Tâm Đạo Trong Việt Triết
Biện Chứng Tài Nhân-Nhân Tài
Trong Tư Tưởng Nguyễn Du

Gs.Trần Văn Đoàn

Luận văn này là một phần trong Chương trình Nghiên cứu cấp Nhà nước về Đặc Điểm Tư Duy và Lối Sống của Người Việt Nam Hiện Nay và Những Vấn Đề Đặt Ra Trước Yêu Cầu của Đổi Mới và Hội Nhập Quốc Tế” (KX.03.07/06-10) do Viện Triết Học thực hiện, Phó Giáo Sư Tiến Sĩ Nguyễn Ngọc Hà chủ trì. Tác giả xin trân trọng cám ơn Viện Triết Học thuộc Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam, đã có nhã ý mời cộng tác. Đặc biệt cám ơn Phó Giáo Sư Tiến Sĩ Viện trưởng Phạm Văn Đức, Giáo Sư Tiến Si Dương Phú Hiệp, Phó Giáo Sư Tiến Sỹ Phó Viện trưởng Nguyễn Ngọc Hà, chủ nhiệm đề tài; Tiến Sỹ Nguyễn Tài Đông và qúy đồng nghiệp tại Viện Triết Học.

1. DẪN NHẬP

Tâm Đạo và Lối Suy Tư Việt

Tiếp theo hai luận văn bàn về tâm đạo, qua phân tích về chữ mệnh cũng như chữ tài trong Truyện Kiều[1],mà mục đích nhắm khai quật lối suy tư Việt, luận văn này tiếp tục làm sáng tỏ lý thuyết tâm đạo Việt được Nguyễn Du phát triển từ triết lý tam tài. Dựa trên kết qủa của hai luận văn về mệnh và tài nói trên, chúng tôi lý giải tâm đạo như là nền tảng siêu hình của triết lý sống Việt. Đồng thời, tâm đạo cũng là con đường (phương cách và phương pháp) tự cải thiện khiến con người trở thành một nguyên lực (tài)[2] ngang hàng với Trời, với Đất, hay nói theo Nguyễn Công Trứ và truyền thống nho gia, có thể đứng trong trời đất,[3] đỉnh thiên lập địa. Qúa trình cải tiến từ một người có tài được Trời phú bẩm (thiên tài), nhưng chỉ biết dùng cái tài ấy cho riêng mình (tài nhân), tới người có tài nhờ thực thi tâm đạo, và dùng cái tài ấy phục vụ xã hội và con người (nhân tài), nói lên tính biện chứng siêu việt trong tư tuởng Việt. Quan niệm nhân tài, do đó, biểu hiện con người như là một nguyên lực biết phát huy cái lực phú bẩm (tài) hợp với Trời, với Đất và hòa thuận với mọi người, khiến con người đồng hàng với Trời và Đất, như triết lý tam tài từng chủ trương.[4]

Như đã nói trên, chúng tôi hiểu tâm đạo là nguyên lý siêu hình của triết lý sống Việt, và là con đường hay là cái đạo lý của thế giới Việt. Nơi đây cần phải giải thích rộng hơn. Theo nghĩa thường, tâm đạo là cái đạo (nguyên lý) của con tim, đồng lúc cũng là con đường (phương thế và phương pháp) con tim sinh hoạt (suy tư, biết, cảm giác, quyết định…). Đó có nghĩa là, tâm đạo cũng là quy luật của trái tim. Nhưng, tim nơi đây phải hiểu theo nghĩa rộng của chữ tâm, điểm hội tụ của ba nguyên lực Trời, Đất và người.[5] Nó không chỉ hạn hẹp như là một logic (quy luật) của tình (như thấy nơi Blaise Pascal, hay trước đó thánh Augustine), hay cái lý (Chu Hi), hay lương tri (Vương Dương Minh) mà thôi.[6] Hơn thế nữa, (1) tâm đạo chính là lối suy tư hòa hợp con người với vạn vật (Đất) và thế giới siêu nhiên (Trời). (2) Tâm đạo cũng là một loại luận chứng dựa theo quy luật hòa hợp của con tim. Hợp thông giữa tình và lý — mà chúng tôi gọi là tính hợp lý (reasonableness)[7] — là một quy luật nội tại, trong khi hòa hợp giữa con người với nhau (nhân hòa) là quy luật xã hội, hay quy luật được ngoại tại hóa của tâm. Và (3) tâm đạo nói lên vai trò chủ động của chủ thể chọn đường lối tự tu thân cải thiện ý lực (hay tài năng), biểu hiện cái ý lực đó qua việc cứu nhân độ thế,[8] vì dân vì nước, vì mẹ vì cha, khiến con người có thể trờ thành đồng hàng với hai nguyên lực Trời và Đất. Đó chính là giai đoạn phát huy tài năng, để có thể trở thành nhân tài, hay người quân tử, hay kẻ sỹ:

“Một mình để vì dân vì nước,
Túi kinh luân từ trước để nghìn sau”
                           (Nguyễn Công Trứ).

Vì mục đích chính là khám phá và phát triển triết lý tâm đạo trong nền triết học Việt, nên mặc dù có tham khảo nhưng chúng tôi không dựa vào văn bản cũng như lối lý giài của giới triết học Trung quốc như trong các bài viết trước đây. Ngược lại, người viết chủ ý đi sâu vào trong tư tưởng các nho gia Việt. Chính vì vậy mà chúng tôi chỉ tham khảo văn bản của nho gia Việt như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Lê Qúy Đôn, và gần đây hơn vào thế kỷ 20, các “tân” nho gia như Phan Bội Châu, Trần Trọng Kim, (Lương) Kim Định, Cao Xuân Huy, Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê, Trần Đình Hượu cũng như các học giả hiện thời như Vũ Khiêu, Nguyễn Tài Thư, và một số vị khác. Quyết định này không phải vì chủ trương duy Việt (Vietcentrism), nhưng vì người viết đặc biệt muốn nhấn mạnh đến sự kiện, qua những biến chuyển giữa các nền nho học, đặc biệt từ Hán nho, Tống nho, Minh nho, Thanh nho, và vì tính chất biện chứng siêu việt mà Việt nho phát triển một cách đặc thù, khiến nó không phải còn là phiên bản của Hán, Tống, Minh hay Thanh (ngược lại với nhận định của nhiều thức gỉa như học gỉa Trần Trọng Kim, Giáo sư Trần Đình Hượu, vân vân).[9] Cũng vì tính biện chứng siêu việt này, Việt nho ngày hôm nay cũng không hẳn đồng nhất với Việt nho thấy nơi nho gia vào triều Nguyễn hay đầu thế kỷ thứ 20 nữa. Tương tự, Việt nho sẽ biến chuyển, và tương lai của nó sẽ rộng hơn, đầy đủ hơn. Nhưng dù có biến chuyển thế nào đi nữa, Việt nho vẫn giữ được cái bản chất nho của mình.

Về phương pháp, như độc gỉa dễ dàng nhận ra, người viết áp dụng thông diễn học của Hans-Georg Gadamer, chú trọng tới bản chất phát sinh qua sụ dung hợp khi tiếp cận văn bản, hay tiếp cận nền văn hóa mới và thế giới sống khác. Gadamer lấy thì dụ của sự dung hợp giữa các chân trời (Horizontverschmelzung, fusion of horizons) để nói lên tính chất dung hợp của kinh nghiệm cũ và những tiếp nhận mới, cũng như tính hữu sinh tạo ra cái nhìn, kinh nghiệm mới.[10] Vì vậy mà khi thông diễn văn bản, chúng tôi không chỉ giải thích và giải nghĩa văn bản, mà còn phát triển ý nghĩa ẩn náu sâu dưới mặt phẳng của ngôn ngữ. Đồng thời, người viết cũng tham chiếu những viễn kiến khác biệt từ triết học Tây phương và triết học Trung quốc hiện đại, giúp người đọc có thể tự phát hiện ra ý nghĩa mới làm giầu thêm sự hiểu biết của mình. Lẽ dĩ nhiên, trung thực với văn bản nguyên thủy là điều kiện lý tưởng bắt buộc. Tuy nhiên, vấn đề chính là làm sao ta có thể xác định được tính trung thực, khi mà văn bản không xuất phát ở cùng một xã hội, vào cùng một thời gian, và nơi cùng một sắc tộc cũng như đồng với ngôn ngữ thời đại chúng ta? Chưa cần phải nói đến vấn nạn độc gỉa thường tự thêm thắt gia vị mắm muối vào câu chuyện khiến chúng mang tính “hiện thực” hơn. Ta biết, gần như mọi văn bản theo truyền thống của đông phương đều tam sao thất bản, và với những giải thích bách hoa khai phóng, trăm hoa đua nở, chẳng ai giống ai.[11] Điểm quan trọng hơn nữa mà chúng tôi muốn nhấn mạnh, đó là khả năng hiểu biết của người tiếp cận. Tính chủ thể, cũng như cái thế sinh, văn hóa, ngôn ngữ, vân vân, của độc gỉa, khiến mỗi người khác nhau, và do đó, có sự hiểu biết khác nhau khi tiếp xúc với cùng một văn bản. Một trăm người đọc Đạo Đức Kinh, thì có lẽ cũng có một trăm lối hiểu biết khác biệt, hay ít nhất là không đồng nhất.[12] Chính vì thế mà chúng tôi hiểu tính trung thực không theo nghĩa trung thành (loyalty, fidelity), nhưng theo hai nghĩa: (1) tính đặc thù có một không hai của văn bản và tác gỉa (authenticity), và (2) tính quảng, tính diễn và tính dụng, tức là cái uy lực của văn bản muốn phát huy. Hiểu theo nghĩa thứ nhất của tính đặc thù, tính trung thực của văn bản không hẳn bị mất mát vì tam sao thất bản (như thấy trong trường hợp các văn bản Việt, và ngôn bản truyền khẩu).[13] Nó chỉ bị mất khi cái thế giới sống tạo ra văn bản (written texte), ngôn bản (oral texte), thuật thoại (narrative) đã bị mai một. Hiều trung thực theo hai nghĩa trên, chúng tôi đặt nặng tính hiểu biết, hay khả năng tri ngộ của người tiếp cận văn bản, chứ không phải chính văn bản. Văn bản không phải là một sự vật cố định như một viên đá, hòn sỏi, nhưng luôn bao hàm cả một thế giới sống (thế sinh, Lebenswelt theo Edmund Husserl), và vì vậy, mang tính phức tạp, đặc thù cũng như xuyên thời gian và không gian. Ngoài ra, theo nghĩa thứ hai của trung thực, trọng tâm của văn bản phải được xét từ đặc tính thông, tính diễn và tính dụng, tức là ba bản chất của hiểu biết thực sự. Nói tóm lại, tính trung thực nói lên tính đặc thù của văn bản mà tác giả đóng dấu ấn trên sự thông hiểu, lối diễn tả và cách thế áp dụng của người đọc. Độc gỉa không chỉ dừng lại trên mặt chữ mà còn đi sâu vào trong, đi xa hơn ra ngoài, và phát triển rộng ra nhưng vẫn giữa được bản chất của văn bản. Hiểu trung thực như vậy, Nho giáo tại Việt Nam là tư tưởng nho cho người Việt, từng được người Việt hiểu, phát triển rộng ra cho hợp với thế giới sống của họ, và dùng vào cuộc sống, và từng ảnh hưởng tời đời sống của họ. Ngược lại, Nho học cũng đã bị cuộc sống Việt, thế giới sống Việt, và tâm linh Việt biến đổi một cách đặc thù thành Việt nho. Vì thế, lối tiếp cận và cách thế hiểu biết Nho học của họ khác với người Tầu. Đây là lý do tại sao người Việt thích dùng từ Nho giáo nhiều hơn Nho học, mặc dù họ hiểu hai từ không khác biệt là bao.[14] Theo loại suy tư này, khi phát triển tâm đạo, chúng tôi dựa theo cách sống, lối cảm nghĩ và loại suy tư (của người) Việt, và như vậy, lối lý giải của người viết không đồng nhất với những giải thích nơi các tác giả Tầu hay Âu Mỹ. Đây chính là lý do bài viết không nhắc tới tư liệu do tác giả Trung quốc, hay ngoại quốc trước tác (mặc dù chúng tôi có tham khảo), nhưng dành nhiều hơn cho các tác phẩm của giới học gỉa Việt (mặc dù người viết không hẳn nhất trí với lý giải của họ). 

