua mối liên kết chặt chẽ nối kết hai tác phẩm của ngài (xem Công vụ 1: 1-2), Thánh Luca làm người đọc hiểu rằng trong Công vụ các Tông Đồ, ngài tường thuật các hoạt động hậu phục sinh của các nhân chứng tận mắt, các thừa tác viên Lời Chúa (xin xem Lc 1:3), những người ngài phụ thuộc trong việc trình bày công trình của Chúa Giêsu, trong Tin Mừng của ngài. Thánh Phaolô chứng thực đã tiếp nhận từ Thiên Chúa Cha sự mặc khải về Con của Người (xem Gl 1:15-16) và đã thấy Chúa Phục sinh (1 Cr 9: 15,8), và ngài đã khẳng định nguồn gốc thần thiêng tin mừng của ngài. Trong những điều liên quan đến việc nhận thức ơn cứu rỗi được Thiên Chúa mặc khải, tác giả thư Do Thái lấy làm nguồn các nhân chứng trực tiếp được nghe lời rao giảng của Chúa. Cuối cùng, tác giả Sách Khải Huyền mô tả một cách tinh tế và độc đáo cách ngài nhận được sự mặc khải được viết một cách dứt khoát và không thể thay đổi trong cuốn sách của ngài: về chính Thiên Chúa Cha, qua trung gian của Chúa Giêsu Kitô, trong các dấu hiệu được giải mã nhờ sự giúp đỡ của một thiên thần giải thích.

Do đó, chúng ta tìm thấy trong các trước tác Kinh Thánh một bộ chứng từ lớn liên quan đến nguồn gốc thần thiêng của chúng, và do đó có thể nói tới một “hiện tượng học” phong phú về mối liên hệ giữa Thiên Chúa và tác giả loài người. Trong Cựu Ước, mối liên hệ được thiết lập, nhiều cách khác nhau, với chính Thiên Chúa. Trái lại, trong Tân Ước, mối liên hệ với Thiên Chúa luôn đi qua trung gian của Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô, nơi Người, Thiên Chúa nói Lời tối hậu và quyết định của Người (Dt 1: 1-2). Trong phần dẫn nhập, chúng ta đã nhấn mạnh sự khó khăn trong việc phân biệt rõ ràng giữa mặc khải và linh hứng, giữa việc thông đạt nội dung và sự giúp đỡ thần thiêng đối với công trình viết. Yếu tố căn bản và nguyên thủy là hành động thông đạt của Thiên Chúa và việc tiếp nhận bằng đức tin các nội dung sau đó được viết ra với sự giúp đỡ của Thiên Chúa. Trường hợp Mười Điều Răn, do chính Thiên Chúa viết và trao cho Môsê (Xh 24:12), rõ ràng ngoại thường, giống như Sách Khải Huyền, trong đó, diễn tả chi tiết diễn trình đi từ việc thông đạt của Thiên Chúa đến việc viết.

b. Các đặc điểm chính của linh hứng

52. Dựa vào các yếu tố vừa được tóm tắt, giờ đây ta có thể trình bầy các đặc điểm của khái niệm linh hứng, và làm rõ khái niệm “linh hứng của các sách Kinh thánh”.

Bằng cách chú ý đến những dấu chỉ làm chứng cho nguồn gốc thần thiêng của các tác phẩm Kinh thánh khác nhau, chúng ta đã nhận thấy rằng trong Cựu Ước, mối liên hệ với Thiên Chúa rõ ràng là căn bản, trong khi trong Tân Ước, mối liên hệ với Thiên Chúa đi qua sự trung gian của con Người là Chúa Giêsu. Mối liên hệ này mang nhiều hình thức. Đối với Cựu Ước, chúng ta hãy đề cập đến mối liên hệ đặc biệt giữa Thiên Chúa và Môsê, được Ngũ kinh mô tả, mối liên hệ được các công thức tiên tri gợi lên, kinh nghiệm về Thiên Chúa, Đấng là nguồn gốc của các Thánh vịnh, nỗi kính sợ Thiên Chúa, đặc điểm của sách Khôn Ngoan. Tự đặt mình vào mối liên hệ sống động này, các tác giả nhận được và nhận ra những gì họ truyền đạt trong lời lẽ và trong các trước tác của họ. Trong Tân Ước, mối liên hệ bản thân với Chúa Giêsu mang hình thức thân phận môn đệ, mà tâm điểm là niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa (xin xem Mc 1: 1 Ga 20:31). Mối liên hệ này với Chúa Giêsu có thể là trực tiếp (Tin mừng Gioan, Thánh Phaolô), hoặc đi qua các trung gian (Tin mừng Luca, Thư Do Thái). Mối liên hệ căn bản này để truyền đạt Lời Chúa được mô tả một cách đặc biệt phong phú và chi tiết trong Tin Mừng Gioan: tác giả đã chiêm ngưỡng vinh quang của Người Con duy nhất đến từ Chúa Cha (x.em Ga 1:14). Ngài là một nhân chứng tận mắt cuộc hành trình của Chúa Giêsu (xin xem Ga 19:35; 21: 24); ngài đưa ra lời chứng của mình, được chỉ dẫn bởi Thánh Thần chân lý (xem Ga 15:26-27). Do đó, ở đây điều minh nhiên là đặc tính Ba Ngôi của mối liên hệ giữa tác giả và Thiên Chúa, có tính nền tảng cho một tác giả được linh hứng của Tân Ước.

Theo chứng từ của các sách Kinh thánh, linh hứng được trình bầy như mối liên hệ đặc biệt với Thiên Chúa (hoặc với Chúa Giêsu), một mối liên hệ qua đó, Người ban cho tác giả loài người – qua trung gian Thánh Thần của Người – những gì Người muốn truyền đạt cho con người. Kết luận này minh họa và xác nhận Hiến chế tín lý Dei Verbum (số 11): Sách Kinh thánh được viết dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần; Thiên Chúa là tác giả của chúng, vì Người sử dụng một số người được chọn, hành động trong họ và qua trung gian của họ; mặt khác, những người này viết như những tác giả thực sự.

Các điểm khác được đưa ra ánh sáng bởi nghiên cứu của chúng ta xem ra có tính bổ sung.

* Hồng ân được đích thân liên hệ với Thiên Chúa rõ ràng có tính nền tảng (niềm tin vô điều kiện vào Thiên Chúa, kính sợ Thiên Chúa, niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa).

* Trong khuôn khổ mối liên hệ này, tác giả hoan nghênh những cách khác nhau qua đó, Thiên Chúa mặc khải chính mình (sáng thế, lịch sử, sự hiện diện lịch sử của Chúa Giêsu thành Nadarét).

* Trong nhiệm cục mặc khải của Thiên Chúa, mà đỉnh cao là việc sai Con của Người, Chúa Giêsu, các phương thức liên hệ của tác giả với Thiên Chúa và các phương thức của mặc khải là các yếu tố thay đổi, tùy thuộc vào thời gian và hoàn cảnh của mặc khải. Có thể kết luận rằng linh hứng tương tự như nhau đối với mọi tác giả của các sách Kinh thánh (như Dei Verbum 11 đã cho thấy), nhưng được đa dạng hóa do sự kiện nhiệm cục trong mặc khải thần thiêng.

c. Làm thế nào tiếp nhận một cách thích đáng các sách được linh hứng?

Nghiên cứu việc linh hứng của các trước tác Kinh thánh cho thấy sự ân cần không mệt mỏi của Thiên Chúa khi nói với dân của Người, và chúng ta cũng đã nêu bật Chúa Thánh Thần, mà trong Người, những cuốn sách này đã được viết ra.

Với sự ân cần của Thiên Chúa cần có sự tương ứng của một lòng biết ơn sâu sắc, tự biểu lộ qua sự quan tâm sống động và chú ý sâu sắc trong việc lắng nghe và thấu hiểu Thiên Chúa, Đấng muốn tự thông đạt cho con người. Tuy nhiên, Thánh Thần mà trong Người các sách này được viết ra cũng là chính Thánh Thần mà trong Người chúng ta lắng nghe. Các môn đệ đích thực của Chúa Giêsu, được sinh động sâu sắc bởi đức tin vào Chúa của họ, đã viết ra các sách Tân Ước. Các sách này cũng nhằm để được lắng nghe bởi các môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (xem Mt 28:19), bản thân những môn đệ này cũng được thấm nhuần niềm tin sống động vào Người (xem Ga 20:31). Họ được kêu gọi đọc các trước tác Cựu Ước, hợp nhất với Chúa Kitô phục sinh, bằng cách tuân theo lời dạy mà Người đã ban cho các môn đệ của Người (xem Lc 24:25-27,44-47). Điều cũng thích hợp không kém là lưu ý tới linh hứng trong khi nghiên cứu các trước tác Kinh thánh một cách khoa học, được thực hiện không theo cách trung lập, nhưng như một cách tiếp cận thần học thực sự. Tiêu chuẩn của cách đọc đích thực được Dei Verbum đề cập, khi Hiến chế này quy định rằng “Kinh thánh phải được đọc và diễn giải dưới ánh sáng của cùng một Thánh Thần, Đấng đã làm cho nó được soạn thảo” (12). Các phương pháp diễn giải đương thời không thể thay thế đức tin, nhưng nếu được thực hiện trong bối cảnh đức tin, chúng có thể tỏ ra rất hữu hiệu để hiểu các bản văn này về phương diện thần học.

4.2 Các truyền thống Tân Ước chứng thực tính linh hứng của Cựu Ước và đưa lại cho nó một giải thích Kitô học

http://www.vietcatholicnews.net/pics/inspiration.jpg 54. Việc nghiên cứu của chúng ta về các bản văn Tân Ước thường giúp làm nổi bật cách chúng đề cập đến Kinh thánh của truyền thống Do Thái. Trong kết luận này, chúng ta trình bày một số thí dụ, qua đó có thể xác định mối liên hệ với các bản văn của Cựu Ước. Chúng ta sẽ kết thúc bằng cách bình luận hai đoạn của Tân Ước, là những đoạn không những chỉ trích dẫn Cựu Ước, mà còn khẳng định rõ ràng tính linh hứng của nó.

a. Một số thí dụ

Tin Mừng Matthêu, khi trích dẫn các tiên tri, có thể được lấy làm thí dụ. Khi nói tới việc nên trọn các lời hứa hoặc lời tiên tri, Tin mừng này không gán chúng cho chính nhà tiên tri (thí dụ bằng cách viết: “Như nhà tiên tri đã nói”), nhưng, minh nhiên hoặc mặc nhiên gán chúng cho chính Thiên Chúa, bằng cách sử dụng thể thụ động thần học: “Tất cả những điều này đã xảy ra để ứng nghiệm lời của Chúa được vị tiên tri nói ra” (Mt 1: 22; 2:15.17 ; 8:17 ; 12:17 ; 13:35 ; 21:4). Tiên tri chỉ là dụng cụ của Thiên Chúa. Do đó, Thánh Matthêu trình bày những gì đã xảy ra với Chúa Giêsu như là việc nên trọn lời hứa xưa, do đó đưa ra một giải thích Kitô học về chúng.

Tin Mừng Luca cho biết thêm rằng cách giải thích đó có nguồn gốc từ chính Chúa Giêsu, Đấng mô tả thừa tác vụ của chính Người bằng cách sử dụng các sấm ngôn của Isaia (x. Lc 4:18-19) hoặc các nhân vật tiên tri Êlia và Êlisa ( xem Lc 4:25-27); với tất cả thế giá do sự phục sinh của Người đem lại cho Người, cuối cùng, Người chứng tỏ dứt khoát tất cả Kinh thánh đã nói về Người, về những đau khổ và vinh quang của Người như thế nào (x. Lc 24:25-27, 44-47).

Trong Tin Mừng Gioan, chính Chúa Giêsu khẳng định rằng Kinh thánh làm chứng cho Người; Người làm như vậy trong các cuộc chạm trán với những người đối thoại, là những người nghiên cứu kỹ những các sách thánh này để tìm được sự sống đời đời (x. Ga 5:39).

Thánh Phaolô, như đã được trình bày rất đầy đủ, nhìn nhận không do dự thẩm quyền của Kinh thánh; ngài làm chứng cho nguồn gốc thần thiêng của chúng và xem chúng như những lời tiên báo cho Tin mừng.

b. Chứng từ của 2 Tm 3:15-16 và 2 Pr 1:20-21

55. Chúng ta tìm thấy trong hai thư này (2Tm và 2Pr) những chứng từ minh nhiên duy nhất về bản chất linh hứng của các sách Cựu Ước.

Thánh Phaolô nhắc nhở Timôtê về sự đào tạo của ông trong đức tin, bằng cách nói rằng: ” Và từ thời thơ ấu, anh đã biết Sách Thánh, sách có thể dạy anh nên người khôn ngoan để được ơn cứu độ, nhờ lòng tin vào Chúa Kitô Giêsu. Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính” (2 Tm 3,15-16). Kinh thánh Cựu Ước, đọc trong đức tin vào Chúa Giêsu Kitô, đã tạo nền tảng cho giáo huấn tôn giáo của Timotê (xem Cv 16: 1-3; 2 Tm 1:5) và góp phần củng cố niềm tin của ông vào Chúa Kitô. Thánh Phaolô nhìn nhận tất cả các Sách thánh này “đều được linh hứng” và tuyên bố rằng Thánh Thần Thiên Chúa là tác giả của chúng.

Thánh Phêrô đặt nền tảng cho sứ điệp tông đồ của ngài (1 sứ điệp tuyên xưng: “quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Giêsu Kitô”: 2 Pr 1:16) trên chứng từ riêng của chính ngài về những điều đã được nhìn và nghe thấy, và trên lời lẽ của các tiên tri. Ngài đề cập (2 Pr 1:16-18) đến sự hiện diện của ngài trên núi Hiển Dung, khi, với các nhân chứng khác (“chúng tôi”: 2 Pr 1:18), ngài nghe thấy tiếng của Thiên Chúa Cha: “Đây là Con Ta, Con yêu dấu của Ta” (2 Pr 1:17 ). Sau đó, ngài nhắc đến lời chắc chắn của các tiên tri (2 Pr 1:19), những vị ngài nói tới: “Nhất là anh em phải biết điều này: không ai được tự tiện giải thích một lời ngôn sứ nào trong Sách Thánh. Quả vậy, lời ngôn sứ không bao giờ lại do ý muốn người phàm, nhưng chính nhờ Thánh Thần thúc đẩy mà có những người đã nói theo lệnh của Thiên Chúa” (2 Pr 1:20-21). Khi nói đến tất cả những lời tiên tri được tìm thấy trong Kinh thánh, ngài quả quyết rằng chúng được liên kết với ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần nơi các tiên tri. Đó cùng là một Thiên Chúa mà tiếng nói được Thánh Phêrô nghe thấy trên núi hiển dung, và là Đấng đã nói qua các tiên tri. Sứ điệp Tông đồ liên quan đến Chúa Kitô phát xuất từ một Thiên Chúa duy nhất, qua hai trung gian này.

Điều có ý nghĩa đối với việc nghiên cứu mối liên hệ giữa Cựu Ước và chứng từ Tông đồ là – trong 2 Tm cũng như trong 2 Pr – các tác giả nói về “các Sách thánh” sau khi đã nhấn mạnh vào công việc Tông đồ của chính họ. Trước tiên, Thánh Phaolô đề cập trước nhất đến việc giảng dạy và đời sống gương mẫu của mình (2 Tm 3:10-11), sau đó là vai trò của Kinh thánh (2 Tm 3:16-17). Thánh Phêrô tự trình bầy mình như một nhân chứng thấy và nghe việc hiển dung (x. 2 Pr 1:16-18), và sau đó đề cập đến các tiên tri xưa (2 Pr 1:19-21). Do đó, hai bản văn cho thấy chứng từ Tông đồ tạo thành bối cảnh cho việc đọc và giải thích các Sách thánh được linh hứng (của Cựu Ước). Do sự kiện này, chính chứng từ này phải được nhìn nhận là được linh hứng.

4.3 Diễn trình viết các Sách thánh và việc linh hứng

http://www.vietcatholicnews.net/pics/240px-Mor-Christ-Cond%C3%A9.jpg 56. Cách tiếp cận dị đại (Approche diachronique) việc viết các trước tác Kinh thánh cho thấy Qui điển (canon) Sách thánh được hình thành dần dần như thế nào trong quá trình lịch sử, từng chặng từng chặng. Đối với Cựu Ước, những chặng khác nhau này có thể được lên sơ đồ như sau:

– viết thành văn các truyền thống truyền miệng, các lời tiên tri, các sưu tập luật lệ.

– biên soạn bộ thu thập các truyền thống đã thành văn, những truyền thống đã dần dần nhận được thế giá và được công nhận như các phát biểu của mặc khải thần thiêng, như Tôra chẳng hạn.

– liên kết các bộ thu thập khác nhau: Tôra, Các Tiên tri và Trước tác Khôn ngoan.

Mặt khác, các truyền thống cổ xưa nhất đã là chủ đề của những việc đọc lại liên tục, và của nhiều giải thích lại. Cùng một hiện tượng như thế diễn ra trong tuyển tập (corpus) đã được cấu thành: do đó, trong Tôra, các tường thuật lập pháp gần kề nhất đề xuất một sự khai triển và giải thích các lề luật trước thời kỳ lưu đày; hoặc một lần nữa, trong sách Isaia, chúng ta tìm thấy dấu vết của những khai triển kế tiếp cũng như dấu vết một trước tác văn học thống nhất hóa.

Cuối cùng, các trước tác sau đó hơn trình bày một việc hiện thực hóa các bản văn cổ xưa, chẳng hạn như sách Huấn Ca, sách đã nhận diện Sách Khôn Ngoan và bộ Tôra.

Việc nghiên cứu các truyền thống Tân Ước đã cho thấy cách chúng đã bắt đầu ra sao từ các truyền thống đã thành văn của Do Thái giáo để loan báo Tin Mừng của Chúa Kitô. Về phương diện này, chỉ cần nhắc lại rằng trước tác phẩm hai phần (diptyque) Tin Mừng Luca – Công Vụ đã tham chiếu rất nhiều ở Tôra, văn chương tiên tri và Thánh vịnh, để chứng minh Chúa Giêsu “làm nên trọn” Kinh thánh của Israel ra sao (Lc 24:25-27,44).

Hiểu được khái niệm linh hứng của Sách thánh, do đó, đòi hỏi phải xem xét “chuyển động bên trong” này của chính các Sách thánh. Khái niệm linh hứng liên quan đến các bản văn đặc thù, nhưng cũng liên quan đến toàn bộ Qui Điển, 1 qui điển thống nhất hóa các truyền thống Cựu Ước và Tân Ước: các truyền thống cổ xưa của Israel, được ghi lại bằng bản văn, đã được đọc lại, bình luận và cuối cùng được giải thích dưới ánh sáng mầu nhiệm Chúa Kitô, Đấng mang đến cho chúng ý nghĩa đầy đủ, dứt khoát.

Chính bằng cách bước theo “các tuyến đường”, “các trục” bên trong Kinh thánh, mà người đọc nó có thể đưa ra ánh sáng cách nhờ đó các chủ đề thần học được mở rộng và triển khai. Cách đọc Kinh thánh đúng qui điển cho phép việc nêu bằng chứng cho việc triển khai mặc khải, theo một luận lý học vừa dị đại vừa đồng đại.

Lấy một ví dụ, thần học về sự sáng thế, được phát biểu ngay ở phần dẫn nhập sách Sáng thế, tìm thấy các khai triển trong văn chương tiên tri (do đó, sách Isaia nối kết ơn cứu rỗi và sự sáng thế, bằng cách hiểu ơn cứu rỗi của Israel như sự kéo dài của sáng thế (Is 43), trong khi các chương 65-66 giải thích việc hồi sinh được chờ mong của Israel như một sáng thế mới (Is 65:17; 66:22) và được triển khai bởi các Thánh vịnh và văn chương khôn ngoan.

57. Trong Tân Ước, người ta có thể, một mặt, làm cho minh bạch “mối tương quan nên trọn” đối với các truyền thống Cựu Ước, mặt khác là chuyển động dị đại của việc phát triển và diễn giải lại các truyền thống, giống hệt với chuyển động được đề cập đối với Cựu Ước.

Để minh họa mối tương quan nên trọn giữa các trước tác Tân Ước và các truyền thống Cựu Ước, chúng ta có thể trích dẫn Tin Mừng Gioan, là tin mừng, trong Lời mở đầu, đã trình bày Chúa Kitô như Lời Sáng tạo, cũng như các thư của Thánh Phaolô gợi lên ý nghĩa vũ trụ trong sự xuất hiện của Chúa Kitô (1 Cr 8:6; Cl 1:12-20), và cuối cùng Sách Khải Huyền, sách đã mô tả chiến thắng của Chúa Kitô như sự đổi mới cánh chung của sáng thế (x. Kh 21).

Việc nghiên cứu dị đại về các sách Tân Ước chứng tỏ cách chúng tích hợp ra sao các truyền thống cổ xưa, đôi khi tiền văn tự, nhưng phản ánh cuộc sống và các biểu thức phụng vụ của cộng đồng Kitô giáo sơ khai: lá thư đầu tiên gửi cho tìn hữu Côrintô, chẳng hạn, trích dẫn một lời tuyên xưng đức tin rất xưa trong 1 Cr 15:3-5. Mặt khác, các cuốn sách được tập hợp trong Qui điển Tân Ước phản ảnh một sự phát triển và biến hóa của việc khai triển thần học và định chế của các cộng đồng tiên khởi: do đó, thư gửi Titô làm chứng cho sự hiện hữu của các chức năng thừa tác vụ và các thủ tục biện phân công phu hơn những gì được tìm thấy trong các thư đầu tiên của Thánh Phaolô.

Cuộc hành trình dị đại ngắn ngủi này phải được nối khớp với một quan điểm đồng đại về việc đọc: bao lâu qui điển Kinh thánh còn được đóng khung bởi các sách từ Sáng Thế tới Khải Huyền, người đọc Kinh thánh đều được mời gọi để hiểu nó như một toàn bộ, như một câu chuyện độc nhất mở ra từ sáng thế đến tân sáng thế được khai mở trong Chúa Kitô.

Do đó, khái niệm linh hứng của Sách Thánh áp dụng vào từng bản văn tạo ra nó, cũng như vào toàn bộ Qui Điển. Khẳng định rằng một cuốn sách Kinh thánh được linh hứng hệ ở việc nhìn nhận rằng nó tạo ra một vectơ, một ống dẫn chuyên biệt và đặc quyền của mặc khải Thiên Chúa tới con người, và các tác giả phàm nhân của nó đã được Chúa Thánh Thần thúc đẩy để phát biểu các sự thật về đức tin, trong một bản văn được định vị trong lịch sử và được cộng đồng tín hữu tiếp nhận làm quy phạm.

Khẳng định rằng Sách Thánh, trong tính toàn bộ của nó, được linh hứng cũng tương đương như nhìn nhận rằng nó tạo thành một Qui Điển, nghĩa là, một bộ các trước tác quy phạm cho đức tin, đã tiếp được nhận như vậy trong Giáo hội. Hiểu như vậy, Kinh Thánh là nơi mặc khải một sự thật không thể vượt quá, một sự thật đồng nhất với một người, là Chúa Giêsu Kitô – Đấng, bằng lời nói cũng như bằng hành động của Người, “đã làm nên trọn” và “hoàn tất” các truyền thống Cựu Ước, và mặc khải Chúa Cha một cách viên mãn.

4.4 Hướng tới một Qui điển cho hai Giao Ước

58. Thư thứ hai gửi Timôtê và thư thứ hai của Thánh Phêrô có một vai trò quan trọng trong việc cho phép cái hiểu đầu tiên và cách tiếp cận đầu tiên về qui điển Kitô giáo của Sách Thánh. Các thư này lần lượt được đặt ở phần kết thúc các thư của Thánh Phaolô và các thư của Thánh Phêrô, và chúng ngăn chặn bất cứ sự bổ sung nào sau này vào các thư này, do đó chuẩn bị kết thúc một qui điển. Bản văn 2 Pr đặc biệt nhắc đến một Qui Điển của cả hai giao ước, và đến việc Giáo hội tiếp nhận các thư của Thánh Phaolô. Những yếu tố này là nhân tố quan trọng cho việc Giáo hội tiếp nhận hai trước tác này. Phần lớn các học giả Kinh Thánh coi hai bức thư là tác phẩm “dưới bút danh” (pseudonymes = được gán cho các tông đồ, nhưng thực sự được viết bởi các tác giả sau này). Điều này không ảnh hưởng đến đặc tính được linh hứng của chúng, cũng không làm giảm tính liên quan thần học của chúng.

a. Kết thúc bộ thư của Thánh Phaolô và các thư của Thánh Phêrô

Cả hai lá thư đều chú ý đến quá khứ và nhấn mạnh đến sự kết thúc sắp xảy ra cho cuộc đời hai tác giả của chúng. Chúng thường sử dụng khái niệm “hồi tưởng” và khuyên độc giả ghi nhớ và áp dụng lời dạy mà các Tông Đồ đã truyền đạt cho họ trong quá khứ (2 Tm 1:6,13; 2:2,8,14; 3: 14; 2 Pr 1:12,15; 3.1-2). Trong mức độ hai bức thư liên tục nhắc đến cái chết của các tác giả của chúng, chúng đóng vai trò kết thúc các bộ thư tương ứng của các ngài.

2 Tm nhắc đến cái chết sắp xảy ra của Thánh Phaolô: vị tông đồ, bị bỏ rơi bởi những người đồng đạo và sau khi bị thua kiện tại triều đình (x. 2 Tm 4:16-18), sẵn sàng nhận vương miện tử đạo: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện”(2 Tm 4:6-8). Tương tự như thế, 2 Pr chỉ ra rằng Chúa đã mặc khải sự cận kề của cái chết của vị tông đồ: “Tôi thiết nghĩ: bao lâu tôi còn sống cuộc đời chóng qua này, tôi phải nhắc nhở để thức tỉnh anh em, đó là điều phải lẽ, vì biết rằng sắp đến thời tôi phải bỏ lều này, như Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cũng đã tỏ cho tôi biết. Nhưng tôi sẽ cố gắng, để trong mọi trường hợp, sau khi tôi ra đi, anh em có thể nhớ lại các điều ấy”(2 P 1:13-15, xem 2 Pr 3:1).

Hai lá thư được trình bày như là bản văn cuối cùng của mỗi tác giả, bản di chúc của ngài, đặt dấu chấm hết cho những gì các ngài muốn truyền đạt.

b. Hướng tới một Qui điển cho hai giao ước

59. Trong 2 Pr 3:2, Thánh Phêrô chỉ ra mục đích của hai lá thư của ngài: ” Anh em hãy nhớ lại những điều các thánh ngôn sứ đã nói trước kia, và điều răn của Chúa, Đấng Cứu Độ, mà các Tông Đồ của anh em đã truyền lại”. Mặc dù bản văn nhắc đến “những điều đã nói” của các vị tiên tri, nhưng không còn nghi ngờ gì về việc tác giả nghĩ đến các sách tiên tri (xem 2 Pr 1:20). Thuật ngữ “điều răn của Chúa và là Đấng Cứu độ” không nhắm một điều răn chuyên biệt nào của Chúa, nhưng có cùng một ý nghĩa y như trong đoạn trước, trong đó “sự hiểu biết về Chúa và Cứu Chúa Giêsu Kitô” được gọi là ” đường công chính” và ” điều răn thánh đã được truyền cho họ “(2 Pr 2:20-21). Thuật ngữ “điều răn”, số ít, được tạo ra tương tự như Tôra, có một ý nghĩa gần như kỹ thuật và, trong 2 Pr 3:2, được nối kết với một thuộc cách (génitif) kép, nó chỉ giáo huấn của Chúa Kitô được các Tông đồ truyền lại, nghĩa là Tin Mừng được hiểu là một nhiệm cục cứu rỗi mới.

2 Pr 3:2 nêu bật các Tiên tri, Chúa, các Tông đồ. Qui điển cho hai Giao ước đã được phân định ranh giới nhờ cách này; trong đó, giao ước đầu được nối kết với các Tiên tri, và giao ước sau được nối kết với Chúa và là Cứu Chúa Giêsu, Đấng được các Tông đồ làm chứng. Hai Giao ước đuợc nối kết mật thiết với chứng từ đức tin vào Chúa Kitô (2 Pr 1:16-21; 3:1-2), Cựu Ước (các tiên tri), nhờ việc giải thích Kitô học của nó và Tân Ước, nhờ chứng từ của các Tông đồ, được diễn tả trong các thư của các ngài (đặc biệt các thư của Thánh Phêrô và Thánh Phaolô), nhưng cũng bởi các Tin mừng, đặt căn bản trên lời chứng của “các nhân chứng tận mắt và những người phục vụ Lời Chúa” (Lc 1:2; xem Ga 1,14).

2 Pr 3:15-16 cũng quan trọng không kém đối với việc thấu hiểu khái niệm Qui điển cho cả hai Giao ước và đặc tính được linh hứng của nó. Thánh Phêrô, sau khi giải thích sự chậm trễ của parousia (quang lâm, xem 2 Pr 3:3-14), đã đề cao việc ngài hội tụ với Thánh Phaolô: “như ông Phaolô, người anh em thân mến của chúng ta, đã viết cho anh em, theo ơn khôn ngoan Thiên Chúa đã ban cho ông. Ông cũng nói như vậy trong tất cả các thư của ông, khi bàn đến các vấn đề này. Trong các thư ấy, có những chỗ khó hiểu; những chỗ ấy cũng như những chỗ khác trong Kinh Thánh, bị những kẻ vô học và nông nổi xuyên tạc, khiến chúng phải chuốc lấy hoạ diệt vong”.

Bản văn nhắc đến một bộ sưu tập các thư của Thánh Phaolô mà các người nhận của Thánh Phêrô đã nhận được. Lời khẳng định rằng Thánh Phaolô đã viết “theo ơn khôn ngoan đã được ban cho ông” trình bày ngài như một người viết được linh hứng. Việc giải thích sai các đoạn văn khó của Thánh Phaolô được so sánh với các giải thích sai “phần còn lại của Kinh thánh”: theo cách này, các trước tác của Thánh Phaolô và thư của Thánh Phêrô, nhờ các trước tác này củng cố, được nối kết với “các Sách thánh”, những sách, giống như các bản văn tiên tri, đều được Thiên Chúa linh hứng (2 Pr 1:20-21).

4.5 Việc tiếp nhận các Sách thánh và việc hình thành Qui điển

60. Những cuốn sách ngày nay hợp thành Kinh thánh của chúng ta không tự trình bày như “qui điển”. Thế giá của chúng, nhờ được linh hứng, phải được cộng đồng nhìn nhận và chấp nhận, bất chấp là Hội đường (Do Thái) hay Giáo hội. Do đó, điều có liên quan là lưu ý tới diễn trình lịch sử của việc nhìn nhận này.

Nền văn học nào cũng có các sách cổ điển của nó. Một sách “cổ điển” xuất phát từ môi trường văn hóa của một dân tộc nhất định, nhưng đồng thời khai mở ngôn ngữ của xã hội đó, và tự đặt để như mô hình cho các người viết trong tương lai. Một cuốn sách sẽ không trở thành “cổ điển” bởi nghị định của một cơ quan nào đó, nhưng vì được công nhận như thế bởi những người có văn hóa nhất của dân tộc. Tương tự như vậy, có thể nói như thế, nhiều tôn giáo có những sách “cổ điển” của họ. Trong trường hợp này, các trước tác được chọn phản ảnh các niềm tin của thành viên các tôn giáo này, những người tìm thấy ở đó nền tảng của thực hành tôn giáo của họ. Đây là trường hợp ở vùng Cận Đông xưa, ở Lưỡng Hà và cả ở Ai Cập nữa. Cùng một hiện tượng như thế đã xảy ra cho người Do Thái, những người, đặc biệt ý thức mình là dân được Thiên Chúa chọn, tự đồng hóa mình cách hữu cơ với truyền thống tôn giáo của họ. Trong số các trước tác khác nhau được lưu giữ trong các văn khố của họ, các kinh sư đã chọn những trước tác chứa đựng luật lệ thánh thiêng, câu truyện lịch sử quốc gia họ, các sấm ngôn tiên tri và bộ sưu tập những lời lẽ khôn ngoan trong đó, dân tộc Do Thái có thể tìm thấy bản sắc của họ và nhận ra nguồn gốc đức tin của mình. Cùng một hiện tượng như thế đã xảy ra nơi các Kitô hữu trong các thế kỷ đầu tiên, với các trước tác tông đồ chứa trong Tân Ước.

Thời kỳ tiền lưu đầy

Các nghiên cứu chú giải cho rằng rất có thể việc lựa chọn các truyền thống thành văn hoặc truyền khẩu, trong đó có các lời lẽ tiên tri và nhiều Thánh vịnh, đã bắt đầu ngay cả trước cuộc lưu đày. Trên thực tế, người ta tìm thấy ở Grm 18:18 công thức sau: “Vì thiếu tư tế, lề luật không chết, thiếu hiền nhân, không thiếu ý kiến, thiếu ngôn sứ, không thiếu lời dạy bảo”. Cuộc cải cách của Giôsigia dựa trên sách Giao ước (có lẽ là Đệ nhị luật) được tìm thấy trong Đền thờ (2 V 23:2).

Thời kỳ hậu lưu đày

http://www.vietcatholicnews.net/pics/exile.jpg Chính ở lúc trở về từ lưu đày, dưới sự thống trị của Ba Tư, chúng ta có thể nói tới các khởi đầu của sự hình thành một bộ Qui điển 3 phần – Lề luật, Các Tiên tri và Trước tác (có bản chất chủ yếu khôn ngoan). Những người sống sót cuộc lưu đầy Babylon cần phải tìm lại bản sắc của họ như dân giao ước. Do đó, điều cần thiết là phải hệ thống hóa lề luật, mà chính nhà cầm quyền Ba Tư cũng yêu cầu điều này. Việc sưu tập các câu chuyện lịch sử đã nối kết những người sống sót trở về với Giuđêa tiền lưu đầy; các sách tiên tri cho phép giải thích các lý do của lưu đầy, trong khi các Thánh vịnh là điều không thể thiếu đối với việc thờ phượng ở Đền thờ vừa được tái thiết. Và vì người ta tin rằng kể từ triều đại Áttắcxátta (465 – 423 trước Công nguyên), việc nói tiên tri đã chấm dứt và Thánh Thần đã được truyền cho các thánh hiền (xin xem Flavius Josephus, Contr. Ap.1, 8,41, Ant. 13,311-313), nhiều cuốn sách về khôn ngoan bắt đầu được trước tác bởi các kinh sư có văn hóa. Những vị này chịu trách nhiệm thu thập những cuốn sách, do tính cổ xưa của chúng, sự tôn kính người ta dành cho chúng và thế giá của chúng, có thể cung cấp cho những người sống sót một bản sắc xác định, cả đối với các chủ nhân mới của họ. Do đó, không được loại trừ các lý do chính trị và xã hội trong việc hình thành ra Qui điển lúc ban đầu. Người ta có thể coi chính phủ của Nơkhemia như giai đoạn cuối cùng hình thành ra Qui điển. Thực thế, 2 Mcb 2:13-15 đề cập đến sự kiện này: Nơkhemia đã thành lập một thư viện, bằng các thu thập tất cả các sách liên quan đến các vị vua và các tiên tri, và các trước tác của Đavít, cũng như các bức thư của các vị vua liên quan đến lễ vật biệt hiến. Hơn nữa, như trong thời của Giôsigia, kinh sư Ezra đọc một cách có thẩm quyền cho dân sách Lề Luật Môsê (xem Nkm 8).

Các kinh sư của thời kỳ hậu lưu đày không bằng lòng thu thập những cuốn sách có thế giá ở bình diện tôn giáo. Họ cập nhật lề luật và các câu chuyện lịch sử, thu thập các sấm ngôn tiên tri và thêm vào đó các bình luận nhằm giải thích chúng, và soạn một cuốn sách duy nhất từ nhiều tài liệu khác nhau (như sách Isaia, hoặc sách Mười hai Tiên tri). Họ còn soạn thảo các Thánh vịnh mới và cho chúng một hình thức khôn ngoan. Họ thống nhất tất cả dưới thế giá của nhà làm luật Môsê và là một nhà tiên tri ngoại hạng, dưới thế giá của Đavít, thánh vịnh gia và của Sôlômôn, nhà thánh hiền. Bộ trước tác do đó mà có rất hữu ích cho việc nâng đỡ đức tin, nhất là lúc phải đối đầu với những thách thức văn hóa của thời Ba Tư và Hy Lạp. Đồng thời, họ bắt đầu chỉnh sửa bản văn của những cuốn sách cổ xưa nhất, nhờ thế, qui điển và bản văn phát triển trong tương quan qua lại với nhau.

Thời Maccabê

Một vấn đề mới xuất hiện khi Antiôkhô IV phá hủy mọi sách thánh thiêng của người Do Thái. Một sự sắp xếp lại đã tự chứng minh là cần thiết, và điều này đã dẫn đến hồi cuối cùng (terminus ad quem) của kỷ nguyên Cựu Ước. Trong các thập niên đầu tiên của thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, Sách Huấn ca thiết lập việc phân loại đầu tiên các sách thánh thành Lề luật, Tiên tri và Trước tác theo sau các ngài (xem Lời mở đầu Sách Huấn ca). Trong Hc 44-50, tác giả kể lại lịch sử của Israel từ nguồn gốc của nó đến thời của ông; trong Hc 48:1-11, ông minh nhiên nhắc đến tiên tri Êlia, trong Hc 48: 20-25, nhắc đến Isaia và trong Hc 49:7-10, nhắc đến Giêrêmia, Êdêkien và Mười hai Tiên tri. Khoảng năm mươi năm sau, 1 Mcb 1:56-57 cho chúng ta hay rằng người Xêlêukít, trong cuộc bách hại của Antiôkhô, đã đốt các sách Lề luật và sách Giao ước, nhưng 2 Mcb 2:14 nhắc đến việc Giuđa Maccabê thu thập các sách được cứu thoát khỏi cuộc bách hại.

Trong thế kỷ thứ nhất của kỷ nguyên Kitô giáo, Flavius Josephus kể lại rằng hai mươi hai cuốn sách được người Do Thái công nhận là sách thánh (Contr. Ap. 1,37-43), những cuốn sách chứa đựng lề luật, các truyền ký, thánh ca và lời khuyên. Con số này có thể được giải thích như sau: nhiều cuốn sách, được tách khỏi các ấn bản Kinh Thánh của chúng ta (ví dụ: Mười hai Tiên tri chẳng hạn), đã được tính như một. Con số 22 có thể có nghĩa là hoàn tất, bởi vì nó tương ứng với số lượng chữ cái trong bảng mẫu tự Do Thái. Ngày nay, người ta đề nghị định niên biểu ngày kết thúc qui điển Do Thái vào thế kỷ thứ hai của thời đại chúng ta, hoặc thậm chí sau đó, vì các lý do nội bộ của Do Thái giáo, hoặc để chống lại các sách Tân Ước được các Kitô hữu coi là Kinh thánh. Sự phân biệt, đôi khi được thiết lập giữa Qui điển Palestine gồm 22 sách và Qui điển lớn hơn trong cộng đồng người di tản, ngày nay không còn cần thiết nữa, đặc biệt sau các khám phá tại Qumran.

Qui điển Cựu Ước nơi các Giáo phụ

Chúng ta cũng tìm thấy sự dị biệt nơi các Giáo phụ của Giáo hội giữa những vị chấp nhận một Qui điển ngắn, có lẽ để có thể đối thoại với người Do Thái, và những vị cũng bao gồm các đệ nhị qui điển (deutérocanoniques, viết bằng tiếng Hy Lạp) nơi các sách được Giáo hội tiếp nhận. Tại Công đồng Hippo, vào năm 393, một công đồng có sự tham dự của Thánh Augustinô, lúc đó mới chỉ là một linh mục tầm thường, các giám mục của Châu Phi, khi ấn định tiêu chuẩn cho việc đọc sách công khai trong phần lớn các giáo hội, hoặc trong các giáo hội chính, đã cung cấp nền tảng cho việc tiếp nhận các đệ nhị qui điển, một việc tiếp nhận đã được áp đặt dứt khoát thời trung cổ. Trong Giáo Hội Công Giáo, chính Công đồng Trente đã chấp thuận hình thức dài của Qui điển, ngược với các nhà cải cách đã trở lại hình thức ngắn gọn của nó. Phần lớn các Giáo hội Chính thống không khác với Giáo Hội Công Giáo, nhưng có những khác biệt giữa các Giáo hội Đông phương cổ xưa khác nhau.

Việc hình thành Qui điển Tân Ước

61. Giờ đây, khi xem xét việc hình thành các sách Tân Ước, trước tiên chúng ta hãy lưu ý sự kiện này: nội dung các sách này đã được các giáo hội tiếp nhận trước khi được viết ra, bởi vì các tín hữu tiếp nhận lời rao giảng của Chúa Kitô và các tông đồ trước khi các sách thánh được soạn thảo. Chỉ cần nghĩ tới lời mở đầu của Tin Mừng Luca, nơi có lời khẳng định rằng bản văn tin mừng của ngài không tìm kiếm gì hơn là cung cấp, qua câu chuyện về Chúa Giêsu, một nền tảng vững chắc cho các giáo huấn mà Theophilus đã nhận được. Mặc dù nhiều trước tác đã từng có đó đây, chúng đều bày tỏ một nhu cầu nội bộ của các cộng đồng Kitô hữu: thêm phần didachè (giáo huấn thành văn) vào kerygma (giáo lý sơ truyền). Ban đầu được đọc bởi các cộng đoàn tụ tập, là các cộng đoàn chúng muốn ngỏ lời, những trước tác này dần dần được truyền đến các giáo hội khác vì thế giá tông truyền của chúng. Không thể nhầm lẫn việc chấp nhận những văn kiện này – nói bằng thẩm quyền của Chúa Giêsu và các tông đồ – với sự tiếp nhận chúng như là “Kinh thánh”, như Cựu Ước. Chúng ta đã nhắc đến các chỉ dẫn được 2 Pr 3:15-16 cung cấp, nhưng phải đợi đến cuối thế kỷ thứ hai, ý tưởng đồng giá trị giữa hai Qui điển mới được tổng quát hóa, và các sách gọi là “Cựu Ước” và các sách gọi là “Tân Ước” mới được đưa lên cùng một bình diện.

Trong thế kỷ thứ nhất của kỷ nguyên chúng ta, người ta đã từ “tài liệu” (document) (có dạng sách cuộn) bước sang “bộ văn bản” (codex) (bao gồm các trang được nối lại với nhau, như thông lệ ngày nay ta quen làm cho một cuốn sách); điều này đóng góp đáng kể vào việc tạo ra các tuyển tập văn học nhỏ có thể được chứa trong một tập (volume) duy nhất, trước hết là các Tin Mừng và các thư của Thánh Phaolô. Những ám chỉ đến việc tạo ra một bộ trước tác Gioan (corpus johanneum) và một bộ các thư chung thì sau này mới có.

Sự cần thiết phải ấn định bộ sưu tập các trước tác có thẩm quyền xuất hiện khi, vào đầu thế kỷ thứ hai, phái ngộ đạo bắt đầu soạn thảo các tác phẩm có cùng thể văn như các tác phẩm của Giáo hội phổ quát (các Tin mừng, Công vụ, các Thư và các sách khải huyền) để phổ biến học thuyết của họ. Nhu cầu lúc đó cảm thấy cần phải thiết lập các tiêu chuẩn chắc chắn để phân biệt các bản văn chính thống và các bản văn không chính thống. Một số nhóm cực đoan Do Thái-Kitô giáo, chẳng hạn như phái Êbion (Duy Bần, chối bỏ thiên tính của Chúa Giêsu), thích lên án việc hoài niệm (damnatio memoriae) của Thánh Phaolô, trong khi nhóm Montanô coi trọng thái quá các đặc sủng. Thánh Luca, với Công vụ các Tông đồ, gây ảnh hưởng quyết định đối với việc ủng hộ học thuyết của Thánh Phaolô, vì phần lớn cuốn sách này mô tả hoạt động của Thánh Phaolô và sự thành công của sứ mệnh ngài. Theo cách riêng của mình, Marcion cũng đóng góp vào diễn trình tiếp nhận các bản văn Tân Ước, với việc ông chọn Thánh Phaolô và Thánh Luca làm các trước tác “qui điển” duy nhất, do đó tạo ra một phản ứng mang ra ánh sáng các trước tác đã được các Kitô hữu tôn kính. Các tiêu chuẩn để biện phân đang dần xuất hiện, trong đó việc đọc công khai và phổ quát, tính Tông truyền, hiểu như truyền thống đích thực của một Tông đồ, và nhất là qui luật đức tin (regula fidei, Thánh Irénée), nghĩa là việc không mâu thuẫn của một trước tác với truyền thống tông đồ được các giám mục trong mọi giáo hội truyền tải. Marcion không thể cho rằng mình có tính Công Giáo (catholicitas) này, vì ông giới hạn truyền thống Tông đồ vào các trước tác của Thánh Phaolô mà thôi và làm ngơ các truyền thống Phêrô, Gioan và Do Thái-Kitô giáo.

Từ cuối thế kỷ thứ hai trở đi, bắt đầu xuất hiện các bản liệt kê các sách Tân Ước. Được phổ quát chấp nhận là Bốn sách Tin Mừng, Sách Công vụ, mười ba thư Thánh Phaolô đã được chấp nhận phổ biến, trong khi có nhiều do dự đối với thư Do Thái, các thư chung và cả sách Khải huyền nữa. Trong một số bản liệt kê, thư thứ nhất của Thánh Clêmentê, mục tử Hermas và một số trước tác khác đã được thêm vào. Nhưng những trước tác này, vì không được đọc một cách phổ quát, nên không được lồng vào Qui Điển. Công đồng Hippo (cuối thế kỷ thứ 4) ấn định Qui điển cho Tân Ước, trên cơ sở đồng thuận phổ quát của các giáo hội, được phát biểu trong nhiều tuyên bố của Huấn quyền và được chứng thực bằng các tuyên bố của các công đồng khu vực khác nhau. Qui điển này được xác nhận bởi định nghĩa tín điều của Công đồng Trent.

Khác với Qui điển Cựu Ước, hai mươi bảy sách Tân Ước được công nhận là các sách qui điển bởi người Công Giáo, Chính thống giáo và Thệ phản. Việc tiếp nhận các sách này của cộng đồng tín hữu nói lên việc công nhận ơn linh hứng thần thiêng của chúng, và phẩm tính sách thánh thiêng và qui phạm của chúng.

Như đã nói, đối với Giáo Hội Công Giáo, việc công nhận dứt khoát và chính thức đối với qui điển “dài” của Cựu Ước và hai mươi bảy cuốn sách của Tân Ước đã diễn ra tại Công đồng Trent (Denz, 1501-1503). Việc ấn định của công đồng đã trở nên cần thiết do sự kiện này: các nhà Cải cách đã loại trừ các sách đệ nhị qui điển khỏi qui điển truyền thống.

Vai Trò Nho Giáo có thể đảm nhiệm
trong thế giới hôm nay

Diễn văn phát biểu của Triết Gia Kim Ðịnh
vào năm 1984 tại Ðệ Nhất Hội Nghị Toàn Cầu về Triết Học Trung Hoa
(The First World Conference in Chinese Philosophy)
tổ chức tại Ðài Trung, Ðài Loan, quy tụ các học giả khắp thế giới
Prepared for internet by Vietnamese Missionaries in Taiwan

1. Mùa hè năm 1949 ở Honolulu có hội nghị quốc tế về triết học qui tụ các đại biểu trên 50 quốc gia (đại diện Á Châu có Ấn Ðộ, Tàu, Nhật). Tôi đặc biệt chú ý tới hội nghị này vì trước hết mục tiêu của hội nghị là tìm ra cho nhân loại một nền triết lý chủ đạo. Hội nghị cho rằng vì thiếu nó mà nhân loại đã trải qua hai cuộc đại chiến hoàn cầu. Thứ đến hội nghị đã đề cử Khổng Tử làm nhạc trưởng cho cuộc hòa hợp Ðông Tây nọ vì ông có chân đứng trên cả hai tàu: vừa chấp nhận và cải thiện đời sống trần gian nhất là trong những mối giao liên của con người. Ðàng khác tuy không chấp nhận lập trường Lão Giáo độc chú vào đời sống tâm linh, nhưng cũng dọn phòng đón nhận mọi giá trị tâm linh (Essay in East West philosophy. By Charles Moore, page 447. University of Hawaii 1951).

2. Ðây là lời tuyên bố làm vinh dự cho chính những người tham dự hội nghị vì câu trên tàng chứa được ba nhận xét đều sâu xa và ơn ích. Có thể nói đây là đỉnh cao nhất mà hội nghị quốc tế Triết Học có thể tới, vì những hội nghị này ít đạt được sự đồng ý về một điều gì, nhiều khi còn là cuộc đối thoại giữa các người điếc, hoặc vấn đề đưa ra bàn cãi có tính cách xa lắc xa lơ với cuộc đời. Nhưng lần này các triết học gia đã nhìn thẳng vào đời, đã thấy đời đang mắc bệnh và gọi đúng tên bệnh tức là thiếu hồng huyết hòa, mà chỉ có bạch huyết rã, làm cho con bệnh trở nên nhợt nhạt, mất hướng đi, không biết đâu là lối về, đáng gọi là vô gia cư (homeless). Hội nghị đã thấy thế và chỉ ra bài thuốc Hòa. Toa thuốc còn ghi là “Hòa tinh thần với vật chất” lại còn chỉ rõ phải đến với dược sĩ nào. Rồi đây trong bài tôi sẽ chứng minh những lời chỉ dẫn nọ đúng đến đâu.

3. Câu tuyên bố trên quả là một sự thành tựu lớn lao do một quá trình nghiên cứu tinh thông về Nho trải dài cả trăm năm với những tên tuổi lẫy lừng như H.G. Creel, những Marcel Granet và những triết gia như Keyserling, Karl Jaspers… mới đạt được lời tuyên bố đó, tuy chỉ xảy ra trong phạm vi triết và chưa được nhiều người chú ý tới cách cân xứng, nhưng quả thật phải kể là một biến cố quan trọng có tầm mức lớn lao. Chúng ta đều biết rằng “Nhân loại bao giờ cũng được dẫn đưa do tư tưởng”. Cho nên các nhà tư tưởng bầu Khổng Tử lên chức lãnh đạo triết lý Ðông Tây, thì cũng là bầu ông lên chức hướng đạo thế giới. Ðó quả là vinh dự không tiền khoáng hậu. Càng lớn hơn nữa khi ta biết rằng đứng về phương diện ngôn từ và lý luận mà đem Khổng Tử đặt bên cạnh Phật Tổ hay Socrates, Platon thì ông có phần lép vế, vậy mà lại được chọn.

4. Tuy nhiên sự tuyên dương long trọng kia lại rơi vào quên lãng liền, không gây nên một âm vang nào đáng kể ngay cả trong lãnh vực triết học, kể cả triết học Trung Hoa thì tự nhiên ta phải hỏi vì đâu. Riêng tôi nghĩ rằng cái hướng hội nghị đưa ra thì thật là đúng nhưng đó mới chỉ là bảng chỉ đường, chưa phải là Chính Ðường. Thế mà trong các lần hội nghị về sau mãi cho tới nay chưa có được một công trình nào đáng gọi là đường, tức trình bày Nho cho thấu triệt xứng tên là một Ðạo học. Vì thế tôi lấy điều đó làm đề tài cho bài này mong tìm ra chổ thiếu sót, hy vọng có thể sửa soạn cho một nền Triết Nho đầy đủ. Nếu không thì cũng là thử đề nghị một lối nghiên cứu Nho kiểu mới. Trước khi vào bài, tôi xin mở ngoặc đơn để nói lên rằng đối với tôi, Khổng Tử chỉ là đại diện cuối cùng của Nho Giáo, Nho Giáo đã có lâu trước, Khổng Tử chỉ là người truyền đạt. Vì thế khi nào bài này nhắc đến Khổng Tử thì xin hiểu đó là Nguyên Nho, nó rộng lớn hơn Khổng Giáo rất nhiều. Bây giờ xin trở lại phân tích lời tuyên ngôn nói trên của hội nghị Honolulu.

5. Trước hết tôi xin giới thiệu lướt qua lối trình bày mà tôi sẽ áp dụng trong bài này. Nó ở tại sự tóm thâu nền triết được nghiên cứu vào một hai điểm then chốt cùng cực và được gọi là cái toàn thể, rồi đem đối chiếu cái toàn thể đó với một số toàn thể khác. Thế rồi cái toàn thể kia lại được chi tiết hóa thành bốn điểm để dể xét thấu đáo. Bốn điểm đó là Từ, Tượng, Số, Chế.

Từ: là lời nói nhằm vào những lời then chốt nhất của nền triết Nho.
Tượng: là tượng hình tiêu biểu, những huyền thoại, truyền kỳ.
Số: là những số biểu tượng gọi là huyền số.
Chế: là những thể chế, thói tục, những phương thức sống, cách thức tu luyện.

6. Ðây là bốn khía cạnh được dùng để xét một nền triết lý nhân sinh xem có được toàn diện chăng. Một nền triết có sống được nhiều hay ít, bao quát được toàn thể cuộc sống hay chỉ phụng vụ phần mớ là tùy nó trải qua được hết cả bốn nấc thử thách nọ. Bởi thế bốn điểm trên có thể dùng như thước đo giá trị từng nền triết về phương diện vào đời. Phải công nhận rằng phần lớn triết học chỉ trải qua được có một chặng đầu. Nguyên Nho thì đã đi hết bốn bước. Nhưng tự Hán Nho thì sa đọa, nên cũng không còn người đi hết được cả bốn chặng nữa. Vì thế mà Nho bớt hiệu nghiệm. Muốn hiệu nghiệm phải có người đi được bốn bước trên. Sách Trung Dung gọi người đó là “kỳ nhân”, người chính cống của Nho “Văn Võ chi chính bố tại phương sách”. Kỳ nhơn tồn, tắc kỳ chính cử. Kỳ nhơn vong, tắc kỳ chính tức. TD 20. Câu trên có nghĩa là triết lý chính trị của Nho (kỳ nhân) còn, thì triết lý chính trị đó sẽ hoạt động mạnh, nếu kỳ nhơn đó mất tức chưa xuất hiện thì triết lý chính trị đó cũng như không. Vậy xin hỏi kỳ nhơn đó là ai? Thưa là triết gia Nho. Nói triết gia mà không là học giả cũng không cũng không cả quan niệm học gia, mà phải là triết gia, thì kinh điển Nho vẫn chỉ là một đống hôi mốc. Phải có triết gia Nho, phải có kỳ nhơn đó thì Nho mới hiện thân lên những tư tưởng sống động để đi vào cõi người ta. Nghĩa là triết gia đó phải có những tư tưởng cùng chiều như Nho, nhưng lại phải hợp cảm quan thời đại, phải có những cái nhìn soi dọi vào các vấn đề khúc mắc hiện nay, thì đấy mới là kỳ nhơn của Nho.