Ngoài phần dẫn nhập và kết luận, bài viết này bao gồm hai phần chính. Phần thứ nhất trình bày về hai nguyên lý hòa hợp và mâu thuẫn, cấu tạo thành một phương thế mà chúng tôi tạm gọi là biện chứng siêu việt (siêu việt biện chứng). Tính mâu thuẫn thấy trong sự đối nghịch giữa tài và mệnh, giữa lý thuyết duy nhân tự chủ (anthropocentrism) và chủ trương tất định (determinism) được lý giải như tình trạng hiện hữu bất tương thông của hai thái cực hay hai nguyên lực, Trời và người. Giai đoạn mâu thuẫn được lý giải như là giai đoạn dị hóa (Entaeusserung), hay tha hoá (Entfremdung), vong thân hay vật hóa (Verdinglichung) của con người chưa ý thức được tâm đạo, đi ngược với nguyên lý (hòa) và động lực (hợp) của tam tài. Phần thứ hai diễn tả tâm đạo như là qúa trình tu thân tích đức sau khi đã ý thức được vai trò của con người trong nỗ lực cải thiệm, biến đổi cái mệnh. Chương này dựa trên những ý tưởng của Nguyễn Du về sự tương quan của tâm đạo với triết lý tam tài. Phần này thông diễn lối suy tư Việt qua việc phân tích qúa trình biến đổi, cải thiện và thăng hoa từ tài nhân tới nhân tài mà chúng tôi gọi là biện chứng siêu việt. Dựa trên sự phân tích đặc tính của tài nhân, chúng ta nhận ra lối suy tư Việt không hoàn toàn theo chủ trương duy nhân (anthropocentrism), coi con người làm trung tâm, tự quyết định vận mệnh của mình, nhưng cũng không mù quáng tin vào chủ thuyết tất định tuyệt đối (hard determinism). Cũng trong phần này, chúng tôi lý giải qúa trình phát huy nguyên lực, và năng lực thật sự của con người nhờ vào tu tâm tích đức, hành thiện, cứu nhân, độ thế, dựa trên nguyên lý và quy luật của tâm đạo. Đồng thời, chúng tôi cũng nêu ra nền triết lý tam tài một cách ngắn gọn,[15] và lý giải tại sao nó được coi như là nền tảng của tư duy Việt, lối sống Việt, và cách cảm nhận Việt. Phần kết luận xác định tâm đạo và phương pháp biện chứng siêu việt là lối tư duy và quy luật sống của ngưòi Việt. 


[1] Trần Văn Đoàn, “Chữ Mệnh trong Truyện Kiều,” trong Trần Văn Đoàn, Việt Triết Luận Tập. Thượng Tập (Washington D.C: Vietnam University Press, 2000), ctr. 208-251; Trần Văn Đoàn, “The Concept of Tài in Truyện Kiều,” trong Nho Giáo ở Việt Nam (Hà Nội: Nxb Khoa Học Xã Hội, 2006), ctr. 487-512.Viện Hán Nôm và Harvard Yenching Insitute chủ trì.
[2] Chúng tôi dùng từ nguyên lực để lý giải chữ tài. Nguyên lực (theo nghĩa energeia của triết học Hy lạp và một phần theo nghĩa khí của triết học Đông phương) nói lên cái lực uyên nguyên, vừa hội tụ lực, vừa phát sinh ra lực mới, và tự nó hiện hữu (primordial) không lệ thuộc vào thành tố ngoại tại. Dựa theo thông diễn của Matin Heidegger (Sein und Zeit, 1927), nguyên lực mang tính hữu sinh (ontological), phát sinh sức mạnh, năng lượng khi hợp (hay phản lực khi không hợp) với một lực khác, hay với những thành tố, nhân tố khác. Chính vì vậy mà nguyên lực khác với sức lực, sức mạnh. Sức mạnh, sức lực chỉ là biểu hiện của lực đã phát sinh. Nó mang tính chất công cụ, hiện sinh (ontical). Sức lực, sức mạnh có thể tăng, giảm, hiện hữu hay bất hiện hữu, hữu dụng hay vô dụng, nhưng nguyên lực thì không, bởi vì nguyên lực là nguồn của mọi sức lực. Thí dụ quân lực là sức mạnh của quân đội, lực lượng công an là sức mạnh của đội bảo vệ an ninh nhân dân. Nugồn của sức mạnh này là nhân dân. Như vậy, quân lực, công an chỉ là công cụ của nhân dân nhắm bảo vệ nhân dân (quốc phòng, an ninh quốc gia). Quận đội, lực lượng an ninh không thể và không được đồng nhất với đất nuớc và nhân dân. Nếu dùng sai mục đích (xâm lăng, xâm phạm ngưòi dân), thì cái sức mạnh này đi ngược lại với nguyên lực, và sớm muộn sẽ mất. Nhân dân mới là nguyên lực, bởi vì người dân là mục đích. Quân lực chỉ là biểu tượng của sức mạnh nhân dân, và là công cụ chứ không phải là mục đích. Như vậy, ta có thể nói, lực không phải là mục đích, nhưng nguyên lực đồng nhất với mục đích. Lực có thể mạnh, yếu, cần thiết hay không cần thiết, có thể có hay không, tăng hay giảm. hay thậm chí tan rã, trong khi nguyên lực thì không bao giờ mất. Đây là tâm điểm của thuyết tam tài và của lý thuyết dân vi qúy của Mạnh Tử, cũng như của Thương Ưởng và nhóm Mặc gia. 
[3] Khi dùng chữ hoa để viết Trời và Đất, chúng tôi muốn diễn tả uy lực siêu nhiên, linh thiêng hay siêu hình (Trời linh, Địa linh), trong khi viết chữ thường (trời, đất) nói về trái đất, đất đai, bầu trời, thiên hạ, vân vân.
[4] Quan niệm “dân vi qúy” của Mạnh Tử, cũng như quan niệm “tâm lý” của Trình Nhất, và quan niệm “nhân tâm cũng là thiên ý và địa linh” của Vương Dương Minh… thực ra đều xuất phát từ lý thuyết tam tài.
[5] Trong hai luận văn về chữ mệnh và chữ tài (chú thích 1), chúng tôi đã hiểu chữ tâm như là một biểu tụợng hội tụ ba nguyên lực: Trời, Đất và người. Việt Triết Luận Tập, sđd., ctr. 225-6; Chú thích 57; và trong “The Concept of Tai in Truyen Kieu”, sđd., tr. 500.
[6] Theo Mạnh Tử, tâm là “cơ quan suy tư” (Tâm chi quan tắc tư” mà biết suy tư thì mới hiểu được cái lẽ của vạn vật (tư tắc đắc chi) (Phiên Cáo Tử). Tuân Tử coi tâm như là cơ quan chính (thiên quân) điều khiển ngũ quan (Dĩ trị ngũ quan, phù thị chi vị thiên quân). Đổng Trọng Thư hiểu tâm bao gồm cả tình và trí. Tương tự, Trương Hoành Cừ coi tâm như là cơ quan thống nhất tính và tri giác (tâm thống tính tình giả dã). Trình Y Xuyên cho tâm đồng nhất với tính và lý. Chu Hối Am cho rằng, tâm là tri giác, do lý và khí hợp lại, là chủ thể của thân xác và do vậy, thống nhất tính tình. Do đó, ông phân biệt nhân tâm (theo cái dục) ra khỏi đạo tâm (theo cái lý). Tkh. Giản Chi – Nguyễn Hiến Lê, Đại Cương Triết Học Trung Quốc, (Sài Gòn: Cảo Thơm xb, 1963) (Xuân Thu tái bản tại California, niên ký không rõ), Quyển Hạ, chương VII, “Tâm và Minh Tâm,” ctr. 151-175. 
[7] Trần Văn Đoàn, Reason, Rationality, Reasonableness (Washington D.C.: The Council for Research in Values and Philosophy, 2000).
[8] Đường lối tu thân được trình bày trong Đại Học, chương 1, bao gồm làm thế nào để “cách vật, chí tri, định, tĩnh, an, lự và đắc.” Đường lối hoà hợp bao gồm “thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.” 
[9] Trần Trọng Kim, Nho Giáo, 2 Tập (Sài Gòn: Tân Việt, 1957; Bộ Giáo Dục tái bản, 1971), Tập 2, tr. 372, hay trong Lời Phát Đoan; Trần Đình Hượu, “Về Đặc Điểm Tư Tưởng Việt Nam,” trong: Viện Triết Học chủ biên, Một Số Vân Đề Lý Luận về Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam. (Hà Nội: Viện Triêt Học xb., 1984), tr. 116. Xin tham khảo thêm: Nguyễn Trọng Chuẩn, “Một Số Vấn Đề Phương Pháp Luận Nghiên Cứu Lịch Sử Triết Học,” trong Nguyễn Trọng Chuẩn chb., Lịch Sử Tư Tưởng Triết Học Viêt Nam, Tập 1 (Hà Nội: Nxb Khoa Học Xã Hội, 2006), ctr. 19-21.
[10] Hans-Georg Gadamer, Wahrheit und Method (Tuebingen: Mohr, 1960). Xin tham khảo phần “Dung hợp Chân trời” (Horizontverschmelzung), ctr. 286-288 (bản thứ 4, 1975). Xin tkh. Trần Văn Đoàn, Thông Diễn Học, 2 tập (loạt bài thuyết giảng tại Viện Triết Học và Đại Học Khoa Học Xã Hội Nhân Văn, thuộc Đại Học Quốc Gia Tph. Hồ Chí Minh, đương sửa soạn xuất bản).
[11] Ngay những bộ sách Tứ Thư, Ngũ Kinh cũng vướng vào cái lệ tam sao thất bản này. Luận Ngữ, sách ghi lại lời dậy giỗ hay đối thoại của đức Khổng, vốn được coi là trung thực nhất, cũng chỉ có được hơn một nửa tính chính xác từ miệng của ngài. Phần còn lại là do đồ đệ hay hậu thế thêm thắt vào. Xem Hồ Thích, Trung Quốc Triết Học Sử, Huỳnh Minh Đức dịch (Sài Gòn: Khai Trí, 1970), ctr. 31-71. Kim Định, Cứa Khổng (Sài Gòn: Ra Khơi Nhân Ái, 1966), ctr. 17-19.
[12] Xin tham khảo bản dịch và chú giải rất công phu của Nghiêm Toản, Lão Tử Đạo Đức Kinh (Sài Gòn: Đại Nam, 1969). Tương tự bản nghiên cứu tương đối đầy đủ của Giáo sư Nghiêm Linh Phong (Đại Học Phụ Nhân), Lão Liệt Trang Tam Tử Tri Kiến Thư Mục, 3 Tập (Đài Bắc: Trung Hoa Tùng Thư, 1965). Trong hai tác phẩm của Nghiêm Linh Phong (Trung Quốc) và Nghiêm Toản (Việt Nam), cả hai soạn (dịch) gỉa đều nhấn mạnh tới sự hiểu biết khác nhau nơi mỗi trường phái, hay mỗi tư tưởng gia khi tiếp cận Đạo Đức Kinh, Nam Hoa Kinh, Liệt Tử, vân vân. 
[13] Ngay tác phẩm Truyện Kiều ta cũng thấy có cả chục ấn bản với tựa đề khác nhau (Kim Vân Kiều Truyện, Kim Vân Kiều Tân Truyện, Đoạn Trường Tân Thanh, Truyện Thúy Kiều, Kim Vân Kiều, Truyện Kiều, vân vân). Mỗi bản đều có một số thay đổi về ngôn ngữ, và cả ý tưởng. Bản Kim Vân Kiều Tân Truyện (do Liễu Văn đường, 1871) không hoàn toàn giống với bản của Thịnh Mỹ đường (cũng thời Tư Đức, 1879), đừng nói tới sự khác biệt với bản của Phạm Quý Thích (bản Phường do Hoa đường xuất bản). Ngay cùng do Liễu Văn đường in ấn, bản năm 1882 cũng có một số câu cú thay đổi khác với bản năm 1871. Rồi cùng một bản năm 1871, tên nhân vật Giác Duyên mặc dù xuất hiện không nhiều, nhưng có tới 3 lối viết khác nhau trong bản này (chỉ cần nêu một thí dụ cụ thể). Tkh. bản dịch của Nguyễn Quảng Tuân (chuyển từ bản Nôm của Liễu Văn đường sang quốc ngữ), Tiên Điền Lễ Tham Nguyễn Hầu, Kim Vân Kiều Tân Truyện (Tph. Hồ Chí Minh: Nxb Văn Học, 2002).
[14] Xin tkh. Vũ Khiêu chb., Nho Giáo Xưa và Nay (Hà Nội: Nxb Khoa Học Xã Hội, 1991); Cao Xuân Huy, Tư Tưởng Phương Đông – Gợi Những Điểm Nhìn Tham Chiếu (Hà Nội: Nxb Văn Học, 1995); Trần Đình Hượu, Các Bài Giảng về Tư Tưởng Phương Đông (Hà Nội: Nxb Đại Học Quốc Gia, 2001) (Lại Nguyên Ân biên soạn) và: Nho Giáo và Văn Học Việt Nam Trung Cận Đại (Hà Nội: Nxb Giáo Dục, 1998); Phan Đại Doãn, Một Số Vấn Đề Về Nho Giáo Việt Nam (Hà Nội: Nxb Chính Trị Quốc Gia, 1998); Quang Đạm, Nho Giáo Xưa và Nay (Hà Nội: Nxb Văn Hóa Thông Tin, 1999). 
[15] Để hiểu thêm về triết lý tam tài, độc gỉa có thể tham khảo: Vũ Đình Trác, Triết Học Nhân Bản Nguyễn Du (Orange, Ca.: Hội Hữu xb., 1993), sđd., ctr. 94-146 

[nextpage title=”Hoà hợp và mâu thuẩn”]

2. HÒA HỢP VÀ MÂU THUẪN

2.1 Con Người Việt và Tư Duy Việt

Thoạt tiên, nếu nhìn từ góc độ quy luật tư duy theo quy luật toán học (logic toán học),[16] Nguyễn Du không theo (hay không chấp nhận) nguyên lý căn bản của tóan học, đó là nguyên lý đồng nhất (the principle of identity), và nguyên lý bất mâu thuẫn (the principle of non-contradiction). Trong Truyện Kiều, nhiều quan niệm được trình bày, thoạt xem có vẻ bất nhất (inconsistent), và đặc biệt, mâu thuẫn (contradictory) và hỗn tạp (confused). Những nguyên lý đạo đức Nho học pha trộn với nguyên lý siêu hình, nhân qủa của Phật giáo, cộng thêm lối tư duy tổng hợp (synchronic) của Đạo giáo khiến độc gỉa không thể nắm vững được tư tưởng chính của cụ Tiên Điền.[17] Những nguyên lý đối nghịch nhau chan chát, nhưng lại được hòa giải một cách dễ dãi, không mấy câu lý giải thỏa đáng, thí dụ về thuyết định mệnh,[18] làm người nghiên cứu cụ không biết phải xếp cụ vào trường phái nào, đạo nào. Đây cũng là một lý do người thì gán cho Nguyễn Du theo đạo Phật, người thì cho cụ là đạo Lão, người thì chủ trương, ông vẫn theo đạo tổ tiên. Và tuy là nho gia, nhưng không nhất thiết là tín đố của Khổng giáo. 

Thế nhưng, có phải tư duy của con người bắt buộc phải dựa theo lối tư duy theo quy luật toán học? Hay tư duy trung thực phải được xây dựng trên nền tảng của cái thế giới mà ta đương sống (thế sinh)? Quan trọng hơn nữa, đó là, mục đích của tư duy là gì? Tư duy để “trí tri cách vật” thỏa mãn sự ham biết (hay tọc mạch), hay để giải quyết vấn nạn nhân sinh? Hay như Khổng Tử từng nhận định, thỏa mãn sự ham biết chỉ là mục đích mang tính công cụ nhắm đến mục đích tối hậu đó là việc tạo ra một phương thế giải quyết vấn nạn cho dân (tại thân dân) và một cách hoàn mỹ “tại minh minh đức”? Hay cụ thể hơn, tri thức chỉ là một phương thế làm cuộc sống hạnh phúc như các nho gia Việt từng nhận ra sau cuộc hành trình năm chìm bẩy nổi “lên voi xuống chó” ba chìm bẩy nổi của họ: “Tri túc, tiện túc, hà thời túc / Tri nhàn, tiện nhàn, hà thời nhàn”?[19]

Chúng tôi thiết nghĩ, để hiểu Nguyễn Du trước hết phải hiểu cách thế suy tư của người Việt, và để hiếu cách thế tư duy, phải nắm vững được cuộc sống và thế giới sống của họ. Nói cách khác, logic người Việt áp dụng không đồng nhất với logic toán học của nền triết học Tây phương, một lối luận chứng hoàn toàn tách biệt khỏi thế giới thực tiễn. Nếu lý luận (logic) Tây phương phát sinh từ lối lý luận toán học (hay ngươc lại, toán học phát sinh từ lý luận (logic) như Bertrand Russell chủ trương), thì cách thế suy tư của người Việt phát sinh từ chính cuộc sống, cách thế sống của người Việt (và điều này Ludwig Wittgenstein với tác phẩm Philosophische Untersuchungen có lẽ gần tư duy của chúng ta hơn). Vậy thì điểm then chốt, cách thế sống của người Việt là cách thế nào? Luận văn này không lập lại những luận điểm về cách sống Việt mà chúng tôi đã cố gắng chứng minh trong rất nhiều luận văn khác.[20] Tuy nhiên, để giúp độc gỉa theo dõi một cách dễ dàng, chúng tôi mạn phép nêu ra một số đặc tính, nhưng không đi vào chi tiết.

Thứ nhất, nền tảng siêu hình của Việt triết là nguyên lý hòa và động lực hợp. Như chúng ta đã thấy, triết lý tam tài được xây dựng trên nguyên lý hòa và động lực hợp “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” này. Nguyên lý này luôn ẩn hiện trong lối sống, cách thế tư duy, và cả cách tổ chức xã hội cũng như kỹ thuật xây cất nhà cửa, đường xá, đô thị.

Thứ tới, suy tư Việt luôn hướng tới hòa. Hoà là mục đích của mỗi giai đoạn, và hòa cũng là mục đích cuối cùng mà ta gọi là thái hòa. Để đạt tới hoà, không có cách thế nào hay hơn là hợp. Họp của các cực (thí dụ hai cực âm và dương, trời và đất) để đi tới cái tổng hợp cuối cùng là thái cực. Hợp tự nó mang hai bản chất: thứ nhất, hợp chỉ có thể nếu có hòa là mục đích. Thành thử, hòa là mục đích nội tại, và cái hòa đạt được bên ngoài chính là hình thức ngoại tại. Như vậy, hòa biểu hiện hợp (như thấy trong tâm hồn, nơi hình thức, cấu trúc, và cả trong quy luật, ngôn ngữ, mùi vị, vân vân).[21] Do vậy, hòa phải là bản tính và mục đích nội tại cũng như hình thức ngoại tại của hợp. Nói cách khác, trong hòa đã có hợp, mà trong hợp đã có hòa. Thế nên, bản chất thứ hai của hợp đó chính là hợp không chỉ là cách thế (đi lại, đến gần, đi vào trong nhau, dung hợp, hay hợp nhất), mà còn là động lực thúc đẩy phải như vậy. Âm dương chỉ có thể “hiệp nhất” nhờ vào chính cái động lực hợp này. Thế nên, ta có thế nói, hợp là động lực của hòa, và dẫn tới hòa.

Thứ ba, chính vì vậy mà, câu hỏi hợp như thế nào phải là điểm quan trọng giải thích cái lối suy tư và lối sống của người Việt. Như đã trình bày trong nhiều luận văn khác, cách thế hợp của người Việt mang tính cách tổng hợp biện chứng, hay biện chứng siêu việt. Biện chứng siêu việt theo nghĩa, các giai đoạn trước sau tuy đối nghịch nhau, nhưng được động lực hợp hòa giải bằng cách tổng hợp những yếu tính khác nhau và thăng hóa chúng tới một giai đoạn mới. Những giai đoạn (hiện hữu, đối nghịch, và giai đoạn hiện hữu mới) này tạo thành một qúa trình diễn biến liên tục: từ tình trạng hiện hữu của hòa, qua nỗ lực hợp với những thế lực khác biệt mới, có thể tiến lên một cấp bậc cao hơn và rộng hơn, mà ta gọi là một tình trạng hiện hữu mới của hòa… Nói tóm lại, chính mục đích hòa và động lực hợp làm con người siêu việt, tức thăng hoa, thăng tiến. Lối hợp và hòa như vậy tương tự như cách diễn tả của Gadamer về sự dung hợp của các chân trời (Horizontverschmelzung): nhìn ra xa ta thấy chân trời, nhưng tới chỗ ta cho là chân trời đó (nhờ vào những cảnh thiên nhiên, những toà nhà kiến trúc… ở đó), ta vẫn thấy chân trời cách xa chúng ta, cũng cùng một đoạn không gian như nhau. Thoạt xem, chân trời hình như bất biến, không có di động. Nhưng lần này cùng một chân trời mà lại với những hình ảnh khác: ngọn núi, ngôi nhà, thêm chiếc thuyền, những cụm mây… Đặc biệt, trong óc ta, những hình ảnh mới, ấn tượng mới, và kiến thức mới xuất hiện đồng lúc với chân trời mới. Ta nhận ra, chân trời đương và luôn mở rộng hơn, không chỉ có cái phong cảnh, kiến trúc vật đã nhìn thấy nơi chân trời cũ, mà còn bao gồm những sự kiện, phong cảnh, kiến trúc… mới ta vừa nhận ra trong chân trời mới. Tất cả tạo (hòa hợp) thành một kiến thức mới, rộng hơn, sâu hơn, và cao hơn kiến thức cũ.[22] Tương tự, kinh nghiệm của con người cũng tăng theo một phương cách như vậy. Đây là đặc tính của lịch sử nhân loại, một lịch sử không lặp lại y hệt nhưng tăng trưởng với những gì đã có trong quá khứ, tạo ra hiểu biết mới phong phú hơn, bao quát hơn, và phát sinh hiệu lực (Wirkungsgeschichte).[23]

Thứ tư, lối suy tư Việt không theo lối biện chứng hình thức kim tự tháp, mà theo hình thức của tinh tòa (constellative), hay lối phát sinh (generative), hay biện chứng hội tụ, và thăng hóa (thí dụ như mô hình nhà triết học và khảo cổ nhân chủng học Teilhard de Chardin từng đưa ra).[24] Động lực hợp phát động những nhân tố tương quan, giao kết và tạo ra những nhân tối mới, càng lúc càng rộng. Tuy càng rộng, nhưng vẫn mang cùng một bản chất. Cấu trúc xã hội Việt được xây dựng dựa theo loại logic này. Một thí dụ điển hình, đó là sự phát triển của gia đình hạt nhân thành tiểu gia đình, rồi đại gia đình, rồi thành dòng tộc, vân vân. Trong một đại gia đình, mỗi thành viên đều có vị trí khác nhau, với tên gọi khác nhau, và công năng khac nhau, nhưng lại tương hỗ. Nhưng ta chỉ có thể biết được mỗi người qua tương quan; cũng như ta có thể hiểu được nếu nắm vững được cấu trúc cũng như quy luật, hay trật tự họ tuân thủ, thí dụ trật tự từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới, như mô hình của một tinh tòa, giữa hành tinh và các vệ tinh, vân vân.[25]

Chính vì những đặc tính trên mà lối suy tư Việt, nếu nhìn theo logic toán học, xem ra có vẻ mâu thuẫn, hỗn độn và bất nhất. Nguyễn Du tư duy một cách “mâu thuẫn,” và Nguyễn Công Trứ cũng không phải là một ngoại lệ. Bởi vì, như đã lưu ý, gần như tất cả các nhà tư tưởng Việt đều theo một loại logic khác hẳn với lối logic toán học xây trên quy luật bất mâu thuẫn, đồng nhất, triệt tam, và theo đường thẳng.[26] Thí dụ, Nguyễn Trường Tộ, một Kitô hữu, một nhà cải cách, một nho gia và bị ảnh hưởng phần nào của nền văn minh Tây phương, nhưng vẫn chủ trương quân chủ, và nêu cao vai trò của nhà vua vả của giới quan chức trong triều đình như thấy trong bản điều trình gửi vua Tự Đức (Tự Đức năm thứ 19) “Ngôi vua là qúy, chức quan là trọng.”[27] Tương tự, Phan Bội Châu chủ trương dân chủ nhưng vẫn phò Cường Để, và cộng tác với Phan Châu Trinh, một nhân sĩ bảo hoàng yêu nước. Cjỉ trong một lối suy tư như vậy, ta có thể hiểu Nguyễn Du. Tự bản thân, tuy ra cộng tác với chế độ mới (triều Nguyễn), cụ Tiên Điền không có bất trung với nhà Lê, bởi vì ông hiểu chữ trung không theo nguyên lý bất mâu thuẫn “trung thần bất sự nhị quân,” mà một cách tổng hợp biện chứng. Đó là chữ trung rộng hơn, lớn hơn và xa hơn, hòa hợp hơn ở tầm mức cao hơn. Đó chính là trung với nước, và hiếu với dân như trường hợp Nguyễn Trãi,[28] và biết bao nho gia Việt. Họ tuẫn tiết không theo thực dân Tầu và Pháp, nhưng không nhất thiết tuân thủ quy tắc “vua bảo chết, thì phải chết,” bởi vì họ đặt đại nghĩa lên trên tiểu nghĩa. Đó chính là lối suy tư mà học gỉa Vũ Đình Trác gọi là “tâm trạng tế thế.”[29] Những thí dụ về lối suy tư “hỗn hợp,” hay đúng hơn, “hòa hợp” một cách “biện chứng siêu việt” (hay thăng hoa) này không chỉ thấy nơi giới trí thức, mà còn cả ở trong dân gian. Niềm tin tông giáo của người Việt, quan niệm “Tam Giáo Đồng Nguyên,” các đạo dân gian như Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo, cũng như các phân nhánh của Đạo giáo đều theo lối suy tư như chúng tôi đã viết ở trên.[30]