7. Bao giờ người đó đến thì không biết và có lẻ câu hỏi cũng không mấy quan trọng vì Nho vốn là triết lý tác hành, không trông cậy vào tha lực, mà phải tự mình làm ra vì thế câu hỏi đúng tinh thần nho hơn phải là: làm thế nào để chúng ta có hy vọng trở nên kỳ nhân của Nho. Hay nói cụ thể hơn phải hỏi rằng cái đặc trưng của Nho ở chỗ nào và phương pháp nào có thể ám hợp hơn hết cho ta theo để nếu không thành triết gia Nho thì ít ra cũng biết trình bày Nho một cách trung thực để con người thời đại hiểu được Nho hơn. Muốn thế việc cần trước tiên phải biết cách thấu triệt đâu là nét đặc trưng của Nho? Thưa nét đó nằm trong chỗ Nho đi được cả bốn bước Từ, Tượng, Số, Chế. Chúng ta hãy xét từng điểm:

I. TỪ

8. Từ tức là lời. Lời của Nho rất ít. Khổng Tử là hiền triết nói ít nhất trong các triết gia trên đời. Ðã vậy về đạo, về nhân thì hầu ông không có lời nào. Ðấy là nét đặc trưng mà xưa nay chưa mấy được chú ý, nên cần bàn thêm. Lời nói là một phát minh rất quan trọng của con người, nó mở đường cho mọi tiến bộ về sau. Vì thế nó có sức thôi miên, gây thành khuynh hướng thờ lời như một cái gì thần thánh, mà ta còn thấy dấu vết trong những lời chú mà người xưa đã gán cho rất nhiều uy lực; nhưng sau này người ta cũng đã nhận ra tính cách ma thuật của nó. Ngoài ra lời nói cũng có sức quyến rũ khác đến nỗi những triết gia thượng thặng như Lão Trang đã hiểu rõ rằng “Ðạo bất khả ngôn”, Vì thế “tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri”. Vậy mà các ông còn nói lu bù về đạo. Lão Tử thì để lại năm ngàn lời trong Ðạo Ðức Kinh. Trang Tử đề lại lối mười vạn lời trong cuốn Nam Hoa Chân Kinh. Vậy mà kể là còn ít so với các triết gia tên tuổi khác như Plato, Aristotle chẳng hạn, các vị nầy nói có cả hàng triệu lời.

Theo luật răng đau của Bernard Shaw rằng người ta chỉ nói đến răng khi răng đau. Cũng vậy nói nhiều quá về đạo là tỏ ra chưa đạt đạo. Phương ngôn quen nói “Nhất lý thông, vạn lý minh”. Cái lý thì cùng cực đó, Lý trên nhất đó chính là Lý Thái Cực. Nếu đạt được thì tự nhiên mọi lý khác thuộc phần mớ liền sáng ra, khỏi cần nói nhiều. Còn khi không đạt cái Lý viết hoa đó thì cứ phải bày biện lý nọ lẽ kia rườm rà, quanh quất, nên có câu “Thất Lý nhi nhập ư thuật” không đạt lý nên bày ra muôn vàn lý lẽ quanh co (thuật). Vì Lý viết hoa đó là Lý Thái cực, vốn gồm cả âm, cả dương, cả có cả không, cả đa cả nhất, cảtĩnh cả động, cả sáng cả tối… Còn nếu không đạt Lý đó thì chỉ có một bên, một duy nào đó: thiếu mất bên kia, nên lời nói hết hiệu nghiệm: phải thêm hoài mà vẫn chưa cảm thấy đủ. Kinh Dịch nói:

“Nghi giả kỳ từ chi
cát nhơn chi từ quả
Táo nhơn chi từ đa”

“Người còn nghi nan trong lòng thì lời nói rậm lời không có tư tưởng, (ngành ngọn: chi) Người đạt (may mắn) thì nói ít nhưng đủ để bao được cả trong lẫn ngoài. Người táo kết (bất thông) thì nói nhiều. Nhiều nên hiểu là nhiều chủ thuyết mà không có thuyết nào đạt địa vị ưu thắng.

9. Biết thế rồi ta mới thấy sự ít lời trong Nho có cái giá riêng biệt của nó. Ít lời đây không vì bất lực, nhưng là vì lời đã chứa đầy uy mãnh rồi; khỏi cần nói thêm. Theo đó ta phải tìm xem lời nào đầy đủ nhất trong Nho? thưa đó là ba chữ “Chí Trung Hòa”. Ba chữ này tóm thâu tinh hoa Nho giáo cách tuyệt vời cũng như nói lên được nét đặc trưng của Nho cách thấu triệt. Cho nên “Kỳ Nhơn” của Nho phải là người nhận thức ra được mọi chiều kích ba chữ đó, để hiện thực vào thân tâm và diễn đạt ra cho mọi người cùng hiểu. Vậy chúng ta hãy dùng tượng hình và đồ biểu để trình bày sơ lược châm ngôn trên cho được rõ ràng. Câu đó nằm trong lời phát đoan của sách Trung Dung rằng:

“Trung dã giả, thiên hạ chi đại bồn dã.
Hòa dã giả, thiên hạ chi Ðạt đạo dã.
Chí trung hòa:
Thiên địa vi yên.
vạn vật dục yến”.

Ðoạn văn trên chỉ rõ đâu là bốn gốc, đâu là ngọn ngành: Bốn là Trung, ngọn là Hòa. Hòa đây là Thái Hòa tức cái Hòa bao trùm hết tất cả: cả trời đất, cả vạn vật nữa. Và sự bao trùm diễn tả bằng chữ “dục” nghĩa là được nuôi nấng giáo dục.

10. Ðể hiểu rõ hơn tưởng cần giải rộng câu trên. Trước hết là về ba chữ “Chí Trung Hòa”. Trong quyển “Chữ Thời” tôi đã giải rộng bằng câu “có chí trung thì mới đạt được chí hòa”. Cần lắp lại chữ chí để nói lên hai đàng khác nhau. Chí trung là bổn, còn chí hòa là hoa trái ngọn ngành. Phải làm nổi bật cả hai để đặt nổi bước “Lưỡng hành” của Nho mà hội nghị Honolulu đã nói lên bằng hình bóng là “có chân trên cả hai tàu”. Ðiểm lưỡng hành này ít được học giả chú ý, thí dụ James Legge dịch ba chữ kia là “Let the states of equilibrum and harmony exist in perfection”, không dám nói là dịch sai nhưng bản dịch làm chìm mất tính chất lưỡng hành của câu nói. Ðọc lên người ta không thấy Trung là căn bổn, Hòa là hoa trái. Muốn cho dễ thấy được điều đó thiết tưởng phải dịch là “When the centering is utmost, the Harmony is the greatest”. Dịch trung bằng chữ centering bao hàm được sự “tiến hành vào nội tâm”, và khi tiến vào đến cùng cực thì đạt Thái Hòa là hòa âm với dương, tức cái hòa nền tảng, bao trùm cả trời cùng đất. Ðể giải rộng hơn nữa ta có thể nói: “The deeper is the centering, the greater is harmony” câu này đặt theo câu cách ngôn triết Tây: plus la compréhension est petite, plus l’extension est grande”. Tuy câu công lý này chỉ nằm trong bình diện ý niệm, nhưng chiều hướng thì cũng như chí trung hòa, là vào càng nhỏ thì sức bao gồm bên ngoài càng to. Theo đó, cái Hòa bên ngoài có thể dùng như tiêu chuẩn để đo dộ sâu của cái Trung bên trong. Trung là đi vào nội tâm: ta không thể kiểm soát nội tâm, nhưng ta nhờ cái Hòa vốn liên hệ với Trung cách cơ thể, nên có thể nương theo Hòa để biết Trung đi tới đâu. Nhất là khi Hòa còn được đèo thêm dấu hiệu cụ thể là sự nuôi dưỡng: sách nói nếu đạt chí Trung Hòa, thì:

“Thiên địa vi yên.
Vạn vật dục yên”

Khi trời đất được xếp đặt đúng chổ thì vạn vật đều được dưỡng nuôi. Hai chữ vạn vật ở đây nên hiểu theo nghĩa rộng gồm cả tâm lý: ý, tình, chí đều được nuôi dưỡng. Tức triết không chỉ có duy lý hay duy tình, hoặc duy chí mà tất cả tình lý duy cùng tham dự. Còn trong siêu hình là cả thiên lẫn địa, cả âm lẫn dương đều có phần. Tóm lại là không duy nào cả nhưng bao trùm hết. Ðược như vậy thì là dấu Trung đã đi tới chốn: nên có được chí Hòa, và vạn vật được nuôi dưỡng, không còn khát vọng nào đói khát làm reo, khiến triết nhân phải nói thêm, nói hoài. Như vậy, ít lời không là dấu tốt sao? vì thế có thể kết luận được là Nho đã thành công ở bước Từ: không một nền triết nào có thể tóm thâu được vào ba Từ như vậy.
[nextpage title=”II. TƯỢNG”]

II. TƯỢNG

11. Bây giờ xét đến tượng. Tượng là bước thứ hai sau lời. Văn hóa nào bám vào lời thì phải thải bỏ hết các biểu tượng, nên Tượng chỉ có lác đác một cách cầu âu. Nhưng văn hóa muốn đi vào đời tất phải có tượng, vì nó cụ thể gần với việc, nhất là nó mềm giẻo dễ uốn nắn theo hoàn cảnh là điều cần trong đời sống muôn mặt.

Tượng lớn hơn hết trong nguyên nho là những quan niệm về Trời, Ðất, Người được biểu tượng bằng hình tròn vuông, “Thiên viên địa phương”: trời tròn đất vuông. Biểu tượng này không hẳn riêng của Nho trong các nền văn hóa thời sơ khai người ta gặp hình tròn vuông lu bù, như mandala là thí dụ. Nhưng đến nay chúng đã quá lu mờ, không thể biết rõ ban đầu chúng có biểu thị trời đất chăng, cũng không biết trải qua các chặng biến hóa hình tròn vuông đã chỉ thị những gì thì chưa được tìm ra. Tuy nhiên đó là phần việc của khảo cổ và cổ sử. Riêng trong triết, người ta cũng thấy có dấu vết của một số văn hóa nghiêng về tròn, hoặc nghiệng về vuông, thí dụ như thời đại thạch thì nghiêng về tròn, như thấy trong kiểu xếp đặt theo vòng tròn trong các Menhir bên Pháp hay stonehenge bên Anh. Ấn Ðộ có biểu hiệu rắn cắn đuôi, tức cũng tròn. Ngược lại bên Sumer hay Assyria thì thiên trọng về vuông, như thấy trong hình các Ziggurat luôn luôn vuông. Quan sát theo mấy ấn tích lớn đó, ta có thể nói hầu như không nơi nào có được tròn vuông hòa hợp.

Riêng bên Nho thì tròn vuông hòa hợp và có đầy tang chứng: tiêu biểu hơn là cả đền Tế Thiên với nền vuông mái tròn. Xe vua đi thì thùng vuông mui tròn. Nho gia đi giầy vuông đội mũ tròn…

Do biểu tượng tròn vuông trên ta có thể phân ra ba loại triết. Một loại chỉ lo có tròn tức Duy Vô hoặc Duy Nhất, thiếu đa tạp chỉ bằng hình vuông. Vì vậy chỉ bằng vòng tròn. Loại hai chỉ có vuông tức là duy hữu duy đa tạp, không nghĩ tới Nhất hay Vô. Ta hãy chỉ thị bằng hình vuông. Loại ba tròn vuông hỗn hợp. Tục ngữ Việt gọi là “Mẹ tròn con vuông” tức tròn (tinh thần) thẩm thấu hay bao bọc lấy vật chất vuông.

12. Hãy soi sáng bảng trên bằng vài thí dụ tổng quát. Khi đọc Lão Trang chẳng hạn, ta thấy đó là những thiên tài cao cả, có khả năng đưa ra những cái nhìn thấu triệt, những hình ảnh ví von tuyệt vời là ta có cảm tưởng lạc vào một thế giới thần tiên, siêu thoát. Nhưng nếu tìm cách áp dụng những lời đó vào cuộc sống ta sẽ thấy lung tung. Rồi ta nhìn kỹ lại thì cảm tưởng các ngài còn ở lì lại cõi tiên mà ta gọi là cõi Nhất. Các ngài bám vào cái nhất không sao ra đa tạp được, nghĩa là trước sau chỉ có một đề tài và chỉ chuyên về nói: Nổi về Từ, Ý, không còn hơi sức cho việc làm (Dụng, Cơ), Nên ta thấy có sự bất lực kinh niên về kinh tế, chính trị của loại triết này. Như vậy theo câu “Chí Trung Hòa” thì chưa đạt đạo, tức chưa gồm cả âm, cả dương. Thực ra những lời đó không thiếu giá trị nhưng là giá trị phần mớ như về suy luận, hoặc đóng góp vào hội họa, vào tu tâm nhưng đối với đời sống toàn diện thì kể là bất lực.

13. Lối thứ hai gọi được là đa phương. Mới xem ta có cảm tưởng là rất phong phú. Tư tưởng kết nạp một cách rất mạch lạc. Nhưng khi xem kỹ lại thì tất cả chỉ có một chiều: thiếu mối liên hệ nền tảng giữa Có với Không, giữa động với tĩnh, giữa nhất với đa mà chỉ có đa thiếu thống nhất, nên ví được với thần Cộng công chạy vòng quanh núi Bất-chu không tìm ra lối vào thiên thai nói bóng là húc đầu vào cột chống trời, làm trời sụp. Ðó là lối suy luận của Duy lý hay Duy Trí, xây trên những tượng ý (Imago – Idea) của sự vật lẻ tẻ. Kinh Dịch chỉ bằng những hình vuông rời rạc, không tìm ra được vòng tròn để bao bọc lấy, để thống nhất lại: hậu quả là vạn vật không được nuôi dưỡng “Vạn vật bất dục yên” hiểu là những ý niệm đó không được tẩm nhuận trong luồng linh lực trào lên tự thâm tâm (tiềm thức hay siêu thức) để nuôi dưỡng, nên chỉ là những ý niệm trừu tượng khô cằn, đọc vào không đủ để di dưỡng tính tình, nên triết học gia cứ phải đi tìm thêm mãi. Làm người ta liên tưởng tới chuột chạy vòng, chạy hoài mà không tới: qua hết môn phái này đến môn phái kia, quả là đa phương, nhưng thiếu hướng. Thiếu hướng đi thì môn triết học chỉ còn là cực hình Tantalus như Kant có lần đã nói thế, hoặc như Nietzsche gọi sinh viên triết là “các thánh tử vì đạo” (tử vì triết). Vì học triết đã đốc ra sự học rất nhiều ý kiến của nhiều triết gia, cuối cùng không biết theo đường nào: sự học chỉ làm khô cạn tâm hồn, trở nên cực hình và không có nuôi dưỡng, không bơm sinh lực vào tâm trí.

Bởi thế về tinh thần phải nhờ tôn giáo đảm nhận, luân lý cũng phải xây trên tôn giáo. Triết học không đủ uy tín đưa ra được nền luân lý độc lập. Thế những triết học lại thường chống đối tôn giáo: hai đàng không sao cộng tác được với nhau để hướng dẫn đời. Ðành phải đạo đời riêng rẽ. Ðó quả là một tai họa. Vì lý tưởng phải là đạo đời tương thông, và lẻ ra cả hai chỉ là một, y như xác hồn chỉ là một con người. Tuy nhiên ta cũng phải công nhận giá trị của loại này ở chổ chứng tỏ cho ta sự hạn cục của lý trí. Và vì không có lối nào mà nó đã không đi tìm kiếm nhưng đều thất bại thì điều đó cho ta một kinh nghiệm sâu xa về sự bất lực của triết học lý niệm, khiến ta phải tìm ra lối siêu thoát nẻo tâm linh. Cái giá trị của triết học duy trí ở chỗ đó.

14. Loại ba là gồm cả vào lẩn ra, cả trong lẫn ngoài, cả hữu lẩn , cả lý trí lẩn tâm linh. Lý trí hay vòng ngoài được biểu thị bằng hình vuông được bao bọc bằng tâm linh biểu thị bằng hình tròn thành “mẹ tròn con vuông”. Hình này là biểu thị câu “vạn vật dục yên”: vạn vật là vuông được vòng tròn chỉ tinh thần bao bọc. Nếu loại một là lên tiên rồi ở lì lại trên đó, thì loại ba giống Từ Thức lên tiên chơi ít lâu rồi về làng đặng cố làm cho đời sống của làng thêm tốt đẹp.

Tôi không có ý áp dụng ba loại trên vào từng nền triết đích danh nào cả, mà chỉ có ý đưa ra cái khung tiên thiên để làm cho điều muốn nói được thêm rỏ ràng. Nhưng riêng về Nho thì tôi phải cho là một trường hợp ngoại lệ, và nghĩ là nó đã đi sát loại ba hơn hết. Tôi cho chính đó là lý do Nho được hội nghị Honolulu tuyên dương là có chân trên cả hai tàu: Tinh thần và vật chất. Vật chất biểu thị bằng hình vuông được bao quanh bởi tinh thần chỉ bằng vòng tròn. Tròn vuông nói lên chữ Hòa cao sâu nhất. Trên đã nói về nét tròn như chí trung, như cột gốc. Bây giờ ta nói đến hòa như trái, và ta sẽ dùng số để triển khai điều này.
[nextpage title=”III. SỐ”]

III. SỐ

15. Số là bước thứ ba sau tượng. Số cũng là một thứ tượng, là kết tinh của tượng, là bước trừu tượng hóa của tượng. Thay vì nói tròn vuông thì đổi ra số lẻ (tròn) số chẵn (vuông) nhờ vậy mỡ rộng sự dùng tượng ra rất nhiều. Vì mối liên hệ chặt chẽ giữa số và tượng nên những nền văn hóa ít xài số lu bù và cách rất hệ thống, chứng tỏ đã bước mạnh vào đời.

Số củ Nho lấy từ câu Kinh Dịch rằng “Tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số” câu này là sự phân tích của Ngũ hành, mà Ngũ hành là một cơ cấu uyên nguyên của Nho, nhưng cho tới nay chỉ được dùng theo nghĩa ma thuật hoặc dùng để xếp loại còn dùng như cơ cấu thì hầu như chưa ai động đến. Cho nên có một số điểm rất quan trọng mà cho tới nay hầu như chưa thấy học giả nào nhìn ra. Vì thế chúng tôi thấy cần phải bàn sơ qua những điểm đó.

16. Trên tôi đã bày tỏ rằng có ba loại triết lý, mà riêng Nho biểu lộ lưỡng hành cách liên tục bằng cơ cấu. Vậy then chốt cơ cấu đó nằm trong Ngũ hành.

Vì Ngũ hành bao gồm cả có lẫn không. Chính mối liên hệ giữa có với không này làm cơ cấu uyên nguyên. Có là bốn hành chung quanh, không là hành Thổ ở trung cung, cũng gọi là “hành vô hành” “Ðịa vô địa”. Nhờ mối liên hệ then chốt nọ mà có cơ cấu uyên nguyên: giữa Hữu là Dương thông hội với Vô là Âm.

Vì là cơ cấu uyên nguyên nên được cơ cấu hóa thành khung ngũ hành.

17. Chỉ nội cơ cấu trên đủ nói lên nét đặc trưng của Nho mà hai loại triết kia đều không có. Thay vì Ngũ Hành chỉ có tứ tố, gọi Tố là vì cái gì bất động, một chiều như con số bốn chứng tỏ, có chia ra vẫn chỉ là số chẵn, hoặc số 1 cũng vậy.

Ðôi khi ta cũng gặp tố thứ năm như Aristle đã thêm ether vào bốn tố kia là nước, lửa, khí, đất. Nhưng ether thuộc cùng bình diện hiện tượng tức là Hữu không phải là Vô, nên kể là thiếu hành uyên nguyên đi từ Vô sang Hữu, thiếu đối đáp nền tảng. Cả bên Ấn Ðộ cũng chỉ là tứ tố, đôi khi cũng có thấy tố thứ năm như trong phái Sankkhya. Nhưng tố thứ năm cũng thuộc cùng một bình diện nên vẫn không được gọi là hành. Vì hành hàm ngụ sự đi tự Hữu sang Vô hay ngược lại. Do lẽ đó tứ tố không được cơ cấu hóa để đặt nổi mối Tương Quan nền tảng giữa Hữu với Vô và tất nhiên không có những phát triển sâu rộng thành Hồng Phạm, Lạc Thư, Minh Ðường… Tất cả đều là phát triển do câu “Tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số”.

18. Hai bộ số trên mà Kinh Dịch tuyên dương là cột trụ vì chúng chuyên chở những chân lý nền móng của Nho. Bao lâu chưa thấu hiểu thì chưa thể trở nên triết gia của Nho. Sự thấu hiểu này nếu không làm cho học giả trở nên triết gia thì cũng giúp cho dễ phân biệt đâu là bổn đâu là ngọn. Một cái biết cần thiết cho bất cứ ai đáng mặt triết gia; nên cần bàn thêm ít lời.

Hai bộ số trên chứa ba nhóm chân lý phải gọi là ngược chiều con mắt với lương tri, nhưng nó ngược kiểu rễ cây phải mọc ngược chiều với thân cây; gốc cây đâm xuống thân cây mọc lên. Thân cây là những hiểu biết thông thường bằng lương tri, thâu nhận qua giác quan nhất là tai mắt ai cũng thấy ai cũng nghe hết. Nhưng triết nào chỉ gồm có những chân lý loại này thì kể là triết của con mắt, là triết một chiều, vì không có hạn từ ngược để đặt ra mối Tương Quan nền tảng (mà Kinh Hùng gọi là cánh Ðồng Tương). Mấy chân lý này đi theo ba bộ số 2,3,5.

— Số 2. Chỉ chân lý ngược chiều đầu tiên là vũ trụ quan biến hóa biến dịch. Nó ngược lại tai mắt: Vì ta thấy sự vật im lìm, một khối. Ðây lại bảo là sự vật biến động, có hai mảnh nên được cơ cấu hóa bằng số 2. Chính con số này làm nên mối Tương Quan nền tảng nhờ đó Nho đáng tên là tổ sư của cơ cấu luận.

— Số 3. Thứ đến là số 3 chỉ con người. Mắt thường thấy sự vật một là có hai là không. Không có trường hợp thứ ba: triết Tây gọi đó là nguyên lý triệt tam: middle excludle, tiers exclu. Triết Ðông lại bảo có trường hợp thứ ba: đó là vừa có vừa không một trật. Ðiều này chứng tỏ ngoài con người bé nhỏ còn có con người cao cả gọi là đại ngã tâm linh biết xem thấy cách siêu việt bên trên con mắt thường, và vì thế dung hòa cả có với không. Và do đó con số ba chỉ con người nhân chủ. Ðó là chân lý ngược đời, vì theo mắt ta thấy người chỉ là vật bé nhỏ như “cây sậy trước vô cùng tận” Thế mà ngược lại Nho bảo con người có cái Tâm bao la như vũ trụ: “Vũ trụ chi tâm” (Kinh Dịch). Vì thế Nho đáng tên là nhân chủ: con người trong Nho cũng là vua như Trời cùng Ðất.

19. Số 5 (do 2+3=5) thành ra là hành ngũ. Ði về hành ngũ cũng là đi về với số không. Lại ngược chiều nữa: ở đời ai chẳng muốn có, thế mà đây lại bảo đi về không là sao? Thưa không đây chẳng phải là không có gì hết mà là Không viết hoa, là cái Không chân thật làm nền tảng cho mọi cái có. Nó ví như cái giếng thiêng luôn luôn vọt lên nước hằng sống, nên cũng gọi là mạch Cam Tuyền để tâm nhuận những thể chế thói tục. Vì thế mà những thể chế đó được trình bày bằng khung ngũ hành như chúng ta sẽ thấy sau.

Ðó là mấy chân lý ngược chiều gắn liền với ba con số nền tảng của nho 2,3,5. Vì là nền tảng nên Nho nguyên thủy dùng những số này cách tràn ngập nó làm nên xương sống của Kinh Dịch là Kinh cội gốc của nho.
[nextpage title=”IV. CHẾ”]

IV. CHẾ

20. Ðể ngũ hành có thể trở thành khung chứa các thể chế thì tiên Nho đã kép nét ngũ hành lên: trước hết kép thành vòng trong ngoài, sự phân biệt này cung ứng cho hai chữ lưỡng hành cả một lược đồ đặc biệt, làm cho thấy rõ câu “có chân trên cả hai tàu”: chân trong chân ngoài cân đối.

Vòng trong vòng ngoài là căn để của Nho, được phát triển cách cơ cấu ở đợt nhất là ngũ hành; ở đợt nhì gọi là vòng thành thì ngũ hành đã trở thành sự vật đặc. Ðây là vòng đi vào thế sự, đi vào thực hiện, nhưng vẫn lấy tâm linh làm gốc, như các số 6,7,8,9 gốc từ số 5 vậy. Vòng trong vẽ nét đứt chỉ vô, chỉ tâm, chỉ tiềm thức, làm nên phần nội thánh và phải dịch là five agents. Vòng ngoài vẽ nét liền chỉ cỏi hiện tượng tức sự vật đã thành hình, có thể dịch là five elements. Sau đó biến vòng trong vòng ngoài thành Hồng Phạm Cửu Trù.

21. Hồng phạm củu trù là đưa các số của 2 vòng trên xếp vào khung Ngũ hành kép mà thành nên như hình bên dưới:

4 9 2
3 5 7
8 1 6

Vì có 9 lô nên Hồng phạm luôn luôn kèm theo tên cửu trù, tức đem những việc then chốt của đời sống đặt vào 9 ô của Hồng phạm để biệu thị lòng quyết tâm làm những việc đó theo như mẫu mực lớn lao nọ, tức theo trời (Thuận Thiên).

Hồng phạm chính là cái khung tiên thiên đưa ra làm mẫu mực cho các thể chế khác mà quan trọng hơn hết là nhà Minh Ðường với thể chế Nguyệt Lệnh.