2.2. Biện Chứng Tài Mệnh hay là Bi Kịch của Mâu Thuẫn giữa Chủ Thuyết Duy Nhân và Chủ Thuyết Tất Định.

Từ lối suy tư Việt trên, chúng ta có thể đi đến một kết luận: trong cấu trúc gia đình (xã hội được coi như là một đại gia đình), và theo lối suy tư biện chứng siêu việt, tất cả mọi người trong gia đình đều là một con người chủ thể, không thể thiếu sót, và tất cả đều có vai trò quan trọng ngang nhau, tuy địa vị khác nhau, như thấy trong mạng nhện (mạng lưới). Không chấp nhận vai trò, vị thế, cũng như trách nhiệm của mỗi cá nhân trong tập thể (bằng cách tự tôn, tự quyết), y hệt như việc chối bỏ vai trò của Trời, Đất và của người khác trong tương quan, đã tạo ra bi kịch tha hóa của con người. Khi mà ta không còn coi tha nhân như là thành viên của chính con người, (tương tự như khi ta không nhìn ra được vai trò của mỗi người là cha, mẹ, chú, cậu, cô, thím, bác, mợ, anh, em, con, cháu…), và nhất là không thấy mình cũng là một thành viên bất khả phân ly trong cơ cấu, thì lúc đó chúng ta đương đánh mất chính mình (dị hóa), hoặc tự coi mình hay bất cứ người nào khác như là một công cụ, một đối tượng (vật hóa, thương mại hóa).

Bi kịch của Thúy Kiều và Kim Trọng đi qua ba giai đoạn mang tính cách biện chứng. Giai đoạn đầu nói về cái tài thiên bẩm tạo ra cơ duyên gặp gỡ “Người quốc sắc kẻ thiên tài / Tình trong như đã mặt ngoài còn e” (TK, 163-64). Bi kịch thực sự khởi nguồn trong sự bất hòa đánh mất động lực hợp, và từ sự kiện đi sai mục đích, phá bỏ trạng thái hòa và động lực hợp. Nguyễn Du trình bày giai đoạn thứ hai này như là giai đoạn lưu lạc, lưu vong hay vong thân. Kim Trọng đến với Kiều vì sắc và sau nữa là vì tài. Kiều đến với Kim Trọng cũng là vì chàng Kim “phong tư tài mạo tót vời / vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa” (TK, 151-52). Ở đây, tài nhân xác tín vào cái tài của mình có thể “đội đá vá trời” nên không nhất thiết tuân thủ mệnh Trời, hay quy luật của Đất và của xã hội. Nói cách khác, bi kịch của tài nhân chính là bi kịch của tha hóa, tách biệt cá nhân ra khỏi xã hội, hạ gía con người xuống hàng công cụ hay sản phẩm giao dịch. Nói gọn lại, đó là bi kich của bất hòa, bất hợp, ngược lại với nguyên lý thiên thời địa lợi nhân hòa của triết lý tam tài. Giai đoạn thứ ba, là giai đoạn tái hợp giữa Thúy Kiều và Kim Trọng, qua sự giúp đỡ của đạo cô Tam Hợp và sư bà (vãi) Giác Duyên.[31]

Như vậy, cụ Tiên Điền rõ ràng ý thức được bi kịch này. Đi xa hơn câu truyện của Thúy Kiếu và Kim Trọng, cụ đưa ra một lối suy tư Việt. Chính vì vậy mà Truyện Kiều bắt đầu với hai lối nhìn và niềm tin về tài và mệnh hoàn toàn đối chọi nhau. Nói theo ngôn ngữ triết học hiện đại, Nguyễn Du đặt ra một nan đề về sự mâu thuẫn của hai lý thuyết tất định (determinism) chủ trương thiên mệnh (fatalism) và con người tự chủ (autonomy) chủ trương thuyết duy nhân (anthropocentrism) và tự do (liberalism). Nói một cách rất Việt, đó là sự bất hòa giữa Trời và người: 

“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.”
                                                (TK 1-2)

Chữ mệnh bao gồm thiên mệnh, tức định mệnh do Trời đã tiên định, và nhân mệnh, tức cái mệnh do chính con người tự tạo ra (theo nguyên lý nhân qủa và nghiệp báo của Phật giáo). Ngay tại luận đề này, ta cũng đã thấy tính mâu thuẫn, đối nghịch giữa thiên định (Trời) và nhân định (người). Tin vào thiên mệnh, tức là tin vào chủ thuyết định mệnh tuyệt đối không thể thay đổi (hard determinism, hay absolutism) của Trời, trong khi tin vào nhân mệnh, tức là chủ trương thuyết tất định tương đối (soft determinism), theo đó con người tự mình là môt nguyên lực có thể quyết định số phận của mình: “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều.” 

Theo thiển kiến của người viết, cụ Nguyễn nhận ra được tính mâu thuẫn này, và cụ có lẽ lạc quan tin rằng, nếu ta biết phát huy động lực hợp thì ta có thể giải quyết một cách “hợp tình hợp lý” vấn nạn. Theo tâm đạo, hay tu tâm hay tu thân là một phương thế hợp tình hợp lý. Đây có lẽ là lý do cụ nghiêng về chủ trương tất định tương đối (soft determinism), và cụ dùng phương thế hợp để dung hòa hai lý thuyết tu tâm của Nho gia với tu nghiệp của Phật giáo. Hợp là quy luật của Trời và Đất, nhưng cũng là quy luật của con người. Đồng thời, hợp là động lực của Trời và Đất, và cũng là của con người. Do đó, hợp vửa mang tính cách tất định, nhưng cũng phát xuất từ chính ý chí và tự do của con người. 

Lối suy tư hòa hợp mang tính chất Việt này được hiểu như là nền tâm đạo Việt. Theo đó, con người có thể thay đổi cái mệnh của mình tùy theo công nghiệp họ tạo được trong cuộc sống. Công nghiệp là những kết qủa của những sinh hoạt (hành vi, ngôn ngữ, tư duy, tác động, hoạt động) hợp với ý Trời, lợi cho Đất và tạo phúc cho con người. Công nghiệp mà Nguyễn Du nêu ra, được thấy trong cuộc sống hài hòa, mà cuộc sống hài hòa này chỉ có được nhờ vào sự phát huy của động lực hợp, mà động lực hợp chỉ có thể phát huy được nhờ vào tu thân, tích đức, hành thiện, hộ quốc, hộ dân, vân vân. Công nghiệp đó chính là sự khôi phục tính hòa bằng cách tuân thủ quy luật hòa hợp với Trời, Đất và xã hội con người. Công nghiệp đó chính là nỗ lực hợp với những khác biệt từ bên ngoài (Trời, Đất) và bên trong (giữa con người). Do đó, trong phần kết thúc, Nguyễn Du khẳng định rằng, nhờ nhận ra hòa là mục đích và vào động lực hợp mà con người đã có thể biến đổi “chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” thành một hỉ kịch của hòa hợp:

“Thiện tâm ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.”
                                 (TK, 3251-52)

2.3. Nguyên Nhân Tha Hóa

Trong phần này, chúng tôi bắt đầu với lý do tại sao Nguyễn Du chủ trương thuyết tất định tương đối, và lý do tại sao tiên sinh hoà hợp chủ trương nhân định với chủ thuyết tất định tuyệt đối. Nói cách khác, câu hỏi đưa ra cần giải quyết, đó là làm thế nào mà cụ Tiên Điền vẫn giữ lại những yếu tính của thiên định trong chủ trương nhân định “xưa nay nhân định thắng Thiên cũng nhiều” của ông.

Chúng tôi bắt đầu với qúa trình tha hóa của con người. Tha hóa theo nghĩa thiếu ý thức hay vô thức về mình (dị hoá), và đánh mất chính mình (vong thân) trong cuộc sống thực tại.[32]

Thiếu ý thức có thể là vì những nguyên nhân sau: (1) Con người lấy chính chủ thể làm trung tâm, tự thổi phồng mình lên như là trung tâm của vũ trụ (solipsism) như thấy trong nền triết học duy ngã và duy tâm. (2) Con người tự cho mình có thể quyết định được số mệnh. Tự mình có thể thay thế Trời, Đất để làm chủ tể (như trường hợp triết học hiện sinh của Nietzsche), hay tự coi tất cả vô nghĩa (trường hợp Sartre). (3) Con người ngộ nhận tài năng với tài lực, cho rằng tài năng là do tự mình có, và là tất cả, có thể giải quyết mọi sự. Họ quên rằng, tài năng chỉ có thể phát huy nều trước hết có tài lực. Mà tài lực không phải do con người quyết định. Tài lực tùy thuộc vào ba nguyên lực Trời (thiên phú), Đất (nơi dụng võ), và xã hội con người (có lợi hay có hại, nhiều hay ít, sâu hay nông, lâu dài hay ngắn hạn) (4) Con người thiếu ý thức về tính tương quan và tương hỗ giữa nguời với thần linh, người với vạn vật, và người với người.

Vong thân là do việc đánh mất chính mình. Sự đánh mất có thể do: (1) Con người bị tha nhân hay xã hội từ chối công nhận, bị hạ thấp xuống hàng công cụ, hay nô lệ. (2) Con người tự hạ gía trị của mình, hay đánh giá chính mình dựa theo bảng giá trị ngoại tại, ngoại lai như thị trường, tính công cụ, tư bản, hay ý hệ. (3) Cấu trúc, tổ chức xã hội tự chúng đã biến con người thành một thành tố phi nhân cách, giống như bộ phận của bộ máy (trong chủ thuyết duy cơ khí, mechanism), hay một sự vật trong chủ thuyết duy vật thô thiển (vulgar materialism, mà Marx từng phê phán), hay chỉ là sự chuyển biến thụ động của thế giới, và do đó không nhận ra tính chất sáng tạo, chủ động và chủ thể của mình (thí dụ chủ trương tiến hóa duy vật). (4) Cơ chế thị trường coi con người hoặc là hóa vật có thể mua bán, hoặc là một đơn vị lao động có thể dùng tiền khống trị, hoặc là một nhân tố cần thiết cho bộ máy thương mãi..

Trong Truyện Kiều, chúng ta nhận ra ba nguyên nhân chính làm tài nhân tha hóa: (1) Sự thiếu ý thức về vai trò của Trời, Đất, và con người nơi tài nhân. Họ không nhận ra là tài chỉ có thể phát huy được nếu hợp với Trời, với Đất và hoà hợp với con người. (2) Họ cũng không nhận ra là họ đã tự biến thành một thế lực đối chọi với các thế lực khác. Khi tự coi mình như chủ thể duy ngã thì cùng lúc đã chối bỏ động lực hợp và mục đích hòa. Như vậy, tài nhân đã trở thành người đối nghịch với Trời và Đất. Họ đi ngược lại với nguyên lực (tài). Ta sẽ không lạ gì khi thấy “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.” (TK, 6) (3) Vì thiếu sự hoà và động lực hợp, tài nhân tự rơi vào cái vòng “luân hồi” của con người công cụ, giá trị của cái tài (hay lực) của họ chỉ còn là cái giá của thi trường. Mụ Bà, Mã Giám Sinh nhìn Kiều theo cái bảng giá trị của tiền bạc, của khách hàng… Tương tự, tài nhân Kiều cũng nhìn nam nhi theo bảng giá trị của uy lực (Từ Hải), quyến thế (Hồ Tôn Hiến), hay tiền bạc (Thúc Sinh). Nàng Kiều nghĩ rằng có thể dùng tiền để đo lượng cái tài sắc, và đạt tới mục đích (chuộc cha).

2.4. Con Người Tha Hóa hay là Thảm Kịch Vong Thân của Tài Nhân 

Từ những phân tích trên về hện tượng tha hóa, vong thân và vật hóa, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra những nhân vật chủ yếu trong Truyện Kiều, từ Thúy Kiều cho tới Kim Trọng, từ Từ Hải tới Hồ Tôn Hiến, rồi Đạm Tiên, và ngay cả Hoạn Thư… cũng đều nằm trong phạm trù của tài nhân, tức là những người có tài và cậy vào tài “Có tài mà cậy chi tài.” Nàng Kiều không chỉ có cái sắc đẹp tiên sa cá lặn, “rõ màu trong ngọc trắng ngà / dầy dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên” khiến “chim sa cá lặn liễu hờn kém xa,” mà lại còn “cầm kì thi họa” với những tiếng đàn “trong như tiếng hạc bay qua,” và “đục như tiếng nước mới sa nửa vời”… khiến “người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu.” Kim Trọng cũng là bậc thiên tài “người quốc sắc kẻ thiên tài” và “phong tư tài mạo tót vời”…, rồi Từ Hải vũ dũng hơn người “đội trời đạp đất,” với Hồ Tôn Hiến “kinh luân gồm tài”… tất cả đều nói lên tính chất của tài nhân, của những người có tài thiên bẩm. Đó là nhũng người không muốn tuân theo mệnh Trời, muốn tự xác định vài trò “đầu đội trời, chân đạp đất”, “làm cây thông đứng giữa trời mà reo” (Nguyễn Công Trứ). Đó là những tài nhân như “thần Siêu thánh Quát,” vân vân.[33]

Tài nhân tự xác tín cho rằng, với cái tài năng Trời phú bẩm, họ có thể tự hiện hữu, tự lập chính mình “đội trời đạp đất ở đời / Họ Từ tên Hải vốn nguời Việt Đông” (TK, 2171-72). Họ thường đồng hóa tài năng với sức lực hay sức mạnh, và cả với quyền lực. Từ Hải là một tài năng võ biền dựa trên sức mạnh, bạo lực. Kim Trọng là một văn tài dựa trên những kiến thức, kỹ thuật văn chương. Kiều là một mỹ nhân dựa trên sắc đẹp và nghệ nhân dựa vào những nghệ thuật như cầm kỳ thi họa. Hồ Tôn Hiến là một tài trí với mưu trí hơn người. Ttất cả những tài nhân đều nghĩ rằng, với cái tài của mình, họ có thể thay đổi vận mệnh. Nhưng rồi tất cả đều thất bại, người thì thân bại danh liệt (Kiều, Từ Hải), người thì thiếu thốn tình yêu và đau khổ, chẳng ai làm nên được gì có lợi cho hậu thế, cho con người, cho xã hội cả. Vậy thì, lý do thất bại của tài nhân phải được lý giải như thế nào?

Theo Nguyễn Du, cái thảm họa của tài nhân, là do chính họ tạo ra. Khi mà họ qúa ỷ lại vào cái năng lực, sức lực, tài lực của họ, mà quên đi rằng, tài lực chỉ phát sinh uy lực thực sự nếu hợp với các nguyên lực khác như thiên nhiên (đất, trời), thần linh (Trời, Đất) và chính con người, tức là cái đạo thiên thời, địa lợi và nhân hòa, thì lúc đó:

“Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liển với chữ tai một vần.”
.                            (TK, 3247-48)

Qúa ỷ vào tài năng của riêng mình tức là chủ trương duy nhân (anthropocentrism) và duy cá nhân (individualism). Chủ thuyết duy nhân lấy con người làm mục đích tối hậu, và coi con người như là trung tâm, chủ tể, hoàn toàn vượt lên trên mọi nguyên lực khác. Đồng lúc chủ thuyết này coi thiên nhiên, thần linh chỉ là những công cụ phục vụ con người. Con đẻ của chủ thuyết duy nhân là chủ thuyết duy cá nhân cực đoan (individualism). Tín đố của chủ thuyết duy cá nhân này đi xa và mạnh hơn. Họ coi ngay cả người khác cũng chỉ là công cụ phục vụ họ. Sự phân biệt giai cấp chủ ông và giai cấp nô lệ là hệ từ tất yếu của chủ thuyết này. Từ đây ta bắt đầu thấy được thảm kịch của dị hóa (con người xa lạ với chính mình), vong thân (đánh mất mình) và tha hóa như vật hóa, thương mại hoá (coi con người như đồ vật, sản phẩm, hàng hóa).

Tài nhân Thúy Kiều, sau khi đã thất bại không thể dùng cái tài sắc thiên phú của mình để giải quyết cái nạn gia đình, đã phải tự hạ mình xuống thành một món hàng đổi chác, bán mình để chuộc cha. Cô ý thức được mình chỉ là một trò chơi mua vui cho bọn Mã Giám Sinh và khách làng chơi, vân vân. Tú Bà, và phần đông xã hội coi con người như là sản phẩm, hàng hóa giao dịch, có thể dùng tiền để mua, và tạo ra tư bản thặng dư. Họ bắt nàng Kiều phải bán thân xác để thu lợi. Gía trị của Kiều bây giờ được tính theo cái tài cái sắc của Kiều” “Mối rằng gía đáng nghìn vàng” (TK, 645), và “Cò kè bớt một thêm hai / Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.” (TK, 647-8) . Mà tài sắc lại được tính theo số lượng khách hàng (nhiều hay ít), và phẩm lượng của đồng tiền (giàu sang hay nghèo). Tất cả những tài Trời phú bẩm chỉ còn là những công cụ tầm thường giới làng chơi bỏ tiền ra để mua cái vui nhất thời, chứ không phải là thưởng thức. Tương tự ta cũng có thể thấy nơi các tài nhân nhân khác cùng một số mệnh: Đạm Tiên với nỗi ngây thơ tin vào tài nghệ của mình, Từ Hải ngây ngô qúa tin và tài lực, Kim Trọng qúa xác tín vào tài văn, Hồ Tôn Hiến ngạo mạn với tài trí của mình. Nhưng tất cả cùng giống nhau ở điểm họ hiểu tài của họ như là một biểu hiện của chính họ, nhưng không nhận ra tài như là một nguyên lực và gía trị của tài không phải dựa trên bảng giá trị ngoại tại, nhưng trong tương quan hoà hợp của con người với nhau, con người với Trời và con người với Đất.


[16] Từ logic được giữ nguyên trong giới triết học Việt Nam hiện nay. (Xem Từ Diển Triết Học Giản Yếu do Hữu Ngọc, Dương Phú Hiệp và Lê Hữu Tầng chb., Hà Nội: Nxb Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp, 1987; Viện triết Học dịch từ Nga ngữ: Triết Học Phương Tây Hiện Đại Từ Điển, Hà Nội: Nxh Khoa Học Xã Hội, 1996). Trong quá khứ logic được chuyễn âm từ Hán ngữ “La tập” (thấy nơi Phan Bội Châu, Trần Trọng Kim, Phan Khôi, vân vân), mà từ Hán ngữ này cũng chỉ là cách phát âm logic theo giọng người Trung quốc (La Tập Từ Điển, Thành Trung Anh chb., Đài Bắc:Học Sinh Thư Cục, 1987). Một số giáo sư triết học Công giáo như Trần Văn Hiến Minh, Trần Văn Toàn (giảng dậy logic tại ĐH Văn Khoa Sài Gòn), Trần Đức Huynh, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung… chủ trương Việt hóa dịch logic (logique) sang Việt ngữ là luận lý. Xin tkh. Trần Văn Hiến Minh, chb. Danh Từ Triết Học (Sài Gòn, 1958). Nơi đây chúng tôi đôi khi dùng logic, cũng có khi dùng luận lý, hay quy luật tư duy, vân vân.
[17] Nhận xét của hai nhà Kiều học Vân Hạc và Vân Hoè (Truyện Kiều, Sài Gòn, 1975). Hai ông này nhận định trong Phần Giới Thiệu: “… ‘Đoạn Trường Tân Thanh’ hình như viết ra để chứng minh một tư tưởng triết học, tôn giáo, nhưng chứng minh chưa đúng xác, chưa khúc triết.”
[18] Cụ Tiên Điền xác tín: “Ngẫm hay muôn sự tại Trời / Trời kia đã bắt làm người có thân / Bắt phong trần phải phong trần / Cho thanh cao mới được phần thanh cao” (TK, 3241-44). Nhưng ngay sau đó, cụ cũng tin tưởng không kém mãnh liệt: “Thiện căn ở tại lòng ta / Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.” (TK, 3251-52),
[19] Tkh. Vũ Đình Trác, Triết Lý Chấp Sinh Nguyễn Công Trứ (Orange: Hội Hữu xb., 1987).
[20] Xin tkh. Trần Văn Đoàn Việt Triết Luận Tập, Thượng Tập (sđd.); Trần Văn Đoàn, Reason, Rationality, Reasonableness (Washington D.C.: CRVP, 1989 / 2000); Trần Văn Đoàn, The Category of Relation in The Social Sciences (National Sciences Council, 1997); và Trần Văn Đoàn, The Formation of Vietnamese Confucianism (Washington D.C.: CRVP, 2006). Ngoài ra: Trần Văn Đoàn, “Ueberlegungen ueber Asiatische Theologie” (Muenster, 1986); Trần Văn Đoàn, “Denkensweg und Denkensmethod” (Bonn, 1987), Trần Văn Đoàn, “Der taoist Nietzsche” (Zuerick, 1998); Trần Văn Đoàn, “Life-ethics or Eco-ethics (Revue internationale de philosophie comparée et d’esthétique, Tokyo, 2006), vân vân.
[21] Trong Đại Học (Chương 1), tu thân truớc hết cần phải biết, suy tư, và rồi an, và định. An, định là tình trạng hòa của nội tâm, trong khi tề, trị, bình giúp đạt tới cái tình trạng hòa ngoại tại. Chúng tôi phát triển quan niệm này trong các luận văn khác: Trần Văn Đoàn, “Category of Harmony in Ethics and Asian Theology,” trong Sino-Christian Review, số 6 (04.2009) (Chung Yuan Christian University); Trần Văn Đoàn, “The Principle of Harmony in Eco-Ethics”, trong Revue internationale de philosophie comparée et d’esthetique, số 25 (2009).
[22] Hans-Georg Gadamer, Wahrheit und Method, sđd., tr. 288: “Chân trời là một cái chi mà chúng ta đi tới với nó, và nó cũng di động với chúng ta. Các chân trời thay đổi với ai đương thay đổi. Như vậy. chân trời trong qúa khứ, nơi mà con người từng sống, và hiện diện qua những truyền thống, luôn luôn biến động.” (Tạm dịch).
[23] Theo Gadamer, bất cứ lịch sử nào cũng là một sự kết hợp cuả sự kiện này với sự kiện khác. Lịch sử là lịch sử thật sự của điều này, điều nó từng xảy ra. Như vậy khi ta nói về tính hiện thực của lịch sử  (die Wirklichkeit der Geschichte), ta đương nói về tính hiệp nhất của lịch sử với sự hiểu biết của chúng ta về nó. Đó chính là ý nghĩa của Wirkungsgeschichte. Xin tkh. Joel C. Weinsheimer, Gadamer’s Hermeneutics: A Reading of Truth and Method, (New Haven and London: Yale University Press, 1985), tr. 181.
[24] Xin tkh. Teilhard de Chardin, Le milieu divin (Paris: 1957).
[25] Trần Văn Đoàn, The Category of Relation in the Social Sciences, sđd., chương 5.
[26] Câu nói bình dân của người Nam Bộ “nói dzậy không phải là dzây” không mang nghĩa A¹A, mà có thể là +A, hay –A… Lối nói này phản ánh phần nào lối suy tư hay logic của người Việt.
[27] Tkh. Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ – Con Người và Di Cảo (Tph. Hồ Chí Minh: Nxb Tph. Hồ Chí Minh, 1988), ctr. 174-180. (Di Thảo số 13, tháng 5, 1886).
[28] Nguyễn Tài Thư chb., Lịch Sử Tư Tưỏng Việt Nam, Tập 1 (Hà Nội: Nxb Chính Trị Quốc Gia, 1995, ctr. 259 vtth. Câu chuyện Nguyễn Trãi nghe lời thân phụ (Nguyễn Phi Khanh), không theo phục vụ người cha bị quân Minh bắt giam giải qua Tầu, mà quay trở về để tìm cơ phục quốc và giải phóng nhân dân khỏi ách của nhà Minh.
[29] Vũ Đình Trác, Triết Lý Nhân Bản Nguyễn Du, sđd., ctr. 78 vtth. Nhiều chuyên gia Kiều học như Tản Đà, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh có lẽ cũng nhìn ra điểm này khi giải thích sự kiện Nguyễn Du chấp nhận ra làm quan, mặc dù khi diễn tả tâm trạng Nguyễn Du, vẫn cho là ho Nguyễn “phò Lê, yếm Tây Sơn và kị Nguyễn triều.” Xin tkh. Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Vương Thúy Kiều Chú Giải Tân Truyện (Hà Nội: Hương Sơn, 1952); Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim, Truyện Thúy Kiều (Sài Gòn: Tân Việt, 1959, tái bản 3); Đào Duy Anh, Khảo Luận về Kim Vân Kiều (Huế: Quan Hải, 1943).
[30] Một lối suy tư tổng hợp biện chứng như vậy cũng thấy nơi người Việt Công giáo như Nguyễn Trường Tộ, Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, và đặc biệt Kim Định, Nguyễn Ngọc Lan. Hoàng Sỹ Qúy, vân vân. Đường Thi, một linh mục, trong tác phẩm Thiên Chúa Giáo và Tam Giáo (California, 2000), chủ trương các tôn giáo không chỉ hiểu nhau hơn, mà còn yêu thương, kính trọng và “bổ túc cho nhau trên con đường tìm Chân Lý…”. Lời Nói Đầu, tr. xviii.
[31] Không biết cố ý hay ngẫu nhiên, Nguyễn Du chọn hai người phụ nữ: đạo cô Tam Hợp và vãi Giác Duyên, một người thuộc Đạo giáo và một người theo Phật giáo. Ngay tên của hai người cũng nói lên ý đồ của cụ Tiên Điền. Chúng tôi đưa ra giả thuyết, Tam Hợp diễn đạt sự hòa hợp của tam tài, trong khi Giác Duyên diễn tả sự giác ngộ về cái duyên do tự mình làm lên. Tam Hợp cũng có thể hiểu theo nghĩa tam giáo đồng nguyên: Nho, Phật và Lão.
[32] Trần Văn Toàn dịch từ “aliénation” (Verfremdung) sang tiếng Việt là “vong thân.” Xin tkh. Trần Văn Toàn, Triết Học Karl Marx (Sài Gòn: Nam Sơn, 1965). Chúng tôi dựa theo cách dịch của các học gỉa Đài Loan, dịch từ alienation (Verfremdung hay Entfremdung) là dị hóa. Dị hóa bao gồm ngoại hóa (Objectivierung, objectification), thất vọng (Entaeusserung), tha hoá (Entfremdung), và vật hóa (Verdinglichung, reification). Từ vong thân đôi khi cũng được áp dụng để chỉ sự đánh mất ch1nh mình.
[33] Số phận đen đủi của thánh Quát (Cao Bá Quát) khác với số phận đỏ hồng của thần Siêu (Nguyễn Văn Siêu) là do sự kiện họ Cao qúa ỷ lại vào tài năng của mình: “Có tài mà cậy chi tài / Chữ tài liền với chữ tai một vần) (TK. 3247-48).