Nhà Minh Ðường hay là “nhà vũ trụ” vì có ba tầng chỉ Trời, Ðất, Người. Ðó không chi khác hơn là Hồng phạm cửu trù nhưng có 12 trù (Vì 4 trù góc chia đôi thành 8) để hợp với 12 tháng. Mỗi tháng có mệnh lệnh riêng ăn gì, mặc áo màu nào, ở phòng nào… Vì thế gọi là Nguyệt Lệnh. Ðó là thể chế cho câu tu thân vi bản, tu sao cho người hợp với Trời Ðất thì đạt đạo. Ðó gọi là Thuận Thiên. Sự thuận thiên được biểu thị bằng màu, số, phương phải hợp nhau thí dụ mùa xuân thì phương Ðông, số 3, màu xanh; mùa hạ màu đỏ, thu trắng, đông đen…

Tuần cuối mỗi mùa vua phải ở căn giữa để chỉ sự siêu thoát ra khỏi thời gian và không gian, tức vào ở với hành ngũ vốn là “Hành vô hành, địa vô địa”. Ðể làm chi? Thưa để không làm chi cả. Có còn trong thời gian không gian đâu mà làm. Vậy chỉ còn cách là “làm cái không làm” (Vi vô Vi). Trang Tử gọi đó là “Nhan Hồi ngồi mà quên đi” để có được “Trai tâm” hoặc “Hư tâm”. Khi có hư tâm tức tâm hồn trống trơn thì linh thiêng sẽ xuất hiện, để xảy ra hiện tượng “Giao Chỉ” là chỉ Trời chỉ Ðất giao thoa, làm nên cuộc Thái Hòa. Ðó là đạt đạo. Kinh Dịch nói tóm lược trong câu “An thổ, đôn hổ nhân, cố năng ái”. An thổ là vào ở trong Hành Thổ ngồi quên mọi sự, nhờ đó sẽ biết bản tính con người to lớn như vũ trụ, nên tất cả đều là anh em, do đó có thể yêu mọi người to lớn như vũ trụ, nên tất cả đều là anh em, do đó có thể yêu mọi người, yêu cách trung thực nên không làm hại người vì lòng yêu người của mình. Ðó là ý câu “cố năng ái”.

Xem thế đủ biết thể chế Minh Ðường chính là bản gốc của Nho hay nói tu thân vi bản cũng thế, vì tu thân được cơ cấu hóa thành khung Minh Ðường, nên Minh Ðường cũng là nền móng đường lối tu thân, nó là gốc. Vì vậy thời nguyên nho Vua chỉ trị vì mà không cai trị. Việc cai trị để cho các quan, còn vua dùng hết thời gian mà tu thân, mà ở nhà Minh Ðường. Ðó gọi là vô vi nhi trị. Do đấy mà vua xưa là nhà tư tế thượng phẩm trước hết, còn chức hoàng đế chỉ là thứ yếu, tức cai trị coi như việc tùy có thể ủy thác cho các quan, còn vua thì phải lấy việc tu thân làm gốc.

Thiên Vũ cống không là lịch sữ (không có trong sữ ký) mà chỉ là bản tuồng lý tưởng diển tả cung cách hành đạo của người lý tưởng gọi bóng là Ðại Vũ thực hiện quy chế nhà Minh Ðường. Sau 4 năm tuần thứ 4 phương thì về trung ương hội với các thần ở Cối Kê. Sữ ký của Tư Mã Thiên (SM. T.3.p.413) nói vua tế phong trên núi Thái Sơn, rồi về tế Thiện trên núi Cối Kê (Kinh đô U Việt). Chữ Thiện cũng đọc là Thiền và nghĩa tương đương với thiện nhượng là nhường lại. Ðó là tinh thần hành ngũ: là đi về với chỗ trống trơn, nhường lại hết: tức trút bỏ tất cả để hội với các thần (Hội Kế) hầu đạt bản tính con người đại ngã tâm linh. Ðó quả là một lối thi vị hóa cách mênh mông thể chế Minh Ðường vậy.

26. Hồng Phạm còn là khung cho nhiều thể chế khác như Hà Ðồ, Lạc Thư được dùng nhất là cho việc suy tư triết lý, nó nhấn mạnh trên luật hành động và phản động. Hành động trong Hà Ðồ là đi ra ngoài thế sự rồi, thì phải phản hồi ở Lạc Thư là đi vào hành ngũ: ngồi mà quên đi để tiếp cận với giếng thiêng liêng đặng bồi bổ tinh thần đã sa sút khi tiếp xúc với trần cấu. Ngoài Hà Ðồ Lạc Thư còn có phép tỉnh điền.

Tỉnh Ðiền chính là sự áp dụng Hồng Phạm vào kinh tế. Người ta đã hiểu theo nghĩa đen, nên nẩy sinh ra rất nhiều tranh luận vô ích. Sự thực thì đó chỉ là lời dạy về sự phải phân chia tài sản trong nước sao cho đạt được đồng đều theo lý tưởng của Hồng Phạm, nói bóng là chia mảnh đất ra 9 ô theo cái mẩu mực lý tưởng kia. Vì thế tỉnh điền cũng chính là khung Hồng Phạm vậy. Nó ở tại Trời Người Ðất cùng tham dự cả vòng trong chỉ bằng số 3, cả vòng ngoài chỉ bằng số 9. Nói bóng là Nữ Thần Mộc (số 3) cũng có tên là Cửu Thiên Huyền Nữ (số 9). Thực ra đó là đại diện cho nguyên lý mẹ luôn luôn có mặt trong nguyên Nho tạo nên thế hòa giữa âm dương, giữa nguyên lý trong nguyên Nho tạo nên Kinh Dịch gọi là Càn Khôn. Sự hòa hợp này được biểu thị bằng nhạc. Vì Nhạc là bà chúa sự hòa hợp. Nên nhận xét chỉ có nước vua Thuấn mới có bộ nhạc. Xưa nay chưa đâu có bộ này.

27. Ðó là đại để tinh hoa của nguyên Nho được đúc kết trong ba chữ Chí Trung Hòa mà tôi đã thử trình bày qua 4 đợt từ, tượng, số, chế để cho dễ nhận diện ra nét đặc trưng của Nho

Từ giúp cho có một ngôn ngữ sắc bén, thâu tóm cả hai đường nội ngoại.

Tượng giúp cho nho triết nhìn ra vị trí hòa giải của mình thật bao la.

Số giúp cho đi sâu vào gốc rể để thấy những chân lý ngược chiều làm nên nét đặc trưng không ai có thể phủ nhận.

Chế giúp cho thấy nho vào đời một cách đặc sắc. Câu nói của hội nghị rằng “Khổng có chân trên cả hai tàu” được biểu thị cách cụ thể cùng tột bằng 4 bước trên. Nên hi vọng chúng giúp cho kỳ nhân của Nho xuất hiện. Vì nếu kỳ nhân không ra thì đạo không căn cứ vào ai để hiện hành. “Cẩu phi kỳ nhân đạo bất hư hành”. Hệ từ hạ VIII.4. Xem đấy sẽ thấy nguyên Nho khác với Hán Nho chỗ nào. Xưa nay vẫn có lưu truyền cho rằng: Nho đến hết đời Khổng Tử thì mất chính truyền. Từ đời Hán về sau Nho đã bị bẻ quặt. Tuy lưu truyền đó ai cũng công nhận ít ra cách mặc nhiên, nhưng chưa có một cuộc khai quật để biết nguyên Nho khác với Hán Nho chỗ nào. Tôi thiết tưởng Hán Nho đã nhảng bỏ mất 3 bước sau là tượng, số chế mà chỉ còn chuyên có bước đầu là từ. Ðiều ấy truyền cho tới ngày nay lại càng gia tăng gấp bội, vì khi người Tàu gặp văn minh Thái Tây thì lại càng chú ý đặc biệt đến từ.

28. Hãy nhớ lại buổi đầu một số Nho gia đã bị thôi miên vì logic đến thế nào. Khỏi đi xa về trước chỉ cần nhắc đến Hồ Thích và Phùng Hữu Lan.

Hồ Thích đã say sưa logic đến nổi đã phá luân lý Nho để đề cao khoa lý luận của Mặc Dịch, của Huệ Thi, cuối cùng chẳng đi đến đâu.

Ðến Phùng Hữu Lan thì khá hơn nên ông đã được tặng danh hiệu triết gia. Nhưng danh hiệu này mới do ông Demiéville tặng, chưa được truy nhận rộng rãi. Tuy về phương diện văn học hàn lâm thì họ Phùng có đủ, hơn nữa về đàng triết ông cũng có bề thế vì đã nhìn ra tầm quan trọng của sự vô ích, vô dụng, tức đã nhìn ra sự quan trọng của chữ không. Nhưng rồi ông đã quá nghiêng về phía Hữu, phía Lý trí đến nỗi dùng cả kinh tế để giải nghĩa thượng tầng văn hóa y như cộng sản, thành thử cuối cùng ông đã giản lược Nho giáo vào 4 ý niệm trừu tượng là Lý, Khí, Ðạo, Ðại Khối. Nho giáo là một đạo hành vi mà trình bày qua mấy ý niệm trừu tượng đó tức là đã nhổ Nho ra khỏi đất tâm linh của nó để trồng sang bên đất duy lý đa tạp rồi. Nói trắng ra là ông chặt của Nho mất một chân, còn đâu đủ hai chân tâm vật để mà lưỡng hành. Thành thử ông mới là một học giả, kiêm triết học gia (ideologue) chưa là triết gia, ít ra chưa là triết gia của Nho vốn có cả ngoại lẩn nội. Nội nằm trong ba số tượng, số, chế, còn ngoại nằm trong từ. Ông chỉ chú ý có từ với ý tức là logic. Vì sức quyến dụ của logic quá mạnh nên ta cần xét về điều đó tận nơi tổ của nó là triết học Tây Âu.

29. Logic với từ chỉ là một: Logic là sự phát triển của từ, vì logic thành bởi ý niệm, mà dấu hiệu của ý niệm là từ. Nên bám ý niệm cũng là bám từ: không đi xa hơn từ bao lăm. Ta chỉ xem cái tam đoạn luận trong Logic Aristotle ông tổ của lý luận là thấy ngay: “mọi người phải chết. Socrate là người nên Socrate phải chết”. Ðó là câu mẫu của danh lý hình thức mà mấy năm đầu ban triết tôi đã tốn biết bao thì giờ học để thi, đến cuối cùng gặp câu phê bình của Nietzsche: “Logic là một lối lý luận ngu đần nhất”. Mà ngu thật. Nó có đưa lại yếu tố mới nào đâu, nó chỉ đi từ sự đã biết nọ đến sự đã biết kia, chứ nó không bắc sang một miền khác, sang cỏi vô thí dụ để đặt liên hệ uyên nguyên hầu mở rộng chân trời ôm luôn cả vô thể, vì thế tôi muốn nói tiếp theo Nietzsche rằng “đó là chứng bệnh nan y, đến nổi nhiều người đã biết nó là vô ích mà cũng không sao thoát được”. Khỏi nói về Nietzsche mà hãy lấy ngay ví dụ về Hegel vì ông cực kỳ chống logic mà ông cho là bất động, vì nó thành bởi những ý niệm đặc. Ông đề nghị phương pháp mới thay thế đó là biện chứng pháp là cái gì động, vì có hai mặt, thành bởi những cái chống đối nhau, nên gọi là mâu thuẫn. “Mâu thuẫn là mẹ tiến bộ”, “chống đối là cha tiến hóa”. Mới đọc ông, ta tưởng ông là kiện tướng dẫn ta leo trên cây cầu ngũ sắc để đi sang một thế giới huy hoàng, trung thực có hai chiều. Nhưng cuối cùng ông đã làm ta thất vọng. Cái cầu ông bắc giống cầu vòng, vươn lên thì có cao thật nhưng rồi lại cắm đầu xuống đất, thành ra một thứ duy kiểu mới, nên có người muốn gọi ông là “đứa con trụy thai của Á Châu”. Con Á Châu vì có thể ông lấy hứng để lập ra biện chứng pháp ở cặp đôi Âm Dương của Kinh Dịch. Nhứt là những đề luận lớn của ông như óc thượng sử, óc phiếm thần, sự coi vũ trụ như một cơ thể (thay vì cơ khí) là những điêu na ná với lập trường Nho nên gọi là con Á Châu, nhưng là đứa con sinh sớm nên trụy thai. Vì ông mới đi hết được có một vòng ngoài, gọi là vòng kháng, mà chưa đi tới vòng trong hay vòng sinh nên cuối cùng triết thuyết của ông không thoát khỏi vòng tay của logic tức cũng lại trở nên một duy “ism” như trước, duy tâm.

30. Karl Marx chê ông là đi ngược: đầu ở dưới hai chân giơ lên trời, nên đã chữa lại cho biện chứng đi hai chân lên đất, thành ra duy vật biện chứng (Mao Trạch Ðông đã khai mạc cuộc cách mạng của ông bằng quyển “Mâu Thuẫn” là đi đúng với tinh thần một chiều của Hegel và Marx. Ðó là chiều kháng, thiếu vòng sinh). Chỉ nội một tấm gương đó của Hegel đã đủ chứng tỏ duy lý (logicisme) là một chứng ung thư chưa tìm ra thuốc chữa. Sau bao thất bại mà mãi đến tận nay logic vẫn còn được dưỡng bồi nhiều kiểu khác nhau. Nhưng phát triển đến đâu mặc, triết vẫn tiến tại chỗ. Logic không giúp cho triết có thêm chiều kích tâm linh để có được chân trên cả hai tàu. Chính tổ Logic mà còn vậy, phương chi mình còn học mót thì trông làm sao hơn đặng. Vậy phải trở về con đường hai chiều của nguyên Nho. Hãy nhớ chính vì chỗ hai chiều đó mà hội nghị Honolulu không còn chọn triết Tây vì ngầm hiểu là nó thiếu hai chiều, nên phải chọn triết Nho, vì cho rằng Nho có hai chiều. Nhưng trớ trêu thay triết Nho đã được trình bày một chiều theo triết Tây nghĩa là duy trí. Và đó là lý do tại sao Khổng Tử chưa thể ra cầm trịch là vì ông vẫn còn què, cái Nho được trình bày là cái Nho thọt, nó đi ngược với truyền thống Nho vốn đặt lập đức trước hết, thứ đến là lập công, cuối cùng mới đến lập ngôn, tức tu từ, tu lý bị kể vào hạng bét. Tôi thiết nghĩ cần trở lại con đường cũ gồm cả bốn bước từ, tượng, số, chế thì Nho mới đủ hai chân. Có lẽ chỉ nên đổi thứ tự và chỗ nhấn để hợp tinh thần ngày nay hơn. Thay vì từ, tượng, số, chế, thì nay sẽ là dụng, từ, ý, cơ. Tức nhấn mạnh đến việc làm gọi là Dụng (đối với thể là lý).

31. Từ giữ y nguyên, còn ý thay cho tượng, tức biểu tượng phải bớt để nhường quyền cho ý, cho logic, và đó là phần mà Nho phải học với triết Tây để biết phân tích thấu đáo, luận lý rành mạch, hệ thống hóa chặt chẽ để hợp tâm trạng người mới. Sau đó đến số nên đổi ra cơ để khai thác những thành tựu của cơ cấu luận. Ðó cũng là sự phục hoạt con đường Nho nguyên thủy, thứ Nho còn dùng số, đồ, biểu, biểu tượng. Cho nên với phần này ta có thể đưa lại cho Nho những khía cạnh mới mẻ hợp cảm quan thời nay. Người nay đã chán lối suy tưởng duy lý, trừu tượng, khô khan, và đang mong muốn một thứ triết cụ thể. Với cơ cấu cùng các tùy phụ như tiêu biểu, truyền kỳ, chúng ta có thể nếu không tạo dựng một nền triết mới ít ra cũng nhìn Nho bằng một lối mới, một kiểu trình bày Nho một cách cụ thể, có màu sắc, có truyện tích, điểm pha lịch sử cho bớt tính chất trừu tượng của duy lý. Và trên hết là dụng.

32. Dụng là làm, tôi muốn dùng chữ này thay cho chữ chế là có ý mở rộng chế hơn. Tôi muốn dùng chữ này trước hết để chỉ tất cả mọi lời nói phải hướng vào hành động, cần gạt bỏ những vấn đề quá hàn lâm, thuyết lý. Sau là muốn chỉ những hoạt động nào nhằm tu thân. Vì nhiều thể chế cũ nay đã lỗi thời. Và vì lối tu thân xưa đã thất, nói vắn tắt là nhạc đã mất, nên không còn rõ người xưa tu cách nào. Ta có thể thay vào bằng thi ca, nghệ thuật thì mới có phương tiện thanh lọc tâm tình để cân đối với logic suông.

Ngoài ra nên thêm một lối thiền mà ta ưng ý hơn hết. Vì thiền cụ thể hóa lối tu trong nhà Minh Ðường hơn cả. Thiền đi vào nội tâm để trai tâm y như Minh Ðường là để thực hiện lời Kinh Dịch “Dịch cô tư dã, vô vi dã, tịch nhiên bất động, cảm nhi toại thông thiên hạ chi cố. Dịch là không suy tư, không làm nữa, ngồi bất động để rồi tự nhiên thấu suốt các lời lẽ đất trời”. Phải có thế thì Mạnh Tử mới nói được câu “phản thân nhi thành lạc mạc đại yên”. Có như vậy mới đúng câu mở đầu sách Luận Ngữ “vừa học vừa tập vui biết mấy” (câu 2), và câu sách Ðại Học (câu 3) “Hữu phỉ quân tử như thiết như tha, như trác như ma. Người quân tử chú ý đến tu thân cách chăm chú như người thợ ngọc “như cắt, như dũa, như đục, như mài” Bỏ phần tu luyện thì làm sao có thể nói những câu như thế, làm sao có thể nói vừa học vừa tập vui biết mấy. Không có tập luyện thì lấy gì mà vui. Mà tu tập là một kiểu thiền nào đó. Cái ấy tôi gọi bằng tên bao quát là dụng. Phải Dụng trên đầu, trước cả từ, ý, cơ. Ðó cũng là hợp câu châm ngôn “tiên học lễ hậu học văn”. Văn là từ, ý, cơ đi sau, còn lễ là dụng, là tu luyện, là tất cả những hiện thực phải để lên đầu, phải cho là quan trọng bậc nhất. Như vậy mới có một cái gì thực nghiêm chỉnh đặng cân bằng với lý luận lý trí để thiết lập lại con đường “lưỡng hành”.

33. Ðó là đại để nét đặc trưng của Nho giáo mà hội nghị Honolulu đã gọi là có chân trên cả hai tàu, cả tàu vật chất lẫn tàu tinh thần, cả dụng lẫn từ, ý, cơ. Sỡ dĩ hội nghị đã bầu Khổng Tử lên cầm trịch mà ba mươi lăm nay chưa thấy ông xuất hiện, thì truy căn ra ông còn cụt một chân: mới có đi chân từ, ý, chưa chắc đến chân cơ, dụng. Mới có học giả để nghiên cứu, chưa có triết gia để suy tư, để đưa ra những tư tưởng hướng dẫn. Thế giới tuy bao giờ cũng được hướng dẫn do ý tưởng thực, nhưng nó không chịu ăn đồ hộp là ý tưởng cũ, mà đòi hỏi những tư tưởng mới vọt lên, còn nóng sốt. Ðó là ý nghĩ của tôi về lý do sự chọn lựa của hội nghị Honolulu năm 1949, và tại sao Nho giáo chưa nổi lên được.

Tôi xin kết thúc bài nói bằng câu hỏi sau: có vẻ tư riêng hơi kỳ nhưng vì yêu thực tế nên cứ hỏi là liệu hội nghị này có chọn một triết gia nào, hoặc một loại triết lý nào để dẫn đưa nhân loại trong giai đoạn đang tới chăng? Tôi không biết rồi đây trong các cuộc thảo luận câu hỏi trên có được đặt ra chăng? Nếu không tôi ước mong được mỗi quý vị ghi ý kiến mình vào mảnh giấy nhỏ và trao cho tôi để tôi có bằng chứng mà đo mức độ tâm thức nhân loại hiện nay cũng như dùng làm kỷ niệm quý báu về hội nghị này.

Cám ơn quý vị.

“CON VOI TOÁN HỌC” hay “CHIẾC CHÉN THÁNH” của CHỦ NGHĨA HÌNH THỨC

Bài 4 / 4 trong loạt bài PHILOSOPHY of SCIENCE & Gödel’s Theorem

Bà Mẹ Tự Nhiên (The Mother Nature) đẻ ra không biết bao nhiêu đứa con kỳ lạ, nhưng kỳ lạ nhất vẫn là con người, bởi vì chỉ có con người mới nhận thức được sự tồn tại của chính Bà Mẹ đã đẻ ra nó. Nếu không có con người, Tự Nhiên sẽ trở nên vô nghĩa. Nói cách khác, nhận thức là đặc đặc trưng phân biệt con người với toàn bộ phần còn lại của vũ trụ. Chẳng thế mà Pascal đã định nghĩa “Con người là một cây sậy, một thứ yếu ớt nhất trong tự nhiên, nhưng là một cây sậy có tư tưởng[1], còn Descartes thì tuyên bố: “Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại[2].

Nhưng dù nhận thức đóng vai trò đặc biệt đến mấy đi chăng nữa, nó vẫn chỉ là một sản phẩm của tự nhiên, và do đó nó phải tuân thủ các định luật của tự nhiên. Một trong các định luật cơ bản của tự nhiên mà nhận thức phải tuân thủ là định luật về giới hạn: Nhận thức không bao giờ đạt tới cái tuyệt đối, cái toàn bộ, cái tận cùng – lý lẽ không thể đi tới cùng kỳ lý! Đó chính là điều John Saxe đã nói ngay từ thế kỷ 19 bằng truyện ngụ ngôn “Thầy Bói Xem Voi”, và đã được Reutersvard hoặc Penrose nhắc lại trong thế kỷ 20 dưới dạng “những mô hình bất khả” (impossible models)[3].

Tuy nhiên, khát vọng nhận thức vốn là một lẽ sống, một hòn than vĩnh cửu cháy âm ỉ trong lòng người, nên nhiều lúc nó bùng lên thành một ngọn lửa lớn, đẩy con người vào những cuộc phiêu lưu đầy tham vọng – tham vọng “biết hết mọi thứ”, “biết đến cùng kỳ lý của sự vật”! Điển hình là cuộc phiêu lưu của Chủ Nghĩa Hình Thức (Formalism) trong toán học đầu thế kỷ 20 hòng khám phá ra “Con Voi Toán Học”, y như chuyện Sáu anh chàng ở xứ Indostan muốn khám phá ra con voi của họ.

“Con Voi Toán Học” là gì? Xin tạm trả lời vắn tắt: Đó là một hệ thống chân lý tuyệt đối của toán học (tuyệt đối logic, tuyệt đối phi mâu thuẫn)!

Hệ thống chân lý ấy nếu tồn tại, ắt phải rất “thiêng liêng”, rất “vĩ đại”. Nhưng chính toán học đã chứng minh rằng “Con Voi Toán Học” chỉ là một giấc mơ không tưởng, và do đó nó đã được mệnh danh là “Chiếc Chén Thánh[4] của Chủ Nghĩa Hình Thức” (The Holy Grail of Formalism).

Nhưng mặc dù không tưởng, Chủ Nghĩa Hình Thức vẫn như một “bóng ma” ám ảnh mọi nền giáo dục cho đến tận ngày hôm nay.

1.“Bóng ma” của Chủ Nghĩa Hình Thức:

Nếu Chủ Nghĩa Hình Thức chỉ đóng khung trong phạm vi nghiên cứu toán học thì đó là chuyện riêng của các nhà toán học, nhưng vì nó đã xâm nhập vào giáo dục, làm méo mó hệ thống giáo dục, vì thế nó đã trở thành một vấn đề xã hội!

Thật vậy, Chủ Nghĩa Hình Thức vốn coi toán học là một hệ logic hình thức thuần tuý, hoàn toàn tách rời khỏi thế giới hiện thực, nên một khi đã xâm nhập vào giáo dục, nó biến thành một căn bệnh:

Bệnh sính hình thức, sính biến cái đơn giản thành phức tạp, sính sử dụng ký hiệu và ngôn ngữ “hàn lâm” trừu tượng thay cho ngôn ngữ đời sống, đề cao ngôn ngữ này như “tiêu chuẩn” của chân lý, đến nỗi dám coi thường truyền thống giảng dạy của cha ông, tuỳ tiện vứt bỏ hoặc đảo lộn các chương trình kinh điển, rồi chủ quan áp đặt lên trẻ em một chương trình được gọi là “mới” nhưng thực chất chẳng có gì mới, mà chỉ là một sự nhồi nhét hàng đống kiến thức hình thức sáo rỗng, biến môn toán thành một môn học khó hiểu, nặng nề, đẩy học sinh tới chỗ mất kiến thức cơ bản, phải lao đi học thêm lu bù nhằm đối phó với thi cử, miễn sao giành được “miếng cơm manh áo”. Đó chính là tình trạng “dạy giả + học giả” tràn lan hiện nay.

Để chấn chỉnh giáo dục, phải học kỹ lại bài học lịch sử về Chiếc Chén Thánh của Chủ Nghĩa Hình Thức. Học lịch sử chính là học cách nhận thức!

Đó là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của giáo dục mà Henri Poincaré đã từng nhắc nhở chúng ta ngay từ đầu thế kỷ 20: Nhiệm vụ của nhà giáo dục là phải tạo điều kiện để cho nhận thức của trẻ em được trải nghiệm lại tất cả những gì mà tổ tiên của các em đã từng trải qua. Sự trải nghiệm lại phải tiến hành một cách nhanh chóng thông qua những chặng nhất định, nhưng tuyệt nhiên không được lấp liếm bỏ sót một chặng nào cả. Với quan điểm đó, lịch sử khoa học chính là người dẫn đường cho chúng ta[5].

Trong những chặng đường của Chủ Nghĩa Hình Thức, có một chặng rất đặc biệt, không thể lấp liếm bỏ qua, đó là chặng đường của Gottlob Frege, người từng được coi là “Ngọn đèn pha của Chủ Nghĩa Hình Thức”.

2. Ngọn đèn pha của Chủ Nghĩa Hình Thức:

Ngay từ thế kỷ 18, Immanuel Kant đã nói: “Hình học dựa trên trực giác không gian; Số học dựa trên trực giác thời gian[6].

Bước vào thế kỷ 20, David Hilbert phủ nhận Kant một cách tuyệt đối. Ông cho rằng toán học thực chất là các quan hệ logic, do đó những quan hệ này càng được hình thức hoá cao bao nhiêu thì toán học càng chính xác bấy nhiêu. Nói cách khác, toán học không phải là một khoa học thực dụng như vật lý, hoá học, bởi nó không nghiên cứu bản chất vật chất của các đối tượng, mà chỉ nghiên cứu mối quan hệ logic giữa các đối tượng đó mà thôi. Nếu toán học vấp phải nghịch lý, ấy là vì toán học trước đây vẫn còn vướng quá nhiều “bụi trần”, tức là chưa thật sự toán học, chưa thật sự là một hệ logic thuần tuý hình thức. Muốn có một nền toán học chân chính, phải giải phóng toán học một cách tuyệt đối khỏi thế giới hiện thực, phải hình thức hoá toán học một cách tuyệt đối từ nền móng cho tới thượng tầng. Muốn vậy, phải xây dựng lại toàn bộ cơ sở của toán học, hướng tới mục tiêu cuối cùng là hệ thống “siêu-toán-học” (metamathematics) – một hệ thống logic tuyệt đối siêu hình, hoàn toàn độc lập với thế giới hiện thực, cho phép giải thích và chứng minh mọi mệnh đề toán học cho tới cùng kỳ lý, loại trừ hoàn toàn mọi nghịch lý, mâu thuẫn. Hilbert tin chắc rằng với một phương pháp nghiên cứu đúng đắn, trước sau toán học sẽ đạt tới mục tiêu đó. Câu châm ngôn nổi tiếng của ông, “Chúng ta phải biết, Chúng ta sẽ biết” (Wir müssen wissen, wir werden wissen), được khắc trên bia mộ ông đã nói lên tham vọng “vá trời lấp biển” của ông.

Để chứng minh tư tưởng của mình là đúng và khả thi, bản thân Hilbert đã bỏ công xây dựng lại Hình Học Euclid. Xuất phát từ một hệ 20 tiên đề[7], ông đã xây dựng nên một thứ hình học thuần tuý hình thức, không cần hình vẽ, được gọi là Hình Học Hilbert, ra mắt năm 1899 dưới tên gọi Cơ Sở Hình Học (Grundlagen der Geometrie). Nhưng không thoả mãn với những gì đã làm được, Hilbert kêu gọi toàn thế giới toán học cùng bắt tay vào việc tái thiết toà lâu đài toán học theo “thiết kế” của Chủ Nghĩa Hình Thức.

Mục tiêu tiếp theo là Số Học: Hãy xây dựng cho số học một hệ tiên đề hình thức đầy đủ, độc lập, phi mâu thuẫn, để từ đó xây dựng nên một lý thuyết số học tuyệt đối hình thức. Đó chính là nội dung cơ bản của Bài Toán Số 2 trong số những bài toán ông nêu lên tại Hội Nghị Toán Học Thế Giới ở Paris năm 1900, như một thách thức đối với toán học thế kỷ 20.

Với uy tín lừng lẫy của bản thân, Hilbert đã tập hợp được phần lớn các nhà toán học đương thời dưới ngọn cờ của mình, bao gồm cả một kẻ thù vốn không đội trời chung với ông về hình học, đó là Gottlob Frege.

Thật vậy, Frege đồng ý với Kant rằng hình học dựa trên trực giác, và do đó đã quyết liệt chống đối Hilbert trong ý tưởng biến hình học thành một mớ logic hình thức thuần tuý. Nhưng trớ trêu thay, Frege lại đồng quan điểm với Hilbert khi cho rằng số học dựa trên logic, do đó đã trở thành cứu tinh của Hilbert về mặt số học: Frege đã lao vào làm một cuộc cách mạng về số học, nhằm biến số học thành một hệ logic hình thức thuần tuý, đúng như Hilbert mong muốn!

Để làm cuộc cách mạng đó, Frege bắt đầu xây dựng lại số học từ nền móng – định nghĩa lại khái niệm về số. Với Frege, từ nay số 2 không được hiểu một cách “tầm thường” là 2 con gà, 2 con vịt, … mà phải hiểu là tập hợp của các cặp đôi (pairs); 3 là tập hợp của các “bộ 3” (triples), một cách tổng quát, số là tập hợp của các tập hợp.

Định nghĩa ấy thể hiện tham vọng chính xác hoá các khái niệm toán học đến vô chừng vô độ: Frege đã tìm mọi cách “tẩy rửa”, vứt bỏ mọi ý nghĩa dính dáng đến vật chất cụ thể của số, vì chừng nào số còn gắn với ý nghĩa vật chất cụ thể thì chừng ấy số vẫn chứa đựng bên trong nó những “hạt sạn phi-toán-học” – nguồn gốc dẫn tới nghịch lý mâu thuẫn. Một nhà toán học đã bình luận rằng với  Frege, 3 không phải là “number three” (số 3), mà là “the threeness” (cái 3) (!).

Sau khi thanh tẩy và hình thức hoá tuyệt đối các khái niệm cơ sở của của số học, Frege đã xây dựng nên hàng trăm định lý của số học dưới dạng hình thức tuyệt đối. Toàn bộ lý thuyết của ông đã được công bố trong bộ sách đồ sộ mang tên Cơ Sở Số Học (Grundlagen der Arithmetik), một bộ sách đã làm rung chuyển thế giới toán học. Thật vậy, các nhà toán học theo Chủ Nghĩa Hình Thức đã thật sự bị choáng ngợp trước “vẻ đẹp siêu thoát tinh tuyền hình thức” trong lý thuyết của Frege. Họ phấn chấn đến mức tưởng rằng sắp tìm thấy “Chiếc Chén Thánh”, và tưởng rằng “thiên đường của chủ nghĩa hình thức” đã lấp ló đâu đó ở phía chân trời!

Đó là lúc cuộc đời Frege đạt tới tột đỉnh vinh quang. Tên tuổi của ông nổi lên như sóng cồn. Người ta gọi ông là “ngọn đèn pha của Chủ Nghĩa Hình Thức”. Cuốn Cơ Sở Số Học của ông được tôn vinh như một kiệt tác toán học, sánh vai với những tác phẩm toán học vĩ đại khác, như bộ Cơ Sở của Euclid chẳng hạn, và thậm chí được ca ngợi như cuốn “Kinh Koran của chủ nghĩa logic hình thức”, … (!)

Nếu câu chuyện dừng lại ở đây, thì quả thật không sao nói hết được sự thán phục mà người đời đã dành cho ông, và từ đó cũng có thể hiểu được vì sao Frege đã có một ảnh hưởng sâu đậm và lâu dài trong giới toán học và giáo dục toán học đến như thế: Sâu đậm và lâu dài đến nỗi sau khi lý thuyết của ông sụp đổ, ảnh hưởng của ông vẫn tiếp tục tồn tại – tồn tại không chỉ trong thời của ông và tại quê hương ông, mà tồn tại kéo dài cho tới tận ngày nay trên khắp thế giới, ngay cả trong những nền giáo dục xa lắc xa lơ với ông về mặt không gian lẫn thời gian, trong đó có nền giáo dục Việt Nam.       Ảnh hưởng ấy phổ biến đến nỗi được coi như một thứ chủ nghĩa, được gọi là “chủ nghĩa Frege mới” (Neo-Fregeanism), hoặc chủ-nghĩa-lý-thuyết-logic-tập-hợp (logic-set theoreticism), vì công cụ chủ yếu Frege sử dụng để xây dựng Cơ Sở Số Học là logic và lý thuyết tập hợp.

3. Chủ nghĩa Frege mới:

Cách đây hơn 40 năm, tôi thấy chủ-nghĩa-lý-thuyết-logic-tập-hợp chỉ mới xuất hiện trên trường đại học, mặc dù không nghe thấy vị giáo sư nào nhắc đến cái tên Gottlob Frege. Nhưng hiện nay chủ nghĩa này đã tràn xuống trường phổ thông, mặc dù hầu như không thầy cô giáo dạy toán nào ý thức được rằng mình đang thực hành cái chủ nghĩa do Frege khởi xướng từ một thế kỷ trước đây.

Có lẽ các nhà biên soạn sách giáo khoa và các thầy cô giáo dạy toán của chúng ta hiện nay không ý thức được rằng họ đang hàng ngày sử dụng những ký hiệu và ngôn ngữ của một lý thuyết đã sụp đổ, chẳng hạn ký hiệu ” (mọi), $ (tồn tại), v.v. vì đó chính là những ký hiệu và ngôn ngữ do Frege sáng tác ra khi ông biên soạn bộ Cơ Sở Số Học. Cũng có thể các nhà biên soạn sách giáo khoa và các thầy cô giáo dạy toán của chúng ta càng không ý thức được rằng họ đang bắt chước Frege trong cách trình bầy toán học, sính diễn đạt toán học bằng những ký hiệu trừu tượng hình thức, xa rời ngôn ngữ đời sống, mà hoàn toàn không biết rằng chính Frege cuối cùng đã tự phủ nhận tư tưởng toán học của bản thân mình.

Đó là một sự thật trớ trêu, quá trớ trêu, bởi vì người ta đua nhau bắt chước một phong cách của một tác giả mà chính tác giả ấy đã tự chê bai và từ bỏ. Sự trớ trêu ấy đã làm cho nhà toán học Philip Kitcher phải chua chát thốt lên rằng: “Triết học toán học 30 năm qua chỉ là một chuỗi những ghi chú cho Frege”. Một nhà toán học khác là Reuben Hersh[8], tác giả cuốn “What is Mathematics, Really?” (Thực ra Toán Học là gì?), cũng buồn rầu thừa nhận: “Bất chấp sự thất bại về mặt triết học, chủ nghĩa lý thuyết logic tập hợp vẫn thống trị nền triết học toán học ngày nay”.

Thật vậy, bất chấp những lời trăng trối do chính Frege để lại, hậu thế vẫn tiếp tục đi theo vết xe đổ của ông. Đó là một hiện tượng kỳ quái, khó hiểu, và có thể là độc nhất vô nhị trong lịch sử khoa học nói chung và toán học nói riêng. Để “giải mã” hiện tượng kỳ quái đó, có người vội đặt dấu hỏi nghi vấn: Phải chăng trong di sản của Frege vẫn có cái hay cái đẹp đáng bắt chước, vì thế mới có “chủ nghĩa Frege mới”?

Xin trả lời ngay rằng KHÔNG!

Những ai còn nghĩ như thế thì chỉ chứng tỏ rằng người đó không biết gì về Frege, không biết gì về những lời trăng trối của Frege, không biết gì về lịch sử toán học thế kỷ 20, không biết gì về những bài học đã được rút ra từ lịch sử đó. Những người này có thể từng được coi là “giỏi toán”, có một vốn liếng toán học tiếp thu từ những thập kỷ cách đây vài chục năm, nhưng sau đó chỉ đem những vốn liếng đó ra hành nghề giảng dạy mà không chịu tiếp tục học hỏi mở mang thêm, không biết rằng thế giới đã thay đổi, đặc biệt từ cuối thế kỷ 20 cho đến nay, do đó vẫn tiếp tục “nằm trong chăn” để tụng niệm ngôn ngữ của Frege, coi đó là ngôn ngữ chân chính và duy nhất của toán học, và do đó vô tình tiếp tục nuôi dưỡng Chủ Nghĩa Hình Thức.

Với những người mê ngủ đó, cần phải gõ lên tiếng kẻng báo động: Chủ Nghĩa Hình Thức đã lỗi thời rồi, thậm chí đã chết rồi, chỉ còn cái “bóng ma” của nó vẫn cứ ám ảnh những nhà giáo dục mê ngủ mà thôi!

Thật vậy, cả Hilbert lẫn Frege đều đã bị chứng minh là nhầm lẫn. Định Lý Bất Toàn (Theorem of Incompleteness) của Kurt Gödel đã phủ nhận toàn bộ chương trình Hilbert, phủ nhận toàn bộ công trình hình thức hoá số học của Frege.

Kết luận trên có thể làm cho một số “học giả” dẫy nẩy lên phản ứng: Phủ nhận hình thức hoá là phủ nhận toán học, vì hình thức hoá là một phương tiện không thể thiếu của toán học, nhờ hình hức hoá mới có toán học ngày nay, chẳng hạn, nếu không hình thức hoá thì làm gì có số ảo i = , làm gì có lý thuyết số phức, làm gì có khoa học logic, và do đó làm gì có khoa học computer ngày nay, v.v. Vậy phủ nhận hình thức hoá tức là chống lại toán học, chống lại khoa học (!).

Với những “học giả” đó, cần phải nhắc lại điệp khúc “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”, và đặc biệt, phải trích ý kiến của Reuben Hersh trong cuốn “Thực ra Toán Học là gì?” (đã dẫn). Hersh viết:

Logic là gì? Phải chăng đó là những quy luật tư duy chính xác? Kinh nghiệm thường ngày và những nghiên cứu phong phú của các nhà tâm lý học cho thấy phần lớn tư duy của chúng ta không tuân theo logic. Từ đó suy ra rằng, hoặc phần lớn tư duy của con người là sai, hoặc logic chỉ tác động trong một phạm vi quá hẹp. Computers chính là những chiếc máy tuân thủ logic, đó chính là câu trả lời! Logic là những quy tắc của máy tính! Logic cũng áp dụng cho con người khi con người cố gắng biến mình thành những chiếc máy tính!

Xin nói rõ thêm: Bài viết này không phản đối nhu cầu hình thức hoá trong nghiên cứu toán học, nhưng phản đối việc hình thức hoá, máy móc hoá, chương trình hoá bộ não của học sinh! Học sinh là con người chứ không phải những chiếc máy tính, đúng như Hersh đã nói! Xin đừng cố gắng biến học sinh thành máy tính! Xin các nhà giáo dục hiểu cho rằng đối tượng của giáo dục là con người chứ không phải những chiếc máy! Nghệ thuật của sư phạm có những đặc điểm riêng mà một người “giỏi toán” có thể không hiểu, bởi vì bản chất của giáo dục là KHAI TÂM chứ không phải là nhồi nhét kiến thức! Ngay cả đối với sinh viên đại học chứ đừng nói tới học sinh, việc khai tâm vẫn quan trọng hơn khai trí, bởi vì một khi tâm đã động thì học sinh và sinh viên có thể tự học, tự nghiên cứu, tự mở mang, và sẽ trở thành một trí thức chân chính, trong khi những con vẹt được điểm 10 trong thi cử sẽ chỉ trở thành những chiếc máy tính loại xoàng. Rất tiếc là lối dạy học nhồi nhét hình thức ngày nay chủ yếu chỉ tạo ra những con vẹt nhiều hơn là những trí thức chân chính!

4. Thay lời kết:

Riêng Frege, không cần đợi đến khi Định Lý Bất Toàn ra đời, ông đã thay đổi quan điểm, tự ông đã phê phán tính hão huyền của Chủ Nghĩa Hình Thức. Tại sao bỗng nhiên Frege thay đổi, và Frege đã thay đổi như thế nào? Đó là một bí mật lý thú cần phải làm sáng tỏ, và sẽ được làm sáng tỏ.

Rất tiếc là nhiều nhà giáo dục hiện nay đang bắt chước Frege lại không hề biết điều đó, và do đó họ không ý thức được rằng việc ra sức nhồi nhét vào đầu trẻ em những khái niệm trừu tượng xa rời thực tiễn không những chứng tỏ sự thiếu hiểu biết về lịch sử toán học, đồng thời còn tỏ ra thiếu hiểu biết về nghệ thuật sư phạm.

Sydney ngày 12 tháng 02 năm 2009

Phạm Việt Hưng


[1] L’homme est un roseau, le plus faible de la nature, mais c’est un roseau pensant.

[2] Je pense, donc je suis.

[3] Xem “Thầy Bói Xem Voi” (Phần 1) của Phạm Việt Hưng, Khoa Học & Tổ Quốc số Tháng 02-2009.

[4] “Chiếc Chén Thánh” (The Holy Grail) là một thuật ngữ  có nghĩa đen là chiếc ly Chúa Jesus đã dùng trong bữa tiệc cuối cùng với các môn đệ trước khi Chúa bị hành hình. Nhưng thuật ngữ này thường được dùng trong nền văn hoá tây phương với nghĩa bóng, ám chỉ những khát vọng có thể rất thiêng liêng, vĩ đại, nhưng quá xa vời, rất khó với tới, thậm chí không bao giờ với tới.

[5] Trích “L’enseignement mathématique”, Henri Poincaré, 1899

[6] Xem “What is Mathematics, Really?”, Reuben Hersh, Chapter 7, Immanuel Kant

[7] Xem thêm: “Hệ tiên đề Hilbert có hoàn hảo?”, Phạm Việt Hưng, Tia Sáng tháng 08-2002.

[8] Giáo sư danh dự Đại học New Mexico, nổi tiếng vì những công trình triết học toán học, từng đoạt Giải Thưởng Sách Quốc Gia Mỹ năm 1983 nhờ cuốn “Mathematical Experience”. Cuốn “What is Mathematics, Really?” được đánh giá là một “outstanding book” (một cuốn sách nổi bật) của năm 1998.

 

Bên Ngoài Khoa Học

Bài 2 / 4 trong loạt bài PHILOSOPHY of SCIENCE & Gödel’s Theorem

Nếu ngày xưa có rất nhiều người sùng bái thần thánh thì ngày nay có rất nhiều người sùng bái khoa học. Những người sùng bái khoa học thường tự phụ cho mình là thông thái hơn, hiểu biết hơn. Nhưng nếu quan sát thực tế thì sẽ thấy số người đi lễ nhà thờ hoặc chùa chiền ngày nay vẫn rất đông, trong đó có rất nhiều người đang làm khoa học. Tại sao vậy?

Đơn giản vì khoa học không đủ để trả lời rất nhiều câu hỏi thiết thực do cuộc sống đặt ra. Thậm chí khoa học sẽ không bao giờ có thể trả lời được những câu hỏi đó. Có một thế giới BÊN NGOÀI KHOA HỌC vô cùng phong phú mà con người chỉ có thể tiếp cận tới đó bằng con đường cảm nhận hoặc chiêm nghiệm, thay vì chứng minh bằng các phương pháp khoa học logic hoặc thực chứng.

Đó là lý do để ngay từ thế kỷ 17, Blaise Pascal đã viết trong cuốn “Pensées” (Suy ngẫm) của ông, rằng “Khoa học vật chất không an ủi được tôi những lúc ưu phiền vì sự dốt nát về đạo lý, nhưng những hiểu biết về đạo lý luôn luôn an ủi tôi vì sự dốt nát về khoa học vật chất”.

Chỉ một câu ấy cũng đủ để thấy con người triết học thâm thuý của Pascal đã đi trước thời đại của ông vài thế kỷ, bởi dường như ông muốn gợi ý chúng ta về “tính hư ảo/kiêu căng tự phụ của khoa học” (the vanity of sciences)[1], nếu cái khoa học ấy không được bổ sung bởi những tri thức bên ngoài nó – những tri thức bên ngoài tối cần thiết đối với mọi hệ thống nhận thức, nếu hệ thống đó muốn trở nên hoàn thiện hơn. Đó chính là ý nghĩa của Định lý bất toàn của Kurt Gödel, ra đời sau Pascal ba thế kỷ.

Để làm sáng tỏ những ý kiến trên, xin giới thiệu với độc giả 2 bài báo của hai nhà khoa học Mỹ: “Hạn chế của khoa học” (The Limitations of Science) của Lynn Fancher và “Định lý bất toàn của Gödel: Đột phá toán học số 1 của thế kỷ 20” (Gödel’s Incompleteness: The #1 Mathematical Breakthrough of the 20th Century) của Perry Marshall.

Sau đây là những ý tóm lược.

1. Hạn chế của khoa học:

Để khám phá ra các bí mật của vũ trụ, nhân loại không có một công cụ nào tốt hơn là khoa học. Tuy nhiên, có một số dạng câu hỏi không thể giải đáp bằng khoa học. Nói cách khác, khoa học có những hạn chế.

Có ba lĩnh vực chủ yếu khoa học không thể giúp chúng ta trả lời. Cả ba lĩnh vực này đều có một đặc điểm chung: Những câu hỏi được đặt ra ở đó không thể tìm được những câu trả lời có thể kiểm chứng. Việc kiểm chứng đóng vai trò cốt yếu trong khoa học, vì thế những câu hỏi này đơn giản là nằm ngoài phạm vi khoa học.

Lynn Fancher, Phó GS Sinh học tại Đại học College DuPage, Glen Ellyn, Illinois, Mỹ, Tác giả bài báo “The Limitations of Science”.

Ba lĩnh vực đó là:

· Khoa học không thể trả lời những câu hỏi về giá trị. Chẳng hạn, không thể trả lời câu hỏi “Bông hoa nào đẹp hơn trong số những bông hoa này?”, hoặc “Vàng và thép, cái nào giá trị hơn?”. Nền văn hoá của chúng ta coi vàng có giá trị hơn, nhưng khi cần một thứ kim loại để xây dựng một toà nhà chọc trời thì vàng lại trở nên hết sức bất lợi, vì nó quá mềm.

· Khoa học cũng không thể trả lời những câu hỏi về đạo đức. Vấn đề quyết định xem cái gì là thiện hay ác, đúng hay sai, nằm ngoài phạm vi của khoa học. Đó là lý do vì sao các bằng chứng khoa học chẳng bao giờ có thể giúp chúng ta giải quyết cuộc tranh cãi về việc phá thai: Tất cả những gì mà một nhà khoa học có thể nói với chúng ta trong vấn đề này là cái gì diễn ra khi một bào thai phát triển; Vấn đề phá thai là đúng hay sai được xác định bởi các định chế văn hoá và xã hội – nói cách khác là bởi đạo đức. Ở đây khoa học chẳng giúp gì được (Chú ý rằng tôi không nói các nhà khoa học được miễn trừ việc xem xét vấn đề đạo đức xung quanh việc họ làm. Giống như với mọi người khác, các nhà khoa học cũng bị xem xét khía cạnh đạo đức xung quanh những gì họ làm).

· Cuối cùng, khoa học không giúp chúng ta trả lời được những câu hỏi liên quan tới những khái niệm siêu-tự-nhiên (supernatural). Tiếp đầu ngữ “siêu” (super) có nghĩa là “ở trên” (above). Do đó “siêu-tự-nhiên” có nghĩa là “ở trên” (hoặc vượt quá) tự nhiên. Hành trang của một nhà khoa học chỉ bao gồm những định luật tự nhiên; những câu hỏi siêu-tự-nhiên nằm ngoài phạm vi khoa học. Nhiều nhà khoa học thường hay quên giới hạn của khoa học nên cứ vài năm lại thấy một vài nhà khoa học công bố một cuốn sách nói rằng họ đã chứng minh được sự tồn tại của Chúa, hoặc ngược lại, chứng minh rằng Chúa không tồn tại. Điều này là bất khả vì Chúa là siêu-tự-nhiên. Vì thế nếu có ai đó đưa ra “bằng chứng khoa học” để chứng minh quan điểm của họ về cái siêu-tự-nhiên thì chỉ cần suy nghĩ một chút sẽ thấy ngay rằng họ đã đi ra ngoài giới hạn của khoa học.

2. Định lý bất toàn của Gödel: Đột phá toán học số 1 của thế kỷ XX:

Các nhà toán học rất ưa thích chứng minh. Nhưng trong nhiều thế kỷ họ vô cùng áy náy vì có nhiều thứ họ thấy là đúng nhưng không thể chứng minh được. Tuy nhiên vào những năm đầu của thập kỷ 1900, một làn sóng của chủ nghĩa lạc quan đã tràn vào trong thế giới toán học. Những nhà toán học giỏi nhất thời đó như David Hilbert, Bertrand Russell, Alfred Whitehead, … tin rằng họ đang nhanh chóng tiến gần tới một lý thuyết tổng hợp cuối cùng, một “Lý thuyết về mọi thứ” (Theory of Everything) cho phép chứng minh mọi thứ đến tận cùng, trong đó toán học sẽ đầy đủ, chắc chắn, chặt chẽ, và đắc thắng!

Nhưng năm 1931, nhà toán học trẻ người Áo Kurt Gödel đã công bố một công trình chứng minh rằng một “Lý thuyết về mọi thứ” sẽ vĩnh viễn không bao giờ đạt được. Ông chứng minh rằng họ sẽ không bao giờ chứng minh được mọi thứ. Khám phá của Gödel được gọi là “Định lý bất toàn” (Theorem of Incompleteness).

Định lý bất toàn của Gödel chỉ ra rằng:

“Bất kỳ cái gì có thể khoanh một vòng tròn quanh nó đều không thể tự giải thích về bản thân mình mà không tham khảo tới một cái gì đó ở bên ngoài vòng tròn – một cái gì đó mà bạn coi là đúng nhưng không thể chứng minh”.

Chẳng hạn bạn có thể vẽ một vòng tròn xung quanh tất cả các định lý trong sách giáo khoa hình học ở trường phổ thông. Những định lý ấy được xây dựng trên hệ 5 tiên đề của Euclid mà ta biết là đúng nhưng không thể chứng minh. 5 tiên đề này nằm ngoài vòng tròn các định lý nói trên[2].

Bạn có thể vẽ một vòng tròn quanh một chiếc xe đạp. Nhưng sự tồn tại của chiếc xe đạp đó liên quan tới một nhà máy nằm bên ngoài vòng tròn đó. Chiếc xe đạp không thể tự giải thích sự tồn tại của nó.

Bạn lại có thể vẽ một vòng tròn quanh nhà máy xe đạp. Nhưng nhà máy đó lại liên quan tới nhiều thứ khác ở bên ngoài nhà máy.

Gödel chứng minh rằng những cái ta coi là đúng LUÔN LUÔN có nhiều hơn những cái ta có thể chứng minh.

Perry Marshall, Tác giải bài báo “Gödel’s Incompleteness: The #1 Mathematical Breakthrough of the 20th Century”

Bất kỳ một hệ logic nào mà các nhà toán học có thể đề cập tới cũng luôn luôn chứa ít nhất một vài điều thừa nhận không thể chứng minh.

Định lý bất toàn của Gödel không chỉ áp dụng đối với toán học mà còn có thể áp dụng cho mọi đối tượng tuân theo các định luật logic – mọi thứ có thể đếm hoặc tính toán. Tính bất toàn không chỉ đúng trong toán học mà còn đúng trong khoa học hoặc ngôn ngữ học và triết học.

Gödel xây dựng chứng minh định lý của ông bắt đầu từ “Nghịch lý kẻ nói dối” (The Liar’s Paradox), nội dung của nó nói rằng “Ta là kẻ nói dối”.

Dễ thấy mệnh đề “Ta là kẻ nói dối” tự nó mâu thuẫn với chính nó.

Với một trong những phép chuyển đổi khéo léo bậc nhất trong lịch sử toán học, Gödel đã phiên dịch “Nghịch lý kẻ nói dối” thành một mệnh đề logic toán học. Từ đó ông chứng minh rằng không có một lập luận nào có thể tự chứng minh tính đúng đắn của chính nó. Để chứng minh một lập luận trong một hệ thống, bạn luôn luôn cần đến một điểm tham chiếu (một tiên đề) nằm bên ngoài hệ thống đó.

Định lý bất toàn là một đòn trời giáng đối với các “nhà thực chứng luận” (positivists), bởi vì những người này luôn luôn cho rằng bất kể cái gì không thể đo được hoặc không thể chứng minh được đều vô nghĩa. Nhưng Định lý Gödel chỉ ra rằng chính cái tư tưởng thực chứng đó mới vô nghĩa.

Gödel chứng minh định lý của ông rõ ràng trắng đen đến mức không ai có thể bắt bẻ ông. Tuy nhiên có một số nhà toán học đến lúc chết vẫn muốn phủ nhận định lý này, họ tin rằng bằng cách này hay cách khác rồi sẽ đến lúc người ta có thể chứng minh được rằng Gödel sai.

Nhưng Gödel không sai. Ông hoàn toàn đúng. Có nhiều cái đúng hơn là những cái có thể chứng minh!

Sẽ chẳng bao giờ có thể tìm thấy một “Lý thuyết về mọi thứ” – dù trong toán học hay vật lý hoặc triết học. Bởi đó là điều đã được khẳng định về mặt toán học.

OK, vậy điều đó thực sự có ý nghĩa gì? Tại sao điều đó là siêu-quan-trọng chứ không chỉ là một sự kiện kỳ quặc lý thú?

Sau đây là những kết luận quan trọng rút ra từ định lý đó:

· Niềm tin và lý lẽ không phải là kẻ thù của nhau. Thực ra điều ngược lại mới đúng. Cái này tuyệt đối cần thiết cho cái kia. Mọi lý lẽ cuối cùng đều phải trở về với niềm tin vào một cái gì đó mà bạn không thể chứng minh.

· Mọi hệ thống khép kín đều phụ thuộc vào một cái gì đó nằm bên ngoài hệ thống đó.

· Bạn luôn luôn có thể vẽ một vòng tròn lớn hơn nhưng sẽ luôn luôn có một cái gì đó bên ngoài vòng tròn.

Lý lẽ thâm nhập từ một vòng tròn lớn hơn vào vòng tròn nhỏ hơn (từ “tất cả mọi thứ” vào “một vài thứ”) là lý lẽ suy luận (deductive reasoning).