[nextpage title=”Tâm đạo hay là Biện chứng siêu việt”]

3. TÂM ĐẠO hay là BIỆN CHỨNG SIÊU VIỆT

3.1. Tâm Đạo 

Như đã trình bầy một cách sơ lược ở phần đầu, tâm đạo phát xuất từ thời cổ đại, và thấy chung nơi nhiều trường phái trước cả thời Xuân Thu, Chiến Quốc. Tâm đạo thực ra chủ trương vai trò chủ động của con người trong cuộc sống vũ trụ, sự tương quan năng động của con người với Trời (trời) và Đất (đất). Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc, ta đã thấy hai khuynh hướng, bi quan và lạc quan.[34] Chủ trương bi quan của Trang Tử, cho rằng con người chỉ là sinh vật nho nhỏ như ốc sến, hay là thực vật như thân cây nhỏ bé, hay là bất động vật như hòn sỏi sống giữa hai thái cực trời và đất. Do đó con người không có quyền tự quyết, và phải phụ thuộc vào trời và đất.[35]

Khuynh hướng lạc quan, ngược lại, nhận định vai trò bất khả khuyết của con người. Lão Tử tâng vai trò con người lên ngang hàng với trời và đất, và cả ba liên kết mật thiết bất khả phân li. Lý do nhà hiền triết này đưa ra, đó là trời, đất và người đều phát xuất từ cái đạo uyên nguyên. Và như vậy, con người là một trong bốn “cái lớn”. Trời, đất, vua và con người đều dựa theo đạo cả.[36] Các nho gia, từ Mạnh Tử, tới Tuân Tử, rồi từ thời Hán nho với Đổng Trọng thư cho tới thời Tống với Châu Đôn Di đều chấp nhận vai trò của con người “linh ư vạn vật” bởi lẽ con người có năng lực (hay là có tài) nhận biết phải trái (lương tri), có lòng nhân (Mạnh Tử), có khí, có sinh, có tri, có giác, có nghĩa (Tuân Tử), và có năng lực giúp trời đất hoàn thành vạn vật (Đổng Trọng Thư).[37]

Cái tài mà các nho gia kể trên đúng là là nguyên lực vốn do trời phú bẩm, nhưng nhờ vào tu luyện mà phát dương ra cái uy lực của nó. Thí dụ lòng nhân phần do tự nhiên (tính bản thiện), nhưng đạo nhân chỉ có nhờ tu luyện, và qua sự hoà hợp với con người. Khí, hữu sinh, cảm giác là tự nhiên, nhưng biết (tri), hiểu (giác), sinh sản, dưỡng khí… thì cân phải luyện tập, hay hợp với những nguyên lực khác. Vạn vật chỉ có thể sinh ra nhờ vảo sự hợp nhất giữa âm và dương, và cái đức chỉ xuất hiện khi con người hợp với Trời (thiên nhân hợp nhất), với Đất và nhất là với con người.

Đến thời Thanh, ta mới thấy có một sự phân biệt giữa tài như là một nguyên lực, tức lực tiên thiên, đồng nhất với Trời, Đất và tài do hậu thiên luyện tập được. Tuy vậy, không phải tất cà giới Thanh nho đều chấp nhận hai loại tài. Đái Đông Nguyên (Đái Chấn, 1723-1777), trong tập Mạnh Tử Tự Nghĩa Sớ Chứng, khi bàn về tài, cho rằng tài, trí chỉ là công cụ, được con người dùng để đạt tới mục đích. Tài, trí không phải là mục đích. Họ Đái viết: “Cái tài của con người gồm được cái toàn năng của trời, đất, suốt được cái toàn đức của trời đất… Cái trí của con người đủ biết được tính của các loại cầm thú, sâu bọ mà dạy bảo chăm nuôi nó, biết được cái tính của cây cỏ, nhờ vậy mà nông giỏi mới biết cấy, biết cắt, nhà lương y mới biết đặt ra phương thuốc. Bậc thánh nhân làm cho cái đức của mình được thuần minh, cho nên trị được dân trong thiên hạ.”[38]

Phần trên là một đoạn nhỏ nói về tâm đạo tại Trung Hoa. Nhưng nếu nhìn từ góc độ của văn hoá, tâm đạo không chỉ là đặc sản của người Tầu, mà còn thấy trong truyền thống triết học đông phương nói chung, bao gồm cả Việt Nam, Nhật Bản và Ấn Độ.[39] Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là, nội dung của nền tâm đạo của các nước này không hẳn đồng nhất với tâm đạo của Trung Quốc. Riêng tâm đạo Việt, mặc dù chịu ảnh hưởng thâm sâu của Mạnh Tử, Đổng Trọng Thư, và hai anh em họ Trình,[40] vẫn phát triển theo một hướng riêng rẽ. Trong phần này, chúng tôi sẽ trình bày nguyên lý, mục đích cũng như phương pthế và phương phắp của tâm đạo.

Nguyên Lý

Tâm đạo được xây dựng trên một nền tảng siêu hình tam tài. Lý thuyết tam tài, một triết thuyết phát xuất từ cả ngàn năm trước[41] và là nền tảng của Nho nguyên thủy[42] đã được người Việt lấy làm nền tảng cho xã hội (nông nghiệp) Việt. Nó vẫn còn tác động trên lối suy tư Việt ngày nay. Bói toán, phong thủy, địa lý, đạo đức, chiến thuật và ngay cả thẩm mỹ và khoa học vẫn còn bị ảnh hưởng của lý thuyết tam tài này.[43] Trong luận văn này, chúng tôi phát triển nền triết học tam tài Việt, bằng cách chứng minh vai trò của con người trong tương quan với Trời, với Đất, và vai trò của mỗi cá nhân trong cộng đồng, tức giữa con người với nhau. Một con người theo đúng tâm đạo, biết được và thực thi mệnh Trời, biết được và không phản nghịch Địalợi, cũng như biết được và tạo ra sự hòa hợp với nhau, là một nhân tài.

Trong phần thứ hai, chúng tôi đã đưa ra giả thuyết là Nguyễn Du hiểu như vậy khi thi hào bắt đầu với với sự kiện con người có tài (tài nhân) ỷ laị vào tài năng thiên bẩm của mình, mà quên yếu tố nhân hòa. Chính sự bất hòa giữa ba thế lực, Trời, Đất và con Người đã tạo lên bi kịch tha hóa của Thúy Kiều, Đạm Tiên và phần nào trong các tài nhân Từ Hải và cả Kim Trọng lẫn Hồ Tôn Hiến:

“ Có tài mà cậy chi tài,
Chữ tài liền với cữ tai một vần.”
             (TK, 3247-48)

Nhận ra cái đạo lý, tức tâm đạo, Nguyễn Du khẳng định chỉ có tâm đạo mới có thể cải đổi khiến thiên tài nhận ra được 

“Thiện căn ở tại lòng ta[44],
Chữ tâm kia mới bằng ba chứ tài.”
             (TK, 3251-52)

Hòa

Hòa trong ngôn ngữ Việt ít khi tách rời khỏi hợp, bình, hay những động tác, thái độ, biểu tả sự đồng tính, đồng tình, đồng nhất, vân vân. Thế nên gần như hầu hết đàng sau chữ hòa có những từ như hòa đồng, hòa thuận, hòa nhã, hòa hợp (hiệp), hòa khí, hòa bình, hòa âm. Hòa nhạc, hoà hài (hài hòa). Hòa cũng nói lên sự quân bình, hay tính chất chung. Thí dụ hòa tan, hòa nhịp, vân vân.

Phương Thế và Phương Pháp Hợp 

Vấn đề nơi đây, chính là tâm đạo không chỉ là mục đích nhưng còn là phương thế (the way) và phương pháp (the method) giúp ta đạt tới cái đạo hòa hợp. Nói cách khác, tâm đạo tự bản chất nó, cũng như hình thức của nó là hòa hợp; và từ bản chất này ta có thể nhận ra được phương thế và phương pháp để đạt tới tâm đạo: chỉ qua tâm đạo mới tới đưọc tâm và đạo của tâm.

Nơi đây, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến sự khác biệt giữa phương thế (phương cách) và phương pháp. Hai quan niệm mà chúng ta thường hay cho là một. Thoạt tiên, phương thế và phuơng pháp của tâm đạo phát sinh từ cùng một bản chất (hòa hợp), và do đó mang cùng đặc tính của hòa và hợp. Phương thế và phuơng pháp không thể đi ngược lại với mục đích. Thế nên tự chúng được xây dựng trên bản chất hòa hợp. Vì thành tố này mà chúng ta thường đồng nhất phương thế và phương pháp. Tuy nhiên, nếu phân tích sâu hơn, ta sẽ thấy, phương thế mang tính cách chiến lược, trong khi phương pháp mang tính cách chiến thuật. Để đạt tới mục đích, ta phải có một chiến lược, thí dụ nhà nước thực dân quản lý dân bản địa, họ có hai hay nhiều phương thế, tựu trung hai phương thế thường dùng, đó là chia để trị hay hoà hợp để trị. Nếu chọn chiến lược chia để trị, thì ta phải dùng chiến thuật gì, đó là dùng phương pháp gì. Thực dân dùng phương pháp tạo ra một giai cấp thống trị đại biểu cho họ với những lợi lộc, và đồng thời dùng bạo lực để đàn áp toàn dân. 