Thí dụ:

1. Mọi người đều phải ăn để sống.
2. Socrates là một con người.
3. Vậy Socrates phải ăn để sống.

Lý lẽ xuất phát từ một vòng tròn nhỏ hơn ra một vòng tròn lớn hơn (từ “một vài thứ” ra “tất cả mọi thứ”) là lý lẽ quy nạp (inductive reasoning).

Thí dụ:

1. Khi tôi thả các vật, chúng đều rơi tự do.
2. Vậy có một quy luật hấp dẫn chi phối tất cả các vật rơi.

Gần như tất cả mọi định luật khoa học đều dựa trên lý lẽ quy nạp. Những định luật này dựa trên một giả định cho rằng vũ trụ có trật tự và tuân thủ những định luật cố định có thể khám phá được.

Bạn không thể CHỨNG MINH được điều đó. Đúng ra là bạn phải tiếp thu điều đó bằng niềm tin.

Nhiều người không để ý rằng bên ngoài vòng tròn khoa học là vòng tròn triết học. Khoa học dựa trên các giả định triết học mà bạn không thể chứng minh một cách khoa học.

Thật vậy, phương pháp khoa học không thể chứng minh, nó chỉ có thể luận ra mà thôi (Khoa học bắt nguồn từ tư tưởng cho rằng Chúa sáng tạo ra một vũ trụ có trật tự, tuân theo những định luật cố định có thể khám phá – và nhờ những định luật này, Chúa không cần phải thường xuyên bận tâm lo điều khiển cái vũ trụ đó hoạt động theo trật tự nữa).

Bây giờ hãy xem xét điều gì sẽ xẩy ra khi ta vẽ vòng tròn lớn nhất có thể có bao quanh toàn bộ vũ trụ (nếu có nhiều vũ trụ, hãy vẽ một vòng tròn bao quanh tất cả các vũ trụ đó):

Vẫn tồn tại một cái gì đó bên ngoài vòng tròn đó. Một cái gì đó mà chúng ta phải giả định là đúng nhưng không thể chứng minh …

Giả định đó xét cho cùng chính là môt niềm tin. Nói cách khác, mọi lập luận khoa học cuối cùng vẫn quy về một niềm tin – niềm tin vào một cái gì đó mà bản thân khoa học cũng phải thừa nhận vì không thể chứng minh.

Hoá ra việc phân biệt “đức tin” đối lập với khoa học, xét cho cùng, là chẳng hiểu gì về nguồn gốc cội rễ của khoa học và bản chất của nhận thức.

5 tiên đề của Euclid là những mệnh đề không thể chứng minh được. Nhưng 5 tiên đề của Euclid là cần thiết để xây dựng Hình học Euclid – một khoa học về tính hệ thống. Bạn không thể có một khoa học tuyệt vời như Hình Học Euclid nếu bạn không có một “đức tin” vào 5 tiên đề của Euclid!

Tóm lại, đức tin và khoa học không phải là kẻ thù của nhau, mà liên minh với nhau. Đó là hai mặt của cùng một đồng xu. Điều này đã đúng trong hàng trăm năm trước đây, nhưng vào năm 1931, nhà toán học trẻ người Áo Kurt Gödel đã chứng minh điều đó là một chân lý hùng hồn!

3. Thay lời kết:

Như Perry Marshall đã trình bầy, Định lý bất toàn dẫn tới hệ quả rằng đức tin và khoa học không mâu thuẫn với nhau, mà bổ sung cho nhau.

Khi nói đến đức tin, nhiều người lập tức nghĩ đến đức tin tôn giáo – niềm tin vào sự hiện hữu của các lực lượng siêu nhiên. Cách hiểu đó không sai, nhưng không đầy đủ. Cần hiểu khái niệm đức tin một cách rộng rãi hơn.

Những lời tự thú của Lev Tolstoi trong cuốn “Tự Thú” (Confession) của ông có thể cung cấp cho chúng ta một cách hiểu đầy đủ hơn về khái niệm đức tin, qua đó có thể thấy rõ rằng khoa học, một dạng kiến thức thuần lý tiêu biểu nhất, sẽ trở nên vô nghĩa nếu không được bù khuyết bởi đức tin:

“… thêm vào cái kiến thức thuần lý, mà trước đây đối với tôi là thứ kiến thức duy nhất, tôi tất yếu bị dẫn đến chỗ phải thừa nhận một loại kiến thức khác, một loại phi thuần lý, mà tất cả nhân loại đều có: đức tin, là cái cung cấp cho chúng ta khả tính (possibility) của sự sống. Đối với riêng tôi, thì đức tin vẫn phi thuần lý như bao giờ, nhưng mà tôi không thể không nhận thức rằng chỉ có một mình nó mới cung cấp cho nhân loại một câu trả lời cho câu hỏi về cuộc sống, và như thế, khiến cho người ta có thể sống được … Kiến thức thuần lý đã dẫn tôi đến cái kết luận rằng đời là vô nghĩa … ý nghĩa của cuộc sống và cái khả tính của sự sống chỉ có thể tìm thấy trong đức tin … ý nghĩa cốt tủy của đức tin không chỉ nằm trong “sự hiển thị của những điều không thấy được”, … Đức tin là sự nhận biết về ý nghĩa của nhân sinh, nhờ đó mà con người tiếp tục sống, chứ không tự hủy diệt chính mình. Đức tin là lực của cuộc sống …[3].

Tự thú của Tolstoi cũng cho chúng ta thấy “các tư tưởng lớn gặp nhau” (les grands esprits se rencontrent): Tolstoi giống hệt Pascal, cả hai đều không coi kiến thức thuần lý là phương tiện giúp con người hiểu được ý nghĩa cuộc sống – khoa học quá nghèo để đáp ứng nhu cầu của con người!

Đã đến lúc cần phải thừa nhận định nghĩa con người như một sự tổng hợp của hai phần xác (vật chất) và hồn (tinh thần). Nhu cầu phần xác là hữu hạn, phần hồn là vô hạn. Khoa học chỉ có thể đáp ứng được những nhu cầu thuộc về phần xác, không thể đáp ứng được những nhu cầu thuộc về phần hồn. Học thuyết gien chỉ có thể giải thích được những cơ chế di truyền vật chất, không thể giải thích được những đặc điểm cá thể thuộc về tinh thần. Câu ngạn ngữ “cha mẹ sinh con, trời sinh tính” là hoàn toàn chính xác. Tính cách, nhân cách của con người không do di truyền tạo nên, mà do môi trường sống và nền giáo dục tạo nên. Vì thế, môi trường giáo dục là yếu tố quyết định sự hình thành nhân cách của con người.

Sự nghiệp giáo dục phải coi việc giáo dục nhân cách là nhiệm vụ chính, nhiệm vụ cốt tuỷ, thay vì chú trọng quá nhiều vào việc vội vã nhồi nhét kiến thức chuyên môn như hiện nay. William Shakespeare từng viết “Mừng như chú bé được rời sách vở”, nhưng trẻ em ngày nay hầu như không có lúc nào được rời sách vở, vì chiếc ba-lô trên lưng các em quá nặng – các em đang phải học ngày, học đêm, học ở trường, học thêm ở ngoài, học trong năm học, học trong những tháng hè, học quá nhiều mà hiệu quả quá ít, vì học chỉ để đối phó với chương trình giáo khoa nhồi nhét quá tải, đặc biệt trong các môn khoa học tự nhiên.

Có lẽ vì nhiều nhà giáo dục mắc bệnh “sùng bái khoa học”, tưởng khoa học là “chiếc gậy thần” có khả năng cải tạo đầu óc trẻ em và cải tạo thế giới, vì thế mới ra sức nhồi nhét kiến thức khoa học hàn lâm sáo rỗng, hình thức chủ nghĩa vào đầu trẻ em như thế.

Nhưng chính các nhà khoa học chân chính thấy rõ hơn ai hết rằng khoa học không đủ để nhận thức thế giới, đặc biệt để nhận thức chính con người, và do đó không đủ để xây dựng một xã hội tốt đẹp. Thậm chí, sự sùng bái khoa học như thần thánh còn dẫn tới nguy cơ làm hỏng con người, bởi nó làm méo mó các thang bậc giá trị, hạ thấp các giá trị nhân văn và đề cao các giá trị vật chất, tức là huỷ hoại tính người!

Hơn lúc nào hết, các nhà giáo dục cần thấy rõ điều này, để giảm bớt hành trang khoa học (tự nhiên) trong chiếc ba-lô của trẻ em ở trường phổ thông, tăng cường những tri thức “bên ngoài khoa học” cho học sinh, đặc biệt là những tri thức nhân văn, như văn chương, thơ ca, âm nhạc, nghệ thuật, cốt sao trau dồi cho trẻ em biết rung động và nhậy cảm với CÁI ĐẸP, với LÒNG NHÂN, biết cách đối xử đúng đắn trong quan hệ giữa người với người và giữa người với môi trường tự nhiên xung quanh.

Sydney, ngày 24 tháng 02 năm 2010
Phạm Việt Hưng


[1] Xem The vanity of the sciences, 67, trong PASCAL’S PENSÉES, paperback edition, E. P. Dutton & Co., Inc.USA, 1958, SBN 0-525-47018-2.

[2] Thực ra số tiên đề cần thiết nhiều hơn 5. Theo Hilbert, có 20 tiên đề, nhưng chính Hilbert cũng chưa chứng minh được tính đầy đủ của hệ tiên đề do ông đưa ra (ông chỉ mới chứng minh tính độc lập và phi mâu thuẫn). Xem thêm: “Hệ tiên đề Hilbert có hoàn hảo?”, Tia Sáng 08-2002, hoặc trên mạng Diễn đàn toán học Việt Nam (VMF) http://diendantoanhoc.org/old/modules.php?name=News&file=article&sid=55 (chú thích của PVHg).

[3] Trích theo “Tự Thú” (1879) (Confession, Lev Tolstoy, W.W. Norton & Company, Inc., New York 1996, 2007), do Đỗ Tư Nghĩa dịch, NXB Văn hóa Sài Gòn.

“Thầy Bói Xem Voi”

Bài 3 / 4 trong loạt bài PHILOSOPHY of SCIENCE & Gödel’s Theorem

How can a part know the whole? (Blaise Pascal)

Khoa học đang đứng trước hàng loạt câu hỏi thách thức:

-Liệu có thể có một “Lý thuyết về mọi thứ” của vật lý không?

-Robots có thể thông minh như con người không?

-Bản chất vật chất của tinh thần là gì?

-Máy móc có thể thay thế con người trong dịch thuật không?

-Giả thuyết Goldbach là một tiên đề hay một định lý?

-Vũ trụ trước Big Bang là gì?

-Tồn tại chăng một lý thuyết dự báo tương lai chính xác?

Và rất nhiều câu hỏi khác nữa. Mỗi câu hỏi là một thách đố lớn chưa từng có – một “Chiếc Chén Thánh” (The Holy Grail)[1] của khoa học, mà câu trả lời thường dẫn tới sự chia rẽ quan điểm, một bên nói “có”, một bên “không”. Chưa bao giờ khoa học bị rơi vào tình trạng ngã ba đường như hiện nay. Dường như dự cảm được điều đó nên từ lâu Kurt Gödel đã lưu ý: “Ý nghĩa của cuộc sống là ở chỗ biết phân biệt Ước Muốn với Hiện Thực[2].

Những ai biết rõ lịch sử toán học thế kỷ 20 đều hiểu ngay rằng Gödel ngụ ý nhắc nhở nhân loại không được phép quên bài học thất bại cay đắng của Chương trình Hilbert – một chương trình có tham vọng khám phá ra “Lý thuyết về mọi thứ” của toán học, tức là không hiểu nguyên lý giới hạn của nhận thức mà truyện ngụ ngôn “Thầy Bói Xem Voi” đã nói từ xa xưa.

Thậm chí đến khi Gödel công bố Định lý bất toàn (Theorem of Incompleteness), khẳng định nguyên lý giới hạn của nhận thức dưới dạng toán học, vẫn có nhiều người không muốn thừa nhận nguyên lý này. Đó là lý do để nhiều nhà triết học khoa học Tây phương hiện nay thích nhắc lại tích “Thầy Bói Xem Voi”, như một gợi ý để từ đó đề cập tới Định lý bất toàn nói riêng và vấn đề giới hạn của nhận thức nói chung[3].

1. “Thầy Bói Xem Voi”:

“Thầy Bói Xem Voi” là một truyện ngụ ngôn bằng thơ nhan đề “The Blind Men and the Elephant” (Những anh mù và con Voi), hoặc “Six Men of Indostan” (Sáu anh chàng ở xứ Indostan[4]), của John Godfrey Saxe, một nhà thơ triết lý nổi tiếng người Mỹ thế kỷ 19. Nhưng thực ra tích “Thầy Bói Xem Voi” “đã được ghi chép từ xa xưa trong Kinh Đại Bát Niết Bàn 大般涅槃经 do ngài Đàm Vô Sấm 昙无谶 (Dharmaraksa), pháp sư người Ấn, dịch ra Hoa ngữ , đồng thời cũng đã được ghi chép trong Kinh Trường A Hàm của Phật Giáo”[5].

Thầy Bói Xem Voi

(Sáu anh mù ở xứ Indostan)

 

John Godfrey Saxe

(1816 – 1887)

 

Sáu anh mù ở xứ

In-đốt-xtan nóng bỏng

Rủ nhau đi xem Voi

Vì rất ham hiểu biết

Nên thi nhau quan sát

Cho thoả nỗi khát mong

 

Đầu tiên là anh Nhất

Sờ tấm thân vừa rộng,

Vừa cứng ráp, vừa thô

Miệng oang oang tuyên bố:

“Con Voi, ôi lạy Chúa!

Giống bức tường y chang”

 

Tiếp đến là anh Nhị,

Sờ ngà Voi, nói lớn:

“Tròn, nhọn, lại mịn trơn?

Kỳ quan này rõ thấy,

Rằng Voi như ngọn giáo,

Đó mới thật là Voi!”

 

Anh Tam bèn tiến đến

Tay ôm vòi uốn éo,

Ngẫm nghĩ và luận suy,

Rồi tự tin anh nói:

“Con Voi như tôi thấy

Giống con rắn, con trăn”

 

Đôi bàn tay anh Tứ

Sờ vào chân, háo hức,

“Kỳ lạ nhất của Voi,

Như ta vừa nhận thấy,

Một thân cây thẳng đứng,

Mới giống hình con Voi!”

 

Rồi đến phiên anh Ngũ,

Sờ tai Voi, tuyên bố:

“Mù nhất chính là ta,

Nhưng nào ai dám cãi,

Rằng Voi như quạt giấy,

Phe phẩy, phẩy gió bay!”!

 

Cuối cùng là anh Lục,

Dò dẫm, anh vội túm

Chỗ ve vẩy cái đuôi,

Cảm nhận, thốt lên lời:

“Voi như ta đã thấy

Giống y chiếc dây thừng!”

 

Thế là sáu anh mù

Cãi vã nhau ỏm tỏi ,

Ai cũng cho mình giỏi,

Anh nào cũng hung hăng.

Mỗi anh đúng một phần,

Nhưng đều sai tất cả!

 

The Blind Men and the Elephant

(Six Men of Indostan)

 

John Godfrey Saxe

(1816 – 1887)

 

It was six men of Indostan

To learning much inclined,

Who went to see the Elephant

Though all of them were blind

That each by observation

Might satisfy his mind.

 

The First approached the Elephant

And happening to fall

Against his broad and sturdy side

At once began to bawl:

“God bless me! But the Elelephant

Is very like a wall”

 

The Second, feeling of the tusk,

Cried, “Ho! What have we here

So very round & smooth & sharp?

To me ‘tis mighty clear

This wonder of an Elephant

Is very like a spear!”

 

The Third approached the animal,

And happening to take

The squirming trunk within his hands,

Thus boldly up and spake :

“I see”, quoth he, “the Elephant

Is very like a snake!”

 

The Fourth reached out an eager hand,

And felt about the knee.

“What most this wondrous beast is like

Is mighty plain”, quoth he;

“ ‘Tis clear enough the Elephant

Is very like a tree!”

 

The Fifth who chanced to touch the ear,

Said: “E’en the blindest man

Can tell what this resembles most:

Deny the fact who can,

This marvel of an Elephant

Is very like a fan!”

 

The Sixth the sooner had begun

About the beast to grope,

Than, seizing on the swinging tail

That fell within his scope ,

“I see”, qouth he, “the Elephant

Is very like a rope!”

 

And so these men of Indostan

Disputed loud and long,

Each in his own opinion

Exceeding stiff and strong,

Though each was partly in the right

And all were in the wrong!

 

 

Ý tưởng của John Saxe thật dễ hiểu: Nhận thức của con người vốn phiến diện và bị giới hạn – nhận thức dù tiến bộ đến mấy cũng chỉ đúng một phần chứ không bao giờ đầy đủ và hoàn thiện.

Nhưng phỏng có ích gì khi nhắc lại triết lý giới hạn của nhận thức trong thời buổi khoa học đang tăng trưởng với tốc độ hàm mũ như hiện nay? Phải chăng đó là một nghịch lý? Sau đây sẽ là câu trả lời.

2. Nghịch lý lớn về nhận thức:

Điều bất ngờ thú vị cần thông báo ngay với độc giả là tích “Thầy Bói Xem Voi” – một chuyện tưởng như đã “biết rồi, khổ lắm, nói mãi” – lại đã và đang tái xuất hiện trên các diễn đàn khoa học tây phương hiện đại với một tầm vóc và bình diện mới! Thật vậy, dưới ánh sáng của những sự kiện khoa học trọng đại nhất trong thế kỷ 20, đặc biệt nhờ những tiến bộ vượt bậc của khoa học computer trong mấy thập kỷ qua, nhân loại đã và đang tái khám phá ra nguyên lý về bản chất giới hạn của nhận thức – một nguyên lý tự nhiên mà tích “Thầy Bói Xem Voi” đã nói từ lâu nhưng dần dần bị lãng quên! Nguyên lý này khẳng định rằng NHẬN THỨC, mặc dù mỗi ngày một tiến hoá, nhưng không bao giờ đạt tới chỗ BIẾT HẾT, BIẾT MỌI THỨ, BIẾT ĐẦY ĐỦ, BIẾT TẬN CÙNG …

Tham vọng biết mọi thứ, xét cho cùng, là … “ngây thơ” – không hiểu hoặc không muốn hiểu một quy luật của nhận thức mà John Saxe đã trình bầy từ lâu dưới dạng thơ ngụ ngôn!

Sự “ngây thơ” đó đáng được thông cảm: Khi khát vọng nhận thức bùng cháy mãnh liệt, con người có xu hướng muốn biết hết, biết tới tận cùng! Đó là một khát vọng chính đáng, tự nhiên theo bản năng, và nhờ đó con người mới khám phá hết bí mật này đến bí mật khác. Đó chính là động lực của tiến hoá. Nếu khát vọng đó đôi khi (hoặc nhiều khi) trở nên thái quá, chẳng qua con người sinh ra vốn bản chất đã hướng ngoại, thích quan sát các đối tượng khách thể bên ngoài hơn là quan sát chính chủ thể nhận thức. Trẻ em thể hiện rất rõ điều này. Một em bé 6 tháng sẽ tuyệt đối không có “ý thức về bản ngã”, nhưng đã có thể có những nhận thức nhất định về thế giới xung quanh. Ý thức hướng nội chỉ tới khi con người trưởng thành hơn. Quá trình trưởng thành về nhận thức của một đời người chính là tấm gương phản chiếu quá trình trưởng thành về nhận thức của toàn thể loài người. Đó chính là lý do để khoa học về nhận thức ra đời quá muộn màng: Trong khi các khoa học khác đã có tới hàng ngàn hoặc hàng trăm năm tuổi, khoa học về nhận thức dường như mới ra đời gần đây. Nói cách khác: Trong khi nền văn minh của nhân loại đã trưởng thành và già dặn qua hàng ngàn năm lịch sử, con người dường như vẫn còn quá ngây thơ trong việc tự hiểu biết mình.

Nhưng hơn bất kỳ một giai đoạn lịch sử nào khác, thế kỷ 20 đã làm cho con người bừng tỉnh: Song song với nhận thức hướng ngoại, con người đã đặc biệt quan tâm tới chính chủ thể nhận thức – nghiên cứu bản chất của nhận thức như nghiên cứu bất kỳ một đối tượng khách quan nào khác!

Nhưng tại sao lại là thế kỷ 20, thay vì thế kỷ 19 hay 21?

Đơn giản vì nhận thức đã phải trả giá rất đắt để hiểu được 3 bài học tưởng như không sao hiểu được trong thế kỷ 20: Thuyết Tương Đối của Einstein + Nguyên Lý Bất Định của Heisenberg + Bài học về cuộc khủng hoảng trầm trọng trong nền tảng Toán Học đầu thế kỷ 20.

Thuyết Tương Đối phải mất vài năm rồi nhân loại mới hiểu.

Nguyên Lý Bất Định cũng phải mất vài chục năm: Ra đời từ 1921 nhưng chưa bao giờ được nhà vật lý lớn nhất thế kỷ 20 là Einstein công nhận, ngay cả trước khi ông mất năm 1955.

Nhưng sự trả giá cho bài học thứ ba còn đắt hơn rất nhiều: Phải mất gần một thế kỷ, tức là đến cuối thế kỷ 20, nhân loại mới bắt đầu hiểu được lý do thực sự của cuộc khủng hoảng Toán Học đầu thế kỷ này. Hơn bất kỳ một bài học nào khác, bài học thứ ba này để lộ giới hạn của nhận thức.

Nếu chọn ngẫu nhiên 100 nhà khoa học và giáo dục để phỏng vấn, có lẽ 100% biết rõ bài học thứ nhất (Thuyết Tương Đối), 75% (hoặc 50%?) biết rõ bài học thứ hai (Nguyên Lý Bất Định), nhưng sẽ có bao nhiêu % biết rõ bài học thứ ba (cuộc khủng hoảng về nhận thức bản chất Toán Học)? Tôi ngờ rằng tỷ lệ này rất thấp, vì thông qua phương pháp giảng dạy môn Toán ở trường phổ thông hiện nay, tôi thấy người ta đã hiểu sai bản chất và ý nghĩa của Toán Học, từ đó suy ra rằng người ta không học được bài học nào từ cuộc khủng hoảng nói trên. Bằng chứng?

Vâng, sẽ có bằng chứng, nhưng xin để dành cho bài viết kỳ sau. Bây giờ là lúc cần quay lại tích “Thầy Bói Xem Voi”, vì chính sự trả giá về nhận thức trong thế kỷ 20 đã làm cho nhân loại bừng tỉnh để “ngộ” ra triết lý sâu xa của truyện ngụ ngôn này: Nhận thức, bản thân nó chứa đựng một NGHỊCH LÝ LỚN – Khát vọng vô hạn về nhận thức mâu thuẫn với bản chất giới hạn của nhận thức!

Làm thế nào để một bộ phận có thể nhận thức được cái toàn thể?” (How can a part know the whole?), đó chính là nỗi băn khoăn từ thế kỷ 17 của Blaise Pascal – một trong những nhà khoa học và triết học sâu sắc nhất của mọi thời đại.

Một người như Pascal có lẽ có thừa óc tưởng tượng và suy luận để hình dung ra cái tổng thể mà ông khao khát muốn biết, nhưng dường như cái đầu triết học quá sâu sắc của ông lại khuyên ông nên thận trọng. Phải chăng vì thế mà ông băn khoăn?

Trong thời đại của chúng ta, nỗi băn khoăn của Pascal vẫn mang tính thời sự. Thật vậy, dù khoa học tiến bộ đến mấy, kính viễn vọng có thể nhìn xa đến mấy, kính hiển vi điện tử có thể nhìn sâu đến mấy, cũng chẳng bao giờ nhìn thấy cái tổng thể. Khoa học chỉ suy đoán ra cái tổng thể dựa trên những quan sát bộ phận, rồi lại dùng những quan sát bộ phận để tái kiểm chứng cái mô hình tổng thể đã suy đoán. Dù cho suy đoán dựa trên những phương pháp toán học chính xác bậc nhất, nó vẫn chỉ là kết quả của suy đoán, và do đó nó luôn luôn bị thử thách nghiệt ngã bởi thực tiễn. Thực tiễn luôn luôn là ông thầy chỉ ra lỗi trong các mô hình của con người, buộc con người phải sửa chữa mô hình của mình để phù hợp với hiện thực hơn. Nhưng dù sửa chữa phù hợp đến mấy đi chăng nữa thì cũng chỉ là phù hợp với hiện thực cục bộ có thể quan sát được, thay vì chính cái hiện thực tổng thể tồn tại khách quan, độc lập với mọi suy luận và quan sát của con người.

Chẳng hạn có một thời, Mô Hình Vũ Trụ dựa trên Cơ Học Newton đã thống trị “tuyệt đối” trong tâm thức các nhà khoa học, đến nỗi Joseph Louis Lagrange, nhà toán học lỗi lạc người Pháp trong thế kỷ 18, đã phải thốt lên lời buồn phiền rằng “Newton đã tìm ra hết mọi bí mật rồi, chẳng còn gì lớn cho chúng ta làm nữa”. Nhưng may thay, Albert Einstein đã chứng minh rằng Lagrange sai!

Một số học giả tây phương hiện đại cho rằng nhận thức là một hàm tăng theo thời gian, nhưng không tăng tới vô cùng, mà bị chặn trên bởi một tiệm cận ngang – một cái ngưỡng (threshold): Hàm nhận thức ngày càng tiệm cận tới cái ngưỡng đó nhưng không bao giờ chạm tới và vượt qua!

Thậm chí một số còn cho rằng khoa học ngày nay đã tiến gần đến cái ngưỡng đó. Thời gian sẽ trả lời nhận định này đúng hay sai.

Tuy nhiên, sự tồn tại của một cái ngưỡng là có thật, ít nhất điều này đã được chứng minh trong Toán Học và trong Khoa Học Computer: Đó là “Định Lý Bất Toàn” (Theorem of Incompleteness) của Kurt Godel và “Sự Cố Dừng” (The Halting Problem) của Alan Turing.

Cái ngưỡng đó làm cho một số người nản lòng, thậm chí cảm thấy khó chịu, vì không thể chấp nhận một cái ngưỡng ngáng trở nhận thức. Xin nói ngay rằng những người đó đã hiểu lầm: Chính cái ngưỡng đó làm cho cuộc sống của chúng ta có ý nghĩa hơn, hạnh phúc hơn, và khoa học sẽ đâm chồi nẩy lộc nhiều hơn, đơm hoa kết trái nhiều hơn!

Thật vậy, vì nhận thức có giới hạn, nó không bao giờ đạt tới đích cuối cùng, vì thế khát vọng khám phá sẽ được nuôi dưỡng mãi mãi, niềm vui khám phá sẽ không bao giờ cạn, trí tưởng tượng của con người sẽ tha hồ bay bổng, … điều này làm nên một trong những ý nghĩa căn bản của cuộc sống.

Immanuel Kant vĩ đại từng nói: “Mỗi câu trả lời lại đặt ra một câu hỏi mới”. Bạn nghĩ sao nếu chúng ta tìm ra một câu trả lời cho mọi thứ để rồi không còn gì đáng hỏi nữa? Cuộc sống khi đó sẽ ra sao? Nhưng chính vì không bao giờ có một câu trả lời cuối cùng nên con người tha hồ tưởng tượng để tìm câu trả lời cho những gì mình chưa biết. Nhà toán học kiêm triết học nổi tiếng Bertrand Russell đã an ủi những người lo xa: “Khoa học có thể tạo ra giới hạn đối với sự hiểu biết, nhưng không tạo ra giới hạn đối với trí tưởng tượng[6].