Trong lối suy tư của tâm đạo, nếu phương thế là hợp thì phương pháp là biện chứng siêu việt. Hợp một cách biện chứng siêu việt đòi hỏi những kỹ năng, tức những kỹ thuật (cũng thuộc phương pháp) căn bản giúp đạt tới hoà hợp một cách biện chứng. Những phương pháp căn bản này bao gồm tu luyện, dưỡng tính, theo từng giai đoạn trước sau. Mà tu luyện thì cần những kỹ thuật căn bản hơn nữa. Trong Đại Học, ta thấy những phương pháp căn bản, kỹ thuật giúp tu tâm, đó chính là nhận biết thấu suốt sự vật (cách vật trí tri), có được định kiến chắc chắn (định), đạt tới được sự an tâm (an), vân vân.

Từ lối nhìn về phương thế và phương pháp tâm đạo trên, chúng ta phân tích phương thế và phương pháp của tâm đạo trong Truyện Kiều. Như là phương thế đạt tới mục đích hoà hợp, tâm đạo phát động động lực hợp để đạt được trạng thái hòa. Phương thế này đi qua những giai đoạn một cách biện chứng:

Giai đoạn thứ nhất, phát động năng lực (tài) thiên bẩm phù hợp với chính mình. Câm kỳ thi họa là những tài năng của văn nhân, giai nhân, vân vân, trong khi cao lớn, võ dũng, thao lược… là tài năng của nhưng võ sĩ. Những tài năng này làm lợi cho cá nhân và cả cho xã hội. Nếu chỉ dừng ở cái lợi cá nhân, hay gia đình, thì cùng lắm cũng chỉ đạt tới điều mà giới nho gia Việt gọi là tiểu nghĩa. Đây là giai đoạn chúng ta thấy nơi các tài nhân. Sắc đẹp, tài năng của Kiều làm nhà họ Vương sáng mặt sáng mày, khiến Kiều thành “minh tinh” lôi cuốn chú ý của người khác. Bán mình chuộc cha là tiểu nghĩa, nhưng hy sinh mình cứu nuớc thì mới là đại nghĩa. 

Giai đoạn thứ hai là sự đối nghịch giữa cái tài chỉ dành cho chính mình, và tác động phát huy tài năng phục vụ xã hội, đất nuớc. Giai đoạn này nói lên tính chất mâu thuẫn giữa luật vị kỷ, dùng tài năng cho mình, và luật hòa hợp, dùng tài năng để tạo thái hòa. Ta thấy sự đối nghịch giữa tài và mệnh, giữa con người cá nhân và xã hội. Đây là giai đoạn bất hòa. Sự bất hòa này mang tính giai đoạn, nhưng để vượt qua, tài nhân cần phải có được ý thức, hiểu rõ mục đích của thái hòa, nhận ra vai trò của Trời Đất và con người, và thực thi, hay tu luyện thì mơi có thế vượt khỏi giai đoạn thứ hai này.

Giai đoạn ba nói lên việc tài nhân đã ý thức được sự bất hợp, và tu luyện bằng cách phát huy tài, hay năng lực, hòa hợp với Trời, Đất và con người. Con người chỉ có thể tìm ra được chính mình trong sự hòa hợp. Và như vậy, chỉ khi nào ở trong tình trạng thái hòa, thì lúc dó quá trình biện chứng mới dừng lại. Trường hợp tài nhân Kiều, nàng đã ý thức được mục đích qua tu luyện, được day giỗ (nhờ Tam Hợp và Giác Duyên), đã tôi luyện trong đau khổ, thé nên giai đoạn thư ba tất nhiên sẽ tới với nàng. 

Động Lực Hợp

Động lực hợp mang tính chất biện chứng, vì mỗi giai đoạn là một trạng thái bất toàn của hòa. Bất toàn theo nghĩa chưa hoàn tất. Trạng thái hòa trong giai đoạn sau rộng hơn, bao quát hơn, và cao hơn. Và cứ thế tiếp tục tới giai đoạn khác, và tiếp tục cho tới gia đoạn cuối cùng ta gọi là thái hòa. Trong Đại Học, ta thấy Khổng Tử đưa ra phương thế “tu, tề, trị và bình.” Mỗi phương thế có những phương pháp khác nhau, nhưng đều nhắm tới hòa; và hòa ơ giai đoạn sau cao hơn giai đoạn trước. Thí dụ hoà ở giai đoạn tu luyện trí (phương pháp phân cách, đào sâu tức là trí tri cách vật) là định. Hòa ở giai đoạn sau khi đã năm chắc sự vật là tĩnh. Hoà ở giai đoạn biệt mình phải làm gì đó là an, và hòa ở sau an là lự. Kết quả tất nhiên phải là giai đoạn hòa cuối cùng, mà Không Tử dùng tiếng đắc (được) để biểu tả. Như vậy, ta thấy mỗi giai đoạn đều hướng tới mục đích cao hơn, hợp hơn và hòa hơn.

Tương tự, khi trả lời những câu hỏi tại sao phải tu thân, và làm thế nào để tu thân, ta đều thấy có một động lực nằm sẵn trong câu trả lời. Động lực này được mục đích hoà hướng dẫn. Dùng cùng đoạn đã trích trên của Đại Học, ta có thể trả lời như sau: tu thân là để đạt tới thái hoà, mà để đạt tới thái hòa ta phải tu luyện qua nhiều giai đoạn, mà mất cứ phương pháp tu luyện nào cũng nhắm tới hoà, bởi vì động lực hợp mang bản chất hòa. Mà hòa trong mối gian đoạn là một nhịp cầu dẫn đến giai đoạn hòa mới, cao hơn, rộng hơn, đầy đủ hơn, và dĩ nhiên gần với mục đích tối hậu là thái hòa hơn. Như vậy, tâm đạo là cả một quá trình gồm nhiều gia đoạn, mỗi giai đoạn tu tâm đều mang mục đích hòa và động lực hợp, theo tứ tự trước sau với mục đích tối hậu là thái hòa (bình thiên hạ).[45]


[34] Dùng từ ngữ của Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê, sđd., ctr. 15-18.
[35] Trang Tử, Nam Hoa Kinh, Ngoại thiên, và Tạp thiên. Trong Ngoại thiên, Trang Tử viết: “Thân của anh không phải là vật sở hữu của anh đâu, nó chỉ là cái hình hài mà trời đât giao phó cho anh đấy… Tính mệnh của anh không phải là vật sở hữu của anh đâu, nó là do trời đất giao phó cho anh đấy.” Trích dịch từ Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê trong Đại Cương Triết Học Trung Quốc sđd., Tập hạ, tr. 17. Chú ý, hai chương sách trên không chắc là của Trang Tử. Rất có thể được trước tác vào cuối đời Chiến Quốc, theo chú thích của Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê, sđd., tr. 17.
[36] Lão Tử, Đạo Đức Kinh, chương 25. Nghiêm Toản dịch: “..Lớn là đi, đi là xa, xa là trở lại. Cho nên Đạo lớn, trời lớn, đất lớn, Vua cũng lớn. Trong cõi có bốn thứ lớn mà Vua là một. Người bắt chước đất, đất bắt chưoi71c trời, trời bắt chước Đạo, Đạo bắt chước tự nhiên.” Xin tkh. Nghiệm Toản dịch và chú thích, Lão Tử Đạo Đức Kinh (Sài Gòn: Đại Nam xb, 1973), tr. 158. Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê, tr. 18.
[37] Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê, sđd., ctr. 18-20.
[38] Đái Đông Nguyên, Chương Nguyên thiện. Trích dịch bởi Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê, sđd., Tập hạ, tr. 21.
[39] Vũ Đình Trác trong hai tác phẩm về Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Du đều nhấn mạnh đến sự kiện là hai nhà tư tưởng thi hào này đều lấy thuyết tam tài làm nền tảng. Tuy vậy, Tiến sỹ Vũ Đình Trác không (hay chưa) nêu lên được sự khác biệt giữa thuyết tam tài trong Kinh Dịch hay truyền thống của Trung Hoa, và thuyết tam tài theo lối nhìn của người Việt. Tương tự, ông vạch ra cả một qúa trình hội nhập tam tài và tâm đạo từ các lý thuyết của Trung Quốc vào Việt Nam thành cái mà ông gọi là đạo sống Việt, nhưng ông chưa đưa ra một lý giải thỏa đáng cho việc tại sao Nho gia Việt lại có một lối nhìn không giống lối nhìn của ho gia trung Quốc, và tại sao đạo sống Việt không đồng nhất với đạo sống Tầu. Xin tkh. Vũ Đình Trác, Triết Lý Chấp Sinh Nguyễn Công Trứ (Orange: Hội Hữu xb., 1988), ctr. 203-208; Vũ Đình Trác, Triết Lý Nhân Bản Nguyễn Du, sđd., ctr. 94-146; và 357-388.
[40] Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê, sđd., ctr. 151 vtth. Chúng ta biết thầy Mạnh Tử có lẽ là người chú trọng nhiều tới tâm đạo. Thầy coi tâm như là đầu óc biết suy nghĩ, biết phán đoán lẻ phải lẽ trái (trong chương Cào Tử, sách Mạnh Tử). Tâm là do Trời, nên mang bản tính thiện của Trời (lương tri, lương năng, lương tâm).
[41] Vũ Đình Trác, Triết Học Nhân Bản của Nguyễn Du, sđd. ctr. 90-2
[42] Kim Định, Cửa Khổng (Sài Gòn: ra Khơi, 1961), tr.
[43] Nguyễn Thế Hùng, Ngũ Hành Nhịp Điệu Sáng Tạo (Hà Nội: Nxb Văn Hóa Thông Tin, 2008).
[44] Chú ý là nơi người Việt, chữ tâm có thể hiểu là con tim, bụng dạ, lòng người. Một bài viết thú vị của vớ i tựa đề “Người Việt suy nghĩ bằng cá i bụ ng?” (www.chungta.com.vn), nhưng kết luận có vấn đề, vì tác giả tách con tim, trí khôn ra khỏi bụng, dạ, lòng.
[45] Đại Học, chương 1: “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện. tri chỉ, nhi hậu hữu định, Định nhi hậu hữu năng tĩnh. Tĩnh nhi hậu năng an. An nhi hậu năng lự. Lự nhi hậu năng đắc.”

[nextpage title=”3.2 Tâm Đạo Việt”]

3.2. Tâm Đạo Việt

Phần trên chúng tôi đã trình bày tâm đạo theo đạo Nho. Cùng trong một nguồn mạch của nho, tâm đạo Việt cũng mang trong mình cái mục đích thái hòa, và cũng coi hợp là động lực dẫn tới hòa. Tâm đạo Việt chọn phương thế chính tà tu tâm. Chỉ có đôi chút khác biệt trong phương pháp mà thôi. Như đã trình bày phần trên, phương pháp tâm đạo phải theo từng giai đoạn từ trí tri tới tĩnh, tới định, tới an, tới lự. Và chỉ đi hết mọi giai đoạn mới đắc, tức có thể tề, có thể trị, và có thể bình. Thái hòa chỉ đạt được theo một phương pháp như vật. Tiếc rằng, kỹ thuật để trí tri cách vật (thí dụ phân tích, quy nạp, tổng hợp, vân vân,,,) không được nhắc tới, hay nói nhẹ hơn, chưa được bàn tới một cách kỹ lưỡng. Thế nhưng phương hướng và phuơng hướng thì đã rõ ràng. 