Nói cách khác, Bà Mẹ Tự Nhiên (The Mother Nature) không bao giờ mở cánh cửa bí mật cuối cùng cho chúng ta, mà luôn để dành những bí mật tiếp theo cho chúng ta khám phá, nhằm nuôi dưỡng chúng ta không chỉ phần xác, mà cả phần hồn!

Bí mật của Tự Nhiên giống như “Chiếc Hộp Trung Hoa” (Chinese Box) hoặc những con búp-bê Matryoshka của Nga – mỗi lần mở ra lại thấy một chiếc hộp bên trong (một con búp-bê bên trong). Mỗi chúng ta đều giống như một đứa trẻ tò mò, trông thấy chiếc hộp bên trong lại muốn mở ra xem, và lại thấy một chiếc hộp bên trong nữa. Albert Einstein chính là một đứa trẻ điển hình như thế, ông nói: “Cái đẹp nhất mà chúng ta có thể chiêm nghiệm chính là sự BÍ ẨN. Đó là ngọn nguồn của nghệ thuật và khoa học chân chính[7].

Vậy thay vì chống đối nguyên lý giới hạn của nhận thức, chúng ta nên cảm ơn nó, vì nhờ nó chúng ta luôn sống với những khát vọng lãng mạn!

Nhưng cần phải tỉnh táo, vì nếu tham vọng nhận thức trở thành vô chừng vô độ, bất chấp giới hạn thì đó lại là một vấn đề hoàn toàn khác!

3. Khi tham vọng trở nên vô chừng vô độ:

Khi đó, nhận thức có nguy cơ rơi vào không tưởng, lầm đường lạc lối, thay vì tiến lên, nhận thức trở thành một cái vòng luẩn quẩn, hoặc thậm chí thụt lùi.

Lịch sử đã từng chứng kiến phản ứng của những người nhìn xa trông rộng trước những kiểu tham vọng vô chừng vô độ như thế. Một trong những trường hợp đáng để cho chúng ta phải suy ngẫm nghiêm túc lại là Albert Einstein. Bạn nghĩ sao khi một người như Einstein – một người có khát vọng hiểu biết cháy bỏng hơn ai hết, một đứa trẻ từng say đắm Hình Học Euclid như một kỳ quan, một nhà vật lý cần toán học như chúng ta cần không khí và nước – đã có lúc phải thốt lên:

Tôi không tin vào Toán Học[8]!

Thoạt nghe, có vẻ như đó là một chuyện bịa đặt, nhưng than ôi, đó lại là một sự thật! Xin bạn hãy bình tâm tìm hiểu sự thật này, và tôi tin rằng bạn sẽ hết ngạc nhiên nếu biết rõ rằng ấy là lúc Einstein phản ứng với những thứ toán học sáo rỗng, hình thức chủ nghĩa, toán học siêu hình (meta-mathematics), toán học tách rời thực tiễn, toán học thuần tuý suy diễn logic mà không đếm xỉa đến ý nghĩa thực tế.

Bạn sẽ dễ dàng thông cảm với Einstein nếu biết rõ rằng thứ toán học siêu hình đó đã ra đời từ một tham vọng vô chừng vô độ và không tưởng của một số nhà toán học cùng thời với ông. Những người này tin rằng tồn tại những chân lý logic hình thức tuyệt đối, độc lập với thế giới hiện thực xung quanh, và tin rằng với những phương pháp nghiên cứu đúng đắn, trước sau họ cũng sẽ tìm ra những chân lý tuyệt đối đó.

Nhưng Einstein, với trực giác siêu việt, ngay từ đầu đã không tin họ, không tin vào tham vọng ngông cuồng của họ, không tin vào hệ thống toán học thuần lý bất chấp thực tiễn của họ, và lịch sử đã đứng về phía Einstein!

Chẳng riêng Einstein, một vĩ nhân khác mà tài năng chẳng kém gì Einstein là Henri Poincaré, người được coi là Mozart của Toán Học, cũng chống đối quyết liệt thứ toán học sính hình thức đó.

Nhưng than ôi! Sức ỳ của bộ não cũng “vĩ đại” chẳng kém gì sức sáng tạo của nó: Bất chấp những người như Einstein và Poincaré, tư tưởng sính hình thức trong giới toán học, và đặc biệt trong giới giảng dạy toán học, vẫn cứ tiếp tục sống dai dẳng cho đến tận hôm nay.

Nếu đọc giả để ý quan sát, sẽ chẳng mấy khó khăn để nhận thấy bóng dáng những loại toán học này trong hệ thống giáo dục hiện nay. Đó là hậu quả tàn dư của thứ toán học hình thức mà Einstein và Poincaré chán ghét. Đó là lý do để nhiều học giả trên thế giới ngày nay phải lên tiếng cảnh báo: Hãy tỉnh táo để nhận thức nguyên lý giới hạn của nhận thức!

Trong bối cảnh đó, tích “Thầy Bói Xem Voi” tất yếu mang ý nghĩa thời sự và được làm sống lại một cách sinh động dưới nhiều hình thức, điển hình là những “mô hình bất khả” (Impossible Models), hay những “cấu trúc phi lý” (Inconsistent Structures).

4. Mô Hình Bất Khả:

Điển hình của những mô hình này là Tam Giác Penrose hoặc Bậc Thang Penrose của Sir Roger Penrose, một trong những nhà vật-lý-toán-học lớn nhất ngày nay. Ông có những đóng góp vô cùng đa dạng trong vật lý và toán học, đoạt rất nhiều giải thưởng danh giá bậc nhất về vật lý và toán. Cùng với Stephen Hawking, ông được coi là một trong những tác giả của Lý thuyết về hốc đen, như Wikipedia nhận định: “Công trình sâu sắc của ông về tính Tương Đối Tổng Quát đóng vai trò chủ yếu trong nhận thức của chúng ta về các hốc đen”. Nhưng khác với Stephen Hawking, ông không mấy tin tưởng vào khả năng “Hiểu được ý Chúa” của Einstein trước đây và của Hawking hiện nay. Bản thân những “mô hình bất khả” của ông đã nói lên điều đó.

Ngắm kỹ hai mô hình trên, dễ nhận thấy chúng chỉ “khả dĩ” (possible) hoặc “hợp lý” (consistent) trong từng cục bộ (local part), nhưng “bất khả” (impossible) hoặc “phi lý” (inconsistent) trên tổng thể (the whole), đúng như triết lý của “Thầy Bói Xem Voi”: Mỗi anh đúng một phần, Nhưng đều sai tất cả!

Tuy nhiên sẽ là bất công nếu gán cho các nhà khoa học công lao sáng tạo ra những “mô hình bất khả”. Chính các hoạ sĩ mới là những người đi tiên phong trong lĩnh vực này. Hãy ngắm bức tranh sau đây:

Đó là cấu trúc “Cầu thang bất khả” (Impossible Staircase) cuả hoạ sĩ Thụy Điển Oscar Reutersvard (1915-2002) được vẽ từ nửa đầu thế kỷ 20! Với hàng trăm mô hình tương tự, Reutersvard được coi là cha đẻ của ngành “hội hoạ ảo ảnh” (Illusionary Art), và chính hội hoạ đó đã tạo cảm hứng cho Penrose sáng tạo ra những mô hình của mình.

Tuy nhiên phải thừa nhận rằng, từ khi những nhà khoa học lớn như Penrose sử dụng các mô hình bất khả để nói lên nguyên lý bất khả trong việc nhận thức CÁI TOÀN BỘ, thì nguyên lý này mới được nhìn nhận một cách thực sự nghiêm túc, không chỉ dưới hình thức văn chương, nghệ thuật, hoặc triết học, mà ngay cả trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Điều này rất có lợi cho cuộc sống, vì nó hướng khoa học vào những công trình thực dụng hơn, thiết thực hơn. Sự chuyển hướng này bộc lộ rất rõ trong những Giải Nobel khoa học từ cuối thế kỷ 20 tới nay (trước đây thường dành cho những đề tài thuần tuý lý thuyết).

Tóm lại, đã có một sự bừng tỉnh về nhận thức đối với triết lý “Thầy Bói Xem Voi”. Để cảm nhận được điều đó, bạn chỉ cần ngồi vào computer rồi gõ “impossible models”, hoặc “artistic illusions”, “inconsistent art”, v.v. bạn sẽ có hàng trăm, hàng nghìn mô hình “bất khả” kỳ lạ khác nhau, trong đó rất nhiều mô hình vừa được công bố chỉ vài ngày trước khi bài báo này đến tay bạn. Điều đó nói lên rằng chủ đề này nóng hổi đến chừng nào.

Tuy nhiên, nếu bạn thật sự muốn biết các nhà khoa học và giáo dục ngày nay nghĩ gì về triết lý “Thầy Bói Xem Voi”, xin bạn hãy đọc ngay một cuốn “best-seller” của năm 1998: “What is Mathematics, Really?” (Thực ra Toán Học là gì?) cuả Reuben Hersh, một nhà toán học rất nổi tiếng ở Mỹ, trong đó tác giả đã dẫn nguyên văn truyện Sáu anh mù ở xứ Indostan để nói về một “giấc mơ vĩ đại” của các nhà toán học trong thế kỷ 20 – Giấc mơ tìm thấyCon Voi Toán Học”!

5. Thay lời kết:

Câu chuyện về giấc mơ tìm kiếm Con Voi Toán Học là một trong những chương có ý nghĩa nhất và quan trọng nhất trong lịch sử toán học – quan trọng đến nỗi nếu không biết gì về nó thì không những sẽ vô cùng thiệt thòi vì đã bỏ qua một trong những chương hay nhất, hấp dẫn nhất của lịch sử khoa học, mà còn có nguy cơ bị thiếu hụt một bài học vô giá về khoa học nhận thức và khoa học giáo dục.

Sự thiếu hụt ấy sẽ dẫn tới hậu quả không hiểu rõ bản chất của toán học, và do đó sẽ áp dụng một phương pháp sai lầm trong giảng dạy toán học. Đó chính là điều Reuben Hersh muốn nói, và cũng là điều mà loạt bài viết về chủ đề “Thầy Bói Xem Voi” muốn nói.

Quả thật là đang tồn tại tình trạng hiểu sai bản chất toán học, và đó là lý do căn bản dẫn tới tình trạng “dạy giả” và “học giả” tràn lan: Chưa bao giờ tình trạng học sinh không hiểu Toán, đối phó với Toán, chán Toán, sợ Toán, … ngày càng trở nên phổ biến như hiện nay.

Công bằng mà nói, tình trạng này không chỉ xẩy ra tại Việt Nam, mà đã từng xẩy ra ở ngay tại một số quốc gia phát triển, khi những quốc gia này áp dụng một phương pháp dạy Toán mà họ tưởng là “mới”. Nhưng lịch sử giáo dục đã chứng minh rằng những phương pháp gọi là “mới” đó thực chất chỉ là sản phẩm của một tham vọng không tưởng – tham vọng tìm kiếm Con Voi Toán Học. Chính vì không tưởng nên nó đã đổ vỡ tan tành!

Tại sao một tham vọng đã đổ vỡ mà vẫn còn ảnh hưởng đến nền giáo dục hôm nay? Đó là một ẩn số cần được trả lời, và sẽ được trả lời trong bài kỳ sau: “Con Voi Toán Học & Chiếc Chén Thánh của Chủ Nghĩa Hình Thức”.

Sydney ngày 01 tháng 01 năm 2009
Phạm Việt Hưng

 


[1] Nghĩa đen là chiếc chén Chúa Jesus dùng trong bữa tiệc ly với các môn đệ, trước ngày Chúa bị hành hình. Nhưng trong nền văn hoá Tây phương hiện đại, thuật ngữ này thường được dùng với ý bóng, ám chỉ một tham vọng rất lớn lao nhưng không dễ gì đạt được, thậm chí chỉ là một giấc mơ không tưởng và con người không bao giờ với tới.

[2] Dẫn theo cuốn “Impossibility” của John Barrow.

[3] Thí dụ như Reuben Hersh ở Mỹ và Michio Kaku ở Nhật Bản.

[4] Indostan là một tên gọi cổ được sử dụng nhiều trong các thế kỷ 17, 18, 19, để gọi một vùng địa lý mà ngày nay ta gọi là Nam Á, bao gồm Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Sri Lanka, Maldives, Bhutan và Nepal (những quốc gia nói chung có khí hậu nóng và chịu nhiều ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ).

[5] Trích bài của La Thiếu Bình, nhan đề “Ý nghĩa sâu xa của truyện Người Mù Sờ Voi”, Khoa Học & Tổ Quốc tháng 08-2009.

[6] Nguyên văn: “Science may set limits to knowledge, but should not set limits to imagination”

[7] Xem “Phương trình của Chúa” của Phạm Việt Hưng trên Khoa Học & Tổ Quốc, số 3+4/2005

[8] Nguyên văn: “I don’t believe in Mathematics”. Xem “Impossibility” của John Barrow.

BIÊN ĐỘ CỦA THÁNH KINH

 Tiểu phẩm của Pilinszky János
Nguyễn Hồng Nhung dịch từ nguyên bản tiếng Hung

Con người là thực thể xã hội. Trong khái niệm tâm huyết hơn: con người là thực thể sinh ra cho tình yêu thương. Vậy mà, để yêu thương cũng khó, nhận lấy lòng yêu thương cũng khó.

Ấn tượng của kẻ “sinh ra cho tình yêu thương” luôn luôn là: một mặt người ta không yêu thương tôi “đủ”, mặt khác người ta không cho phép tôi yêu thương, hoặc yêu thương một cách “thật sự”.

Chúng ta có thể liệt kê hàng loạt những nguyên nhân của kinh nghiệm, của bi kịch tình yêu thương con người, và cho dù ta có thể làm dịu đi nỗi đau chúng mang lại, nhưng mâu thuẫn của bi kịch này vẫn còn nguyên: Con người sinh ra cho lòng yêu thương, nhưng vô ích kiếm tìm sự thực hiện hoàn hảo tình yêu thương trên quả đất.

Tình yêu thương thật sự – như các thi sĩ Thánh Kinh thường nói – là bộ sưu tập của tất cả các đức hạnh trần tục: sự khiêm nhường, lòng kiên nhẫn, sự hiền dịu, hiến dâng, lòng trung thành và sự anh minh.

Thế nhưng thử thách chân chính của tình yêu thương chân chính lại là, không run sợ trước tình yêu thương của kẻ khác, để ngập tràn lòng nhân từ, sự kiên nhẫn và khiêm nhường đón nhận tình yêu thương.

Đã bao nhiêu lần chúng ta nghe nói đến một tình yêu thương nặng gánh, gây bực bội, không thể chịu đựng nổi. Và đã bao nhiêu lần chúng ta thấy trong tình yêu, cuộc đấu súng của đôi “tình nhân”, cuộc chiến của kẻ săn đuổi và kẻ bị truy rượt, chủ nghĩa man rợ ăn thịt lẫn nhau thực sự của tình yêu thương.

Bởi vậy, trước bi thảm của tình yêu thương của con người Kinh Thánh vẫn là cuốn sách lớn của mọi cuốn sách. Thượng Đế sống trong Lời, là kẻ cho phép người khác yêu thương mình! Đấy là nhận thức tuyệt hảo nhất của tình yêu thương.

Và ai một lần đã đạt đến mức cảm thấy những từ ngữ của Kinh Thánh hoàn toàn quyện lấy mình, với kẻ đó bằng chứng sâu sắc thánh thiện nhất là bằng chứng tình yêu thương của Thánh Kinh. Thượng Đế là người mà ta có thể yêu thương được. Không một cơn khát nào bị ngăn cản.

Francois Mauriac đã phân tích một nhân vật trở thành linh mục như sau: “Nếu anh ta yêu một người nào đấy, luôn luôn người ấy là kẻ mà anh ta yêu hơn cả, và những trái tim như thế là những con mồi dễ dàng cho Thượng Đế”.

Thật là một định nghĩa táo tợn, mà bản chất của nó có thể dịch như sau: với những trái tim như vậy chỉ một mình Thượng Đế biết hiến dâng bản thân Ngài cho nó mà thôi! Thậm chí Ngài chỉ ôm vào lòng những kẻ như vậy.

Những kẻ mà bên cạnh tình yêu thương của họ tất cả mọi người đều tháo chạy, những kẻ đó khao khát đợi chờ Thượng Đế nhiều nhất – một cách thầm kín, nhưng gần gũi, vô hình với sự gắn bó diệu kỳ nhất.

Bởi vậy thật an ủi sau một ngày phiền nhiễu mệt mỏi nặng nề, trong tĩnh lặng của màn đêm lật giở từng trang – từng trang Kinh Thánh. Và đây cũng là điều bất tử trong sách Thánh: tình yêu thương, sự tuyệt vời của tình yêu thương siêu việt.

Rất nhiều lần tôi đã trầm ngâm, cuộc gặp gỡ đầu tiên với Chúa Giêsu đã mang lại cú sốc như thế nào đối với một người đọc Hy lạp hay Latin?

Bởi vì chúng ta biết một định luật thiêng tàn bạo trong các truyện thần thoại, khi vị thần mới truất ngôi vị thần cũ, Zeus hạ bệ Kronos, như những chiếc lá mới xô đẩy những chiếc lá năm ngoái, như trong các bộ lạc man rợ cậu con trai giết cha. Sự phát triển đòi hỏi nạn nhân, và ngay đến sự ra đời và cái chết của các thần linh cũng phản ánh quy luật thiên nhiên trần trụi này.

Người đọc được nuôi dưỡng từ các thần thoại Hy lạp và Latin chắc chắn sẽ hết sức ngạc nhiên khi đọc về mối quan hệ giữa Cha và Con trong Kinh Thánh, để tự ngẫm với mình bằng trái tim và trí óc kinh ngạc rằng: “Ôi, đây là một Thượng Đế mới, kẻ ra mắt Cha như một nạn nhân trong sạch. BA NGÔI là chiến thắng của tình yêu thương, đã chặn đứng một dãy dài, một quá trình tiến hóa tội lỗi khủng khiếp. Trong BA NGÔI, thật sự Thượng Đế vĩnh cửu đã đến với chúng ta.”

“Các ngươi đừng sợ hãi, ta đã chiến thắng thế gian” – Chúa Giêsu nói, và khi Chúa nói điều này, chúng ta hiểu, người nghĩ đến một tình thương yêu vô bờ bến. Tình yêu thương là thứ không thể trôi qua, là thứ không thể tránh khỏi và vĩnh viễn không bao giờ bị bỏ quên. Tình yêu thương là khái niệm sâu sắc nhất chúng ta tạo dựng về hiện thực.

Ngôn từ của Chúa từ tình yêu thương mới khẽ khàng làm sao, chiến thắng của Người từ tình yêu thương mới êm dịu và kiên nhẫn làm sao. Và vì không có sự sống vĩnh cửu nếu thiếu tình yêu thương, nên chỉ một mình tình yêu thương mới có thể an bài trong vĩnh cửu và toàn diện.

Kinh Thánh là bằng chứng yêu thương vĩ đại duy nhất bên cạnh sự sống. Thượng Đế, cũng như bí ẩn của BA NGÔI có thể tiếp cận gần gũi nhất bằng logic của tình yêu thương.

Từ đây có sự hiện đại vĩnh cửu của Kinh Thánh.

(Hà nội 2013-01-04)

Nguồn: :https://viethungpham.com

PHILOSOPHY of SCIENCE & Gödel’s Theorem
Định lý Bất toàn & Triết học Khoa học

Bài 1 / 4 trong loạt bài PHILOSOPHY of SCIENCE & Gödel’s Theorem

Tác giả: Thầy Phạm Việt Hưng

Computer sẽ không bao giờ thông minh như con người, và bạn sẽ chẳng bao giờ hiểu đầy đủ về chính bạn. Không tồn tại Lý thuyết về mọi thứ. Siêu-toán-học là một giấc mơ không tưởng. Không thể giải thích nguyên nhân đầu tiên. Không thể có lý thuyết cuối cùng. Bộ não là một chiếc máy tính được kết nối với một linh hồn. Thế giới chân lý rộng hơn nhận thức của con người. Nhận thức của con người rộng hơn tư duy lý lẽ. Tư duy lý lẽ rộng hơn tư duy duy vật… Muốn đến gần chân lý hơn, con người phải tự giải thoát khỏi cái khung chật hẹp của chủ nghĩa duy vật, của tư duy lý lẽ, bay lên những tầng cao hơn của thế giới bằng đôi cánh của trực giác và cảm xúc …

Mọi nhận định ở trên đều là hệ quả triết học trực tiếp hoặc gián tiếp của Định lý Bất toàn của Gödel – một định lý đóng vai trò nền tảng trong khoa học nhận thức hiện đại. Không thể có một cái nhìn đúng đắn về thế giới nếu không hiểu Định lý Gödel.

Xin trích đăng lại loạt bài báo về Định lý Gödel và Hệ quả triết học của nó của Thầy Phạm Việt Hùng , đã đăng trên PVHg’s Home (viethungpham.com)

Không tìm thấy bài viết nào.

Nguyên Lý Sinh của Hiếu Ðạo
Trong Ðạo Thờ Kính Tổ Tiên

Giáo Sư Trần Văn Ðoàn, Ðại Học Quốc Gia Ðài Loan

1. Dẫn Nhập

Ai cũng biết là người Việt tôn kính tổ tiên, và nghi lễ tôn kính rất long trọng, trang nghiêm và thần bí. Họ coi việc thờ kính tổ tiên như là chính cái đạo sống của mình. Tuy nhiên, ít ai chú ý tới nền tảng siêu hình của cái đạo thờ kính tổ tiên này. Cũng không có mấy người đào sâu vào nền triết lý căn bản của nó. Chính vì thế mà có rất nhiều ngộ nhận từ phía người ngoại quốc, và ngay từ chính người Việt bị ảnh hưởng của tân học. Lối nhìn của họ đôi khi ngô nghê, đôi khi rất một chiều, đôi khi rất lạc quan, song đôi khi lại đầy châm biếm và thù nghịch đối với đạo ông bà của chúng ta. Dù với lối nhìn nào đi nữa, những lối nhìn phiến diện này gây ra những hiểu lầm tai hại, nhất là khi nền giáo dục nước nhà chịu ảnh hưởng của giới Tây học. Hậu qủa tất yếu, cả một lịch sử tư tưởng dân tộc bị giản đơn hóa thành một lịch sử thiếu tư duy, hay tư duy một cách “man dã.” Luận văn sau đi tìm nền tảng siêu hình của đạo thờ kính tổ tiên nhằm làm sáng tỏ vấn đề và phá bỏ những ngộ nhận không cần thiết. Chúng tôi tập trung vào hiếu đạo trong Nho giáo, bởi lẽ hiếu đạo là một nền tảng siêu hình của đạo thờ kính tổ tiên.

Luận văn này gồm hai phần chính. Phần thứ nhất bàn về nguyên lý siêu hình, tức đạo của hiếu. Phần thứ hai phân tích nguyên lý truyền sinh của hiếu đạo qua các văn bản kinh điển nho học như Lễ Ký, Mạnh Tử, Luận Ngữ, Sử Ký và Hiếu Kinh cũng như trong tư tưởng của một vài Nho gia như Trình Di. Phần kết là một phản tư về hiếu đạo trong đạo thờ kính tổ tiên.

2. Hiếu Ðạo và cái Ðạo Hiếu

Ðể tránh hiểu lầm, trước khi bàn về nguyên lý hiếu đạo, chúng ta cần phải giải thích sơ qua về tiếng đạo thường được hiểu một cách rất ư mập mờ trong ngôn ngữ và trong tập quán của người Việt chúng ta, hay ngay trong cách lý giải của những nhà trí thức Việt. Vì phạm vi của bài viết, chúng tôi sẽ không trình bày quá trình diễn biến của đạo trong lịch sử triết học Trung Hoa, mà chỉ nhắm làm sáng tỏ ý nghĩa của nó trong khi áp dụng vào hiếu đạo.

Chúng tôi hiểu đạo theo một nghĩa rất rộng: đạo như một phương thế, một con đường, một nền đạo đức (lề luật) mà chúng ta phải theo; đạo cũng là một mục đích; và đạo như là một nguyên lý siêu hình, vũ trụ, tâm linh.

2.1. Ðạo là Ðường, Phương Thế, Cách Thức

Theo nghĩa thông thường, đạo chỉ là một con đường, một lối, một cách thế, một phương tiện, một cách biểu tả, một thói quen, một hành vi mà chúng ta tin, chấp nhận, hay bắt buộc phải theo. Một cái đạo như thế luôn nhắm tới một mục đích nào đó, thí dụ như giải quyết vấn đề, hoặc làm sáng tỏ sự vật, hay con người, hoặc biểu tả tri thức hay tâm tình chung, hoặc sống phù hợp với ý thích, hay lý tưởng của mỗi người. Như vậy, tuỳ theo mỗi cách thế, hay mỗi mục đích, chúng ta có những cái đạo khác nhau. Bạch đạo là một lối sống theo pháp luật, hay theo một nền đạo đức, hay theo quy luật xã hội, hay theo lối sống thông thường mà chúng ta chấp nhận. Ngược lại, hắc đạo nói lên cách sống không theo pháp luật thường tình. Ðó là một lối sống theo luật, lệ, hay thói quen của một nhóm người (băng, đảng), hay một “xã hội” nhỏ đi ngược lại với pháp luật chung của mọi người, hay của quốc gia, hay của một tôn giáo lớn. Tuy “phi pháp” những người này vẫn tuân theo một cái đạo sống của họ. Người ăn trộm tuân giữ những quy tắc của cái đạo chích; họ thờ ông tổ ăn trộm của họ; họ học cách thức (nghệ thuật) trộm cắp; họ sống theo luật sống của trộm cắp (luật giang hồ)… Tương tự, sư đạo là đạo của những người làm thầy, sinh đạo là cái đạo của người học sinh, vương đạo là cái đạo mà ông vua phải theo, thần đạo là cái đạo người thần, dân phải tuân giữ, đạo ăn mày (của khất cái), vân vân. Từ đây chúng ta thấy mỗi cách sống khác biệt nói lên một đạo sống. Mỗi nhóm người chọn một con đường chung, mục đích chung, lý tưởng chung… đều theo, chấp nhận, hay tuân giữ cái đạo của họ. Do vậy, ta không lấy làm lạ gì khi mỗi lối sống đều nói lên một cái đạo chi đó. Ta có đạo tình (luật của tình yêu), đạo hữu (tình bạn) (đạo hữu cũng có nghĩa những người cùng một đạo), văn đạo, đạo của người học trò, sư đạo (đạo làm thầy), vương đạo (đạo vua), quan đạo (đạo làm quan), phụ đạo (đạo làm cha), mẫu đạo (đạo làm mẹ), tu đạo (đạo người đi tu), vân vân. Theo đúng cái đạo sống của mình được Khổng Tử cho là chính danh.

Ngoài ra, chúng ta thường hiểu đạo với lối sống theo đạo giáo nào đó, thí dụ sống đạo Khổng, sống đạo Phật, sống đạo Thiên Chúa… mặc dù người sống không nhất thiết là Phật tử, Nho gia hay tín hữu Kitô giáo. Ngay trong Phật giáo, người thì theo thiền đạo, người lại theo tâm đạo, vân vân. Hoặc nơi người Công giáo, họ cũng luyện tập thiền đạo (để suy gẫm, mặc tưởng, vân vân), và tuân giữ những quy luật của đạo Nho. Nơi đây, theo đạo có nghĩa là theo cách sống, luật sống, quy tắc sống, phong tục sống mà mọi người nhận thấy có lợi, hay hợp với sở thích, hay hợp với xã hội, hay hợp với lý tưởng của mình, hay giúp họ đạt tới một mục đích cao vời hơn.

Như chúng ta đã trình bày trên, chữ đạo mang rất nhiều nghĩa, nhưng đều chỉ ra một lối sống, một cách sống, và một mục đích sống. Sự khác biệt của cuộc sống, lối sống, cách sống, cấu tạo lên những cái đạo khác nhau.

2.2. Ðạo là chính Mục Ðích Sống

Thứ hai, đạo không chỉ là phương cách, mà còn là chính mục đích. Nơi đây, cần phân biệt ra hai loại mục đích: mục đích tạm thời, và mục đích chung cực tối hậu. Cái mục đích tạm thời như giầu sang, phú quý, hay ăn ngon mặc đẹp, thoả mãn dục vọng, danh vọng, quyền lực, hay bất cứ một mục đích nào tương tự… cũng có thể khiến con người chọn lựa và tìm đủ phương cách để đạt tới. Tuy nhiên, những mục đích này, nói đúng ra, chỉ là những mục tiêu có tính cách công cụ để có thể đạt tới mục đích khác, tức chính cuộc sống. Tiếc thay, chúng ta chỉ nhìn thấy ngón tay (mục tiêu) mà không thấy mặt trăng (mục đích), chỉ thấy những giá trị tạm thơì mà không nhận ra được giá trị vĩnh hằng. Từ đây ta có thể thấy những đạo khác nhau như: đạo bái vật, đạo bái vật tổ (totemism), đạo bái Phật Di Lạc (cho những ai muốn hưởng phúc, lạc), đạo bái Quan Công (cho những người buôn bán), đạo bái mặt trời (quyền lực), đạo bái dương vật (tính dục), đạo bái ông tổ trộm (thần trộm), hay bái quỷ thần (satanism). Trong ngôn ngữ bình dân ta thấy “đạo ăn” được những người theo lý thuyết “có thực mới vực được đạo” chấp nhận. Họ lấy miếng cơm manh áo làm chính mục đích của cuộc sống. Tương tự ta có “đạo tiền” (lấy tiền làm mục đích, quên cả sinh mệnh), “đạo quan” (lấy quan chức làm mục đích), đạo vị lợi, và tương tự.

Ngược lại với những mục đích tạm thời, đó là mục đích vĩnh cửu. Con người đi tìm kiếm một đời sống viên mãn, vĩnh hằng không còn bị ràng buộc bởi những mục đích tạm thời. Từ đây chúng ta có những đạo giáo (hay tôn giáo lớn) như Thiên Chúa Giáo, Phật Giáo, Nho Giáo, Ðạo Giáo, Hồi Giáo và Ấn Ðộ giáo… Tất cả những tôn giáo này đều đặt sự vĩnh cửu làm mục đích chính của họ (Thiên Chúa, Thiên đàng, viên mãn, vân vân). Và từ đây, câu hỏi làm thế nào có thể đạt tới đời sống vĩnh cửu, mỗi tôn giáo có thể đề ra những đường lối, phương cách, hay phương pháp khác nhau. Do đó, đạo lý của bất cứ tôn giáo nào cũng phân ra làm ba phần chính: (1) phần siêu hình hay căn bản nói về chính mục đích tối hậu, (2) phần giáo lý bao gồm những nguyên tắc thiết yếu và những quy luật cũng như phương thế cần thiết như nghi lễ, nhiệm tích, vân vân, để đạt tới mục đích tối hậu, và (3) phần diễn tả, bảo tồn, tuyên truyền (truyền giáo) bao gồm tổ chức, giáo dục, phụng tế, kinh nguyện, vân vân). Một tôn giáo càng chặt chẽ, thì ba phần trên càng không thể tách biệt. Thành thử, đạo nơi đây có ba nghĩa: đạo là nguyên lý tối hậu (Thượng Ðế, viên mãn vân vân), đạo là đạo lý (giáo lý, giáo điều, giáo quy, luật), và đạo là một tổ chức (bao gồm người thi hành nghi lễ, tổ chức, điều hành, hệ thống giáo dục, truyền đạo, đền, miếu, vân vân).

2.3. Ðạo là Nguyên Lý

Thứ ba, trong triết học (và chỉ trong triết học mà thôi), đạo mang ý nghĩa của một nguyên lý thuần túy làm căn bản cho cuộc sống, hay cho chính thế giới. Một nguyên lý thuần túy là một nguyên lý vô định, vô lượng, “vô thanh, vô sắc” song không thể thiếu. Nói theo Lão Tử, tuy “đạo vô thường” song lại là “vạn vật chi mẫu,” tuy”vô vi” song lại là động lực của vạn vật. Ðó chính là “đạo khả đạo, phi thường đạo.” Hay nói theo ngôn ngữ của triết gia Martin Heidegger (1889-1976) thì đạo tức là chính cái hữu thể uyên nguyên. Nó sâu nhất song lại rõ nhất, rộng nhất song lại hẹp nhất, xa nhất song lại gần nhất, cao vời song lại luôn thân cận… Là một nguyên lý cho cuộc sống, đạo xác định, biểu tả và hướng dẫn cuộc sống. Chính vì vậy mà thánh Âu Cơ Tinh (Augustinus 354-430) và triết gia Blaise Pascal (1623-1662) mới coi cái đạo đồng nhất với chính Thiên Chúa: Ngài xa vời vô biên, song lại ngự ngay chính trong tấm lòng (tâm) của chúng ta, và do đó chỉ có ai có tấm lòng “đơn sơ,” “ngay thật,” “thuần nhất”… mới có thể hiểu được đạo. Ngài là nền tảng, là hướng đi và là mục đích tối hậu của cuộc sống cũng như là chính cuộc sống (via, vita et veritas).

2.4. Ðạo Sống

Từ lối nhìn trên, chúng tôi hiểu hiếu đạo theo cả ba nghĩa, và từ đó đi tìm ý nghĩa của đạo hiếu. Ðạo hiếu diễn tả một lối sống, một cách thế cư xử, mục đích của cuộc sống và một nguyên lý sống. Nói một cách cụ thể hơn, đạo hiếu là một kiểu diễn tả sự quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa con người với tổ tông của họ. Ðạo hiếu cũng phản ánh cái thế sinh và lối nhìn của người Việt về thế sinh đó. Và sau cùng, đạo hiếu nói lên chính cái nguyên lý sống, tức cái mục đích tối hậu của cuộc sống: đó là chính sự sống qua nguyên lý truyền sinh.

Chúng ta sẽ rất ngạc nhiên, đặt vấn đề tại sao ngay trong chương đầu tiên của Luận Ngữ, đức Khổng đề cao hiếu đễ coi nó như là nền tảng của nhân sinh. Lẽ dĩ nhiên, nếu chỉ dựa theo những câu nói của ngài, chúng ta khó có thể nắm vững được luận cứ của hiếu đễ. Chỉ khi đào sâu vào nguyên lý của đạo hiếu, chúng ta mới thấu suốt được thâm ý của ngài. Khi nâng hiếu đạo lên hàng nguyên lý, đồng hàng với đạo nhân, Khổng Tử muốn chứng minh nguyên lý sống tiềm ẩn trong đạo, mà đạo hiếu cũng như đạo đễ chính là nền móng của cái đạo làm người. Hoặc nói rõ hơn, đạo làm người (tức đạo nhân) biểu hiện qua đạo hiếu, đạo đễ và đạo thân (gồm bằng hữu, phu phụ, sư sinh), bởi lẽ loài vật không có tình thầy trò, cha mẹ, anh em, con cái, bạn bè. Ðiều này được thầy Mạnh Tử (371-289 trước công nguyên) phát triển một cách sâu rộng trong chủ thuyết nhân bản, và được Trình Di (1033-1107) coi như là nền tảng của đạo đức khi ông xếp nó vào phạm trù nhân, tức phạm trù căn bản của tất cả học thuyết Khổng Mạnh, đó chính là “tam cương,” tức phụ tử, quân thần, phu phụ.

3. Nguyên Lý Sinh của Hiếu Ðạo

Vậy thì, nếu hiểu nguyên lý của đạo hiếu nằm ngay trong cái đạo làm người, thì điểm quan trọng mà chúng ta phải bàn tới, đó chính là nguyên lý của đạo làm người hay đạo nhân. Ðạo nhân này bao gồm những gì? Trong phần này, chúng tôi xin tạm đưa ra bốn nguyên lý: (1) nguyên lý sinh tức đạo sống, (2) nguyên lý nhân bản tức đạo việt, (3) nguyên lý tương thân tức đạo giao (xã hội, hay nước non), và (4) nguyên lý nhân (thiên) mệnh tức đạo tông (hay tôn giáo). Bốn nguyên lý này cấu tạo thành đạo làm người, và lẽ tất nhiên là căn bản siêu hình của đạo hiếu. Nói cách khác, đạo hiếu liên quan với sự sống (truyền sinh), hoàn thành con người (nhân bản), phát triển (việt hay vượt), quy tụ con người thành xã hội (giao) và giúp họ trường sinh (tông giáo). Vì phạm vi bài viết, chúng tôi tập trung vào nguyên lý thứ nhất, tức nguyên lý sinh. Về những nguyên lý khác chúng tôi đã hay sẽ bàn rộng thêm trong các luận văn khác.

Nguyên lý quan trọng nhất của đạo làm người, cũng là nguyên lý căn bản của đạo hiếu, đó chính là nguyên lý sinh, hay là đạo sống. Nguyên lý sinh bao gồm truyền sinh, dưỡng sinh, dục sinh, lập sinh và hộ sinh. Cũng phải thêm vào quan niệm tái sinh, một quan niệm then chốt nơi các tôn giáo, và khiến truyền sinh bất tận. Nơi đây cần phải nhấn mạnh, là quan niệm sinh là một quan niệm toàn thể, không thể tách rời ra từng giai đoạn hay bị hạn chế vào một công năng nào đó. Thế nên, có sinh mà không dưỡng thì con người không thể sống; mà có dưỡng không dục thì ta cũng chẳng khác chi hàng động vật; có dục không lập, không hộ (hỗ) thì cuộc sống chưa đầy đủ ý nghĩa; mà nếu cuộc sống bị hạn chế vào hiện sinh (tức cuộc sống hiện thế) thì nó sẽ trở lên vô nghĩa.

3.1. Truyền Sinh:

Thứ nhất, sự sống của con người không phải tự tạo, tự sinh, nhưng do cha mẹ. Câu nói “cha sinh mẹ dưỡng,” tuy bị ảnh hưởng của nền tư tưởng phong kiến phụ hệ, vẫn có thể nói lên được quan niệm của người Việt chúng ta về truyền sinh. Sự sống (sinh), đời sống (mạng) của chúng ta gắn liền với sinh mạng của cha mẹ, và như vậy, hiếu thảo với cha mẹ chỉ là một lối suy tư và cách sống thực tiễn tôn trọng sự sống của chính mình. Lối luận lý (logic) nhân qủa này vượt khỏi lối nhìn thông thường “ăn quả nhớ kẻ trồng cây.” Nó nói lên một liên tục, tất yếu và bất biến giữa chúng ta với ông bà tổ tiên, và giữa chúng ta và con (dòng) cháu (giống) sau này. Nhà nghiên cứu Toan Ánh tóm lại lối nhìn chung của người Việt chúng ta như sau:

“Tổ tiên sinh ra ông bà, ông bà sinh ra cha mẹ, cha mẹ sinh ra mình. Người con hiếu thảo phải biết ơn nghĩa sinh thành của cha mẹ, và đã hiếu với cha mẹ phải hiếu với ông bà tổ tiên tức là nguồn gốc của mình.”

Một quan niệm như thế từng thấy trong Nho giáo, như chúng ta thấy trong các kinh điển nho học, và nơi giới Nho gia. Vào thế kỷ 12, Trình Di, một danh Nho đời Tống, và một người từng gây ảnh hưởng sâu rộng trong nền Nho học Việt, đã từng bàn về đạo hiếu từ khía cạnh truyền sinh này. Ông coi sự sinh, hay truyền sinh, tức tạo ra một sự sống mới tiếp nối sự sống của ông bà tổ tiên mới là trọng tâm của đạo làm người. Vì hiểu đạo làm người đồng nghĩa với đạo sống, mà đạo sống với công năng truyền sinh, nên trước là Mạnh Tử, sau là Trình Di, mới dám quả quyết: “Bất hiếu giả tam, vô hậu vi đại.” Chúng ta nhận ra một cách dễ dàng thâm ý của Mạnh Tử và họ Trình khi các ông đặt bổn phận truyền sinh như là một nền đạo đức căn bản nhất. Thực ra một lối nhìn như thế không có chi mới lạ, cái lạ của họ Trình là ông nâng vai trò truyền sinh lên hàng căn bản của nền triết lý làm người, và như vậy ông gắn liền truyền sinh với đạo nhân nghĩa của Mạnh Tử. Thực vậy, chúng ta đã từng thấy, ngay vào đời Châu (1111-249 B.C.), tổ tiên được hiểu đồng nghĩa và vai trò với Trời, hay thế giới linh thiêng. Trước đó, vào thời Thang (thời nhà Ðường) (1751-1112 B.C.), tổ tiên được coi như Thiên, mà Thiên biểu tả sinh, mệnh: “sinh sinh bất tức” (Kinh Dịch) giống y hệt như đạo thấy trong Ðạo Ðức Kinh.

3.2. Dưỡng Sinh

Câu nói bình dân “cha sinh mẹ dưỡng” nơi người Việt phản ánh một cách trung thực lối sống của người Việt, cũng như vai trò của cha mẹ. Thực ra phải nói “cha mẹ sinh, song mẹ dưỡng” mới đúng. Tuy trong một chế độ phụ quyền, song người Việt nói chung vẫn công nhận vai trò bất khả khuyết của người mẹ: “con không cha ăn cơm với cá, con không mẹ liếm lá đầu đường.” Chính cái công sinh và dưỡng của người mẹ vượt cái ơn sinh của người cha, thế nên không những “lệnh ông không bằng cồng bà,” mà còn “một bà mười ông” (ngược lại với “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” của chế độ phong kiến). Trong tư tưởng Mạnh Tử, một người từng được mẹ nuôi, dưỡng và giáo huấn, chúng ta thấy sinh luôn gắn liền với dưỡng. Câu truyện của bà mẹ thầy nuôi, và dậy thầy lên người nói lên tầm quan trọng của dưỡng, dục trong Nho giáo. Thế nên sinh và dưỡng không thể tách biệt được. Câu “công cha như núi Thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” thực ra đã đồng nghĩa sinh với dưỡng, và dưỡng với dục.

– Dục Sinh

Câu nói bất hủ của Khổng Tử: “Ngã thập hữu ngũ nhi chí ư học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tòng tâm sở dục, bất du củ.” Khi Khổng Tử đặt nặng vấn đề giáo dục “hữu giáo vô loại,” ngài đã nhìn ra sinh và dưỡng, và dưỡng và dục không thể tách rời. Có sinh mà không có dưỡng cũng chỉ là một súc sinh, mà nếu không có dục thì sinh mệnh cũng chẳng còn. Một quốc gia thiếu giáo dục thì sớm muộn gì cũng nước mất nhà tan. Ðây là một quan niệm rất đáng chú ý, bởi đạo hiếu không chỉ hạn hẹp đối với người sinh ra ta, mà còn đối với người cho chúng ta sự sống. Thế nên trong ngôn ngữ thường nhật chúng ta có thân phụ (người sinh ra ta), dưỡng phụ (người nuôi ta) và sư phụ (người dậy ta). Vai trò của sư phụ do đó không kém vai trò của cha mẹ: “không thầy, đố mày làm lên.”

3.3. Lập Sinh và Hộ Sinh

Một yếu tố khác không thể thiếu trong đạo lý sinh, đó là lập sinh và hộ sinh. Khi Khổng Tử nhấn mạnh đến sự kiện ngài tự lập vào lúc 40 tuổi, thánh nhân muốn nhấn mạnh đến sự kiện là cuộc sống không hoàn mỹ nếu không phải là một cuộc sống tự lập. Tuy vậy, nếu tự lập cuộc sống của mình (lập nghiệp) là một truyện quan trọng, lập ra cuộc sống cho những người khác (lập nước, lập làng, lập gia đình), hay lập danh cho cả dòng tộc, đây mới chính là một ưu tiên của Nho gia. Trong Trung Dung, ta thấy Khổng Tử từng nói rằng “Vua Võ và em ông (Châu Công) có hiếu cao rộng. Hiếu vì tiếp tục chí nguyện của ông cha, noi theo sự nghiệp của ông cha để lại mà mở mang ra.” Ðây là ý nghĩa của lập sinh mà Khổng Tử trân trọng. Hay như cụ Nguyễn Du cũng hiểu lập sinh theo nghĩa lập danh khi cụ tuyên bố: “Bất tri tam bách dư niên hậu, thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.” Tương tự, quan niệm hộ (hỗ) sinh thực ra chỉ là bản chất của cái mà đức Khổng gọi là thân (thân dân, phụ thân, song thân, thân mẫu, thân sinh), tức tương hỗ. Ðạo hiếu, như đã trích dẫn từ Luận Ngữ, chương một, được xây dựng trên hiếu, đễ. Hiếu đễ lại dựa trên chữ thân. Chính cái tình thân này cũng là nền tảng của gia đình. Tương tự, ta thấy hộ sinh được đức Khổng mở rộng ra vượt khỏi vòng gia đình, nới rộng cho tới dân tộc: “Ðại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân” hay trong Trung Dung: “Gia lạc quân tử, hiến hiến lệnh đức; nghi dân nghi nhân, thọ lộc vu thiên, bảo hữu mạng chi, tự thiên thân chi.”

3.4. Tái Sinh

Lẽ dĩ nhiên, mạng sống của con người không chấm dứt với cái chết. Ngược lại, trong tư tưởng Ðông phương cách chung, sự sống kéo dài từ vãng sinh, tới hiện sinh, và từ hiện sinh tới lai sinh. Ðiểm quan trọng mà Nho giáo và các đạo giáo khác chủ trương, đó là cuộc sống không kéo dài một cách tự động, và cuộc sống cũng không nhất thiết theo tiến trình biến hóa một cách máy móc. Ngược lại, chính con người, qua sự việc tu thân (tu tâm) có thể biến đổi lai sinh, hay ít nhất quyết định cuộc sống mai sau của mình. Hiếu đạo nói lên không những truyền sinh, mà còn trường sinh. Sự thực là cha mẹ đã qua đời, thế nên niềm mong đợi tái sinh qua những hình thức khác nhau, hay qua chính con cái “bố nào con ấy, mẹ nào con đó” nói lên một lý do tại sao phải hiếu. Thực vậy, những nghi thức như cải táng, hay cúng giỗ, hoặc ngay cả tập tục xin lễ cho người quá cố (trong đạo Công giáo) cũng nói lên được niềm tin vào tái sinh nơi người Việt.

4. Kết Luận

Hiếu Ðạo, Nền Tảng của Ðạo Thờ Kính Tổ Tiên

Ða số những trí thức bị ảnh hưởng của Hán học thường cho rằng người Việt chúng ta học đạo hiếu từ người Tầu qua học thuyết của nho giáo. Một lối nhìn như vậy xem ra có nền tảng, bởi lẽ tất cả kinh điển, điển tích dạy con cháu hiếu thảo đều trích dẫn hoặc từ Tứ Thư, Ngũ Kinh, hoặc gần hơn từ tư tưởng của Nhị Trình, từ Hiếu Kinh hay Nhị Thập Tứ Hiếu (như trường hợp Gia Huấn Ca). Song nếu đi sâu hơn vào trong tâm thức người Việt, chúng ta có lẽ thấy rằng, đạo hiếu vốn là cái đạo tất yếu chung cho loài người. Chỉ có lối hiểu, và lối biểu tả (hành đạo) có phần khác biệt mà thôi. Chính vì thế trong phần dẫn nhập (chú thích 2) chúng tôi đã phân biệt hiếu đạo (lối hiểu, hay phần nguyên lý) khỏi cái đạo hiếu (tức lối sống, hành đạo, hiếu như thế nào, bằng cách gì). Theo thiển kiến của chúng tôi thì phần nguyên lý, đạo hiếu của chúng ta không có qúa khác với hiếu đạo trong nho giáo. Chúng ta hiếu vì nhiều lý do, nhưng tất cả đều liên quan tới cái mà chúng tôi gọi là đạo sống. Trong phần hành đạo, người Việt cũng không nhất thiết theo người Hoa. Cái đạo hiếu của chúng ta cũng khác với lối đạo hiếu trong Nhị Thập Tứ Hiếu, và lối thờ kính ông bà cha mẹ của chúng ta không hẳn rập theo khuôn khổ của nho gia. Một thí dụ điển hình cho thấy là người Việt trọng lễ giỗ, và họ hiểu lễ giỗ khác với người Hoa.

Về phần lý thuyết, đối với người Việt, lễ giỗ không chỉ là một sự tưởng nhớ, mà còn là một sự kết hợp; không chỉ là một hành vi hiếu với cha mẹ ông bà, mà còn là một hành vi lập sinh, phát sinh và tông giáo như chúng tôi đã trình bày trên. Họ giỗ để khôi phục “danh” của giống, dòng. Họ giỗ để phát huy một cuộc sống mới (giỗ, khấn vái tổ tiên trước khi ra trận, làm buôn bán, đi du học, đi lập gia đình). Họ giỗ để nhận ra cuộc sống tương quan của dòng giống (tông), và để dạy (giáo) con cháu về cái tổ, cái tông của mình. “Uống nước nhớ nguồn,” hay “nước chảy về cội” tất cả đều nói lên những nguyên lý lập sinh, hộ sinh và tái sinh (tông giáo) này. Chính vì vậy mà người Việt có đủ loại giỗ: giỗ cha, giỗ mẹ, giỗ vợ, giỗ chồng, và nhất là giỗ thần, giỗ làng, giỗ tổ, giỗ đình, giỗ họ. Cái đặc biệt hơn cả là lễ giỗ tổ Hùng Vương.

Về phần thực hành, lễ giỗ, lễ bái tổ, hay lễ khấn, lễ cúng, lễ tạ… chỉ là những dịp, nghi thức “báo cáo” (tế) tin vui, buồn, hay khấn vái (khấn gia tiên), hay hứa hẹn, hay ăn năn, hay “tặng qùa” cho tổ (còn gọi là gửi tổ), hay tạ ơn (Lễ Tạ), vân vân. Toan Ánh lược ra những lý do bái tổ tiên như sau: (1) những tin vui (sinh con đẻ cái, con cái đầy năm, đi học, thi đậu, dựng vợ gả chồng, thăng quan tiến chức, khao vọng, được giải thưởng, làm ăn phát đạt), (2) những tin buồn (bệnh tật, chết chóc, khánh kiệt, bị kiện cáo, có người đi xa), (3) tin liên quan tới vận mệnh làng xóm, đất nước (nước loạn, bị trộm cướp quấy phá, dịch, mất mùa, hay thắng giặc).

Từ những tập quán, hay lối suy tư của người Việt, ta thấy họ bày tỏ lòng hiếu thảo bằng cách “làm nở mày nở mặt cha mẹ” tức thành công trong xã hội, bằng cách gánh vác cái trách nhiệm của cha mẹ để lại như nuôi, dạy, phát huy gia đình (một người làm quan, cả họ được nhờ), bằng cách “tích đức,” hay bằng cách hoàn tất ý muốn của cha mẹ (như trường hợp Nguyễn Trãi tiễn cha qua ải nam quan, song không theo cha đi đày mà lại trở về chiêu quân mãi võ báo thù cho cha). Nói cách khác, cái đạo hiếu của người Việt không cố định, và không tập trung vào phần thể lý, tâm lý của cha mẹ mà còn vào phần tinh thần của dòng, giống, tộc. Hành vi hiếu cũng không chỉ bị hạn chế vào phụng, dưỡng, mà còn nới rộng ra cho tới chính sự sống như Nguyễn Du từng nhấn mạnh:

“Bán mình là hiếu, cứu người là nhân.”

Hiểu như thế, chúng tôi thiết nghĩ, đạo thờ kính tổ tiên, hay thờ kính ông bà không có chi là mê tín dị đoan, càng không có chi phản lại tinh thần Kitô giáo. Lối thờ kính, cúng bái của chúng ta cũng có một nền tảng vững chắc, nền tảng này xây trên hiếu đạo, mà hiếu đạo dựa trên các nguyên lý sinh, nguyên lý nhân, nguyên lý giao, nguyên lý Việt, vân vân. Những nguyên lý này xác định rằng: con người, cho đúng nghĩa con ngưòi là một con người toàn diện, một con người luôn có bổn phận phải bảo vệ sinh mệnh (hộ sinh), và phát huy cuộc sống, đó là một con người “viễn việt” vươn tới lai sinh. Ðạo hiếu nói lên sự nối kết (tông) với tổ tiên và dạy chúng ta phải giữ gìn đạo qua nghi thức hiếu (tông giáo).

Nếu Thiên Chúa tạo dựng nên chúng ta, thì Ngài chính là tổ, là tông. Và nếu Thiên Chúa là tổ tông của chúng ta, thì tại sao chúng ta không tỏ lòng hiếu thảo với Ngài theo lối suy tư, theo tập quán, và hành vi của chúng ta? Mà lại phải theo một cung cách “xa lạ” và cách biệt như đối xử với một đại đế quyền uy song không “thân thuộc?” Và nếu cha mẹ, ông bà là những thừa tác viên của Thiên Chúa sinh ra chúng ta, thì tại sao chúng ta lại không được hiếu thảo với các người. Hành vi, cử chỉ, nghi thức bái, lạy các người nói lên cái tình thân sâu xa, cái lòng hiếu thảo của chúng ta mà thôi.

Trần Văn Ðoàn
Viện Triết Ðạo
Washington, D.C. và Corona, C.A. Hè 2001
Nguồn: Vietnamese Missionaries in Taiwan

DI SẢN VĂN HÓA VIỆT NAM
ÐỐI VỚI ÐỜI SỐNG HIỆN ÐẠI

Bài diễn văn phát biểu của Lm. Lương Kim Ðịnh
tại Hội Nghị Toàn Cầu về Triết Học lần thứ XVIII
được tổ chức tại Brighton (Anh Quốc) từ ngày 21-27/08/1988

DI SẢN VĂN HÓA VIỆT NAM

1. Di sản văn hóa Việt Nam nằm gọn trong chữ Việt với ý nghĩa siêu việt, là nhảy từ hai thái cực vào một: từ Trời cao Ðất thấp nhảy vào Người. Các nhà nghiên cứu về Ðông Nam Á thấy nét đặc trưng của miền này là lưỡng hợp tính (dual-unit) thì chính là nó: nét đó là kết quả của cái nhìn riêng biệt không xem hai đối cực như hai thực thể chống đối nhau, tiêu diệt nhau mà như là hai chiều bổ túc hỗ tương của một thực thể. Và đó cũng chính là Minh Triết, vì Minh Triết là gì nếu không là khả năng hội nhập hai thái cực.