Tâm đạo Việt áp dụng phương pháp một cách uyển chuyển, và “tùy tâm” hơn. Thứ tự trúc sau cũng không nhất thiết phải tuân thủ. Và tính trung thực (authenticity) của tâm đạo Việt không có thuần nhất. Nó bao gồm nhiều nền tâm đạo khác nhau, của nho, của Phật, của Lão, và vào thơi nay, của cả Tây phương cũng như của các ý hệ khác. Nói rõ hơn, đối với người Việt, bất cứ phương pháp nào dẫn tới hòa hợp đều được chấp nhận. Chính vì thế mà, phương pháp tu tâm luyện tính không nhất thiết bắt đầu với cách vật chí tri, cũng không nhất thiết tập trung ý thức về việc phải “minh đức” hay phải “thân dân.” Bình thiên hạ có lẽ lả lối biểu tả thái hòa, nhưng cách thế bình của người Việt không đòi hỏi tính đồng nhất hay thuần nhất của thiên hạ, Đây là một đặc điểm mà chúng ta thấy trong tư tưởng các nhà nho Việt mà chúng tôi đã nói ở phần thứ nhất của luận văn. Đây cũng là đặc điểm mà tất cả những niềm tin, tôn giáo, và ngay cả chính trị nơi người Việt đều có nhiều hay ít. Đạo Cao Đài, Phật giáo Hoà Hảo, rồi Tam Giáo đồng nguyên… đều có những đặc tính như vậy.[46]

Trong tâm đạo Việt, phương pháp tu thân, luyện tính chỉ cần phù hợp, hay biết hòa hợp với những nhân tố gần họ nhất. Hợp với trời, hợp với đất, và hợp với người là những bước đầu tiên và luôn luôn lập lại ở mức độ cao hơn và rộng hơn, đó là phương pháp của tâm đạo Việt. Đây có lẽ là lý do tại sao lấy tên Tam Hợp đặt cho nhà sư đã giúp Kiều giác ngộ. Hợp với người từ gần ra xa (tề gia, trị quốc, bình thiên hạ), hợp với đất từ cuộc sống thường nhật cho tới tương lai gần xa, và với cả cuộc sống mai hậu. Hợp với Trời (trời) cũng theo một tiến trình, không gian và thời gian như thế. Hợp hay bất hợp với Trời được diễn tả qua những câu ca dao dân gian. Người Việt xưng tụng Trời (trời) bằng nhiều danh xưng khác nhau. Thái độ của họ với Trời cũng biến đổi tùy theo có hợp hay không, ở xa hay gần, hoặc có lợi hay hại. Họ lạy, họ vái, họ cầu, họ khẩn khoản, họ xin, họ gọi, họ kêu, họ than, họ chửi Trời. Họ tôn kính gọi Trời bằng đức, bằng ông. Họ coi thường gọi bằng anh, hay khi không bằng, mánh khoé chẳng xưng hô gì. Thí dụ, khi cần Trời: “Lạy Trời mưa xuống / Lấy nước tôi uống / Lấy ruộng tôi cầy / Lấy bát cơm đầy / Lấy cá rô to.” Khi không hợp: “Trời làm một trận lăng nhăng / Ông hóa ra thằng, thằng hóa ra ông.” Khi khẩn khoản: “Trời sinh, trời chẳng phụ nào.” Khi hối hận: “Trông trăng mà thẹn với Trời / Soi gương mà thẹn với người trong gương.” Khi trách móc: “Trời sao tròi ở chẳng cân / Kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra. Do vậy, thế nào là hợp, và làm thế nào để hợp, đó là những điểm chính đàng sau phương pháp tu luyện.

Phương pháp hợp gồm hai phần: tu tâm, hay ý thức về vai trò của mình trong tương quan với trời, Đất và người. Vãi Giác Duyên, sư Tam Hợp, và Kiều sau khi giác ngộ, và ngay cả Kim Trọng sau này vào lúc tái hợp với Kiều đều đạt được trạng thái hợp với Trời, Đất và con người. Thí dụ của Kiều: nàng ý thức được thế nào là hợp là hòa sau nhiều gian truân, sau khi biết nhịn nhục, biết hy sinh, biết quên cả mạng sống.

Nhưng để có được hợp với Trời, thì tu tâm là điều kiện tiên quyết. Tu tâm do đó là phương cách, phương thế làm cách nào để hợp với Trời, và để trời cảm nhận đươc. Trạng thái hòa nói lên sự hợp thành công giữa Trời và con người.

3.3. Nền Tảng Siêu Hình của Tâm Đạo Việt: Triết Lý Tam Tài Việt

Triết lý tam tài trong lối sống Việt, như đã trình bày qua, không hẳn khác biệt với lý thuyết tam tài trong Kinh Dịch, Kinh Thi, Tả Truyện, Mạnh Tử… nhưng rộng hơn, ở chỗ nó nói lên quy luật sống, suy tư, và cảm giác của con người từ xưa tới nay, từ vùng Hoàng Hà tới Hồng Hà, từ vùng Dương Tử tới vùng Cửu Long. Quy luật sống này từng được các giống người tứ Hàn tới Mông Cổ, từ Mãn tới các sắc tộc vùng Đông Á và phần nào Đông Nam Á chấp nhận, và nới rộng ra cho hợp với trời, đất và con người nơi họ sinh sống. Hiểu như vậy ta có thể nói, triết lý tam tài Việt phải được hiểu như là cái nhìn vĩ mô của con người Việt về vũ trụ, nhân sinh, và về sự tương quan giữa con người và trời đất.

Sự tương quan theo quy luật ngoại tại và nội tại (nội thánh ngoại vương). Ngoại tại, trời đất là hai thực thể bên ngoài con người và chi phối con người. Phong thủy, địa lý không thể thay đổi, và do đó, để có lợi cho mình, con người phải tuân thủ ý Trời cũng như luật của Đất (đất). Nội tại theo nghĩa Trời và Đất như là hai thực thể tâm linh, hai sức mạnh gắn liền với cuộc sống. Con người không thể sống còn nếu thiếu hai nguyên lực này. Ngoài ra, cuộc sống con người không chỉ bị chi phối bởi Trời (trời) và Đất (đất), mà còn bởi chính con người. Bởi cùng một lẽ tương tự, không có tha nhân, làm sao ta có thể sinh tồn? Đạo nhân nói lên quy luật của cuộc sống giữa con người với nhau. Chính vì vậy mà trong Nho học, đạo nhân được coi như hạt nhân của lễ, nghĩa, hiểu, trung, tín, vân vân, như Hữu Tử, đồ đệ của đức Khổng từng nhận định.[47] Đạo nhân mà Khổng Tử đề cao chính là cái luật tương quan của tâm đạo:  bản chất hòa giữa mọi người, và động lực hợp nơi con người là nền tảng cho tất cả mọi tương quan.

 Trong tâm đạo Việt, luật tương quan này được nhân hóa, Con người tự mình cũng là một nguyên lực, và do vậy tương quan của họ với Trời (trời), Đất (đất) là tương hỗ. Đây là một đặc tính ít thấy nơi các nhà tư tưởng của Trung Hoa. Trời được nhân cách hóa, y hệt như Đất (đất) cũng được nhân cách hóa, và con người, ngược lại, lại được thần thánh hóa. [48]Về điểm này, trong phạm vi của phần kết luận, chúng tôi sẽ không đi vào chi tiết, mà chỉ cần nhắc tới những câu ca dao tục ngữ liên quan tới Trời (trời), Đất (đất) và con người để chứng minh luận điểm trên.[49]

Trong ca dao tục ngữ, tương quan của con người Việt với Trời (trời) là: (1) Tương quan gia đình, giữa cha mẹ với con cái (Trời sinh, Trời dưỡng,” “Cha mẹ sinh con, trời sinh tính,” hay giữa anh em, bạn bè “Trời làm một trận lăng nhăng/ ông hoá ra thằng, thằng hóa ra ông.”

Tương quan này cũng là một tương quan trật tự trên dưới giữa cha mẹ và con cháu, giữa chủ và gia nhân, mà chúng ta gọi là tôn ti trật tự: “Lậy Trời mưa xuống…” hay “Lậy Trời mưa thuận gió hòa / Cho đồng lúa tốt, cho chiều lòng em.” (2) Nhưng tương quan này cũng là tương quan giữa thần linh và con người: “Trời có mắt,” hay “Trời qủa báo, ăn cháo gẫy răng,” hay “Phí của Tròi mười đời chẳng có.” Hay “Biết sự Trời mười đời chẳng khó.”(3) Và đặc biệt hơn cả, là tương quan tương đối. Con người cũng có tiếng nói chứ không hoàn toàn thụ động tùy thuộc: “Khi nên Trời giúp công cho…”, hay “ Trời nào có phụ ai đâu / Hãy làm thì giầu, có chí thì nên.” (4) Chính mối tương quan tương đối này nói lên tính trọng nhân trong tư tưởng Việt. Vai trò của con người được nâng lên, trong khi vai trò của Trời thì nhân cách hóa, và tương đối hóa, gần gũi mật thiết, như Nguyễn Khuyến từng viết:

“Cao cao muôn trượng ấy là tao
Dẫu pháo thăng thiên chẳng tới nào
Nhắn bảo dưới trần cho chúng biệt
Tháng ba tháng tám tớ mưa rào.”

Như vậy chúng ta có thể hiểu được lý do tại sao người Việt gọi Trời bằng “Ông”, bằng “ngài”, bằng, “anh” bằng “cha” bằng “mẹ” hay trống không qua điều Trời làm cho con người như Con Tạo, Hóa nhi, Trẻ Tạo, Hóa công, Thợ Tạo, Ông Xanh, Trời Xanh, vân vân.[50].

Tương tự, tương quan của con người với Đất (đất) cũng được nhân cách hóa, và mang tính cách tương đối. Người Việt coi đất như người mẹ (Trời cha đất nẹ), coi đất như nơi sinh nơi chết, như mái nhà sinh sống, như chinh tương lai của họ.[51] Họ cũng coi đất như là một thần linh (thần đất, thổ địa, địa linh) ảnh hưởng sâu xa tới cuộc sống của họ (phong thủy, địa linh nhân kiệt).

Tương quan này Nguyễn Du đã thấm thía. Nền triết lý tam tài cũng như tâm đạo được tiên sinh mượn lời đạo cô Tam Hợp qua nhưng vần thơ đầy xác quyết như:

“Sư rằng phúc họa đạo Trời
Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra
Có Trời mà cũng tại ta
Tu là cõi phúc, tình là giây oan.”
                 (TK, 2655-58)


[46] Ngay cả Công giáo, một tôn giáo đòi buộc thuần nhất, khi vào Việt Nam cũng đã có nhiều thay đổi. “Nhập gia tùy tục” có lẽ không đúng, nhưng chắc hẳn là có phần nào đi theo lối suy tư và sinh hoạt biện chứng tổng hợp. Cách sống đạo của ngườ Công giáo ở vùng Bùi Chu, Phát Diệm, có thể nói, mang sắc thái Việt nhiều hơn Tây phương. Những nghiên cứu về quá trình hội nhập (hay hợp một cách biện chứng) của Công giáo vào văn hóa Việt được nhiều học gỉa như Hoàng Sĩ Qúy, Nguyễn Văn Trung, Trần Văn Toàn, và gần đây Nguyễn Thái Hợp, Vũ Kim Chính nghiên cứu. Tác phẩm Công Giáo và Tam Giáo của Đường Thi, sđd., là một ví dụ.
[47] Luận Ngữ, 1:2 … Quân tử vụ bản, bản lập nhi đạo sinh, hiếu đễ giã gỉa, kỳ vi nhân chi bản dư.”
[48] Những người có công với đất nước, với xã hội, với người khác, thường được phong thần,phong thánh, và không nhất thiết phải qua sắc lệnh của vua. Thánh Trần Hưng Đạo, Thánh Gióng, bà thánh Liễu, vân vân, Cả những nhân tài cũng đư ợc thần thánh hóa, thí dụ Thần Siêu Thánh Quát.
[49] Những câu cao dao, tục ngữ , trích dẫn, chúng tôi dựa theo Đường Thi (Thiên Chúa Giáo và Tam Giáo, sđd., ctr. 399 vtth.
[50] Đư ờng Thi, sđd., ctr. 409, 413.
[51] Trong ngôn ngữ, ta ít thấy một quốc gia nàodùng chữ đất nước để chỉ ra ba thực thể cùng một lúc như ngôn ngữ Việt: một dân tộc chung, sinh ra cùng một nơi (nation), một quốc gia (state), cùng một nơi sống (country)

[nextpage title=”Kết luận”]

4. KẾT LUẬN

Khi đọc Đoạn Trường Tân Thanh và so sánh với Phong Tình Lục, ta thấy có một sự khác biệt rõ ràng. Nguyễn Du bắt đầu với một mệnh đề triết lý về sự bất hòa giữa Trời, Đất và con người.trong khi Thanh Tâm Tài Nhân khởi đầu câu truyện với một câu truyện trai gái gặp gỡ thường tình giữa nàng Thúy Kiều và chàng Kim Trọng. Trong phần kết thúc, nếu Phong Tình Lục chỉ diễn đạt được những ước vọng chung chung của con người, một cuộc sum họp hạnh phúc, thì Truyện Kiều đưa ra một phương thế giải quyết tình trạng bất hòa, đó chính là tâm đạo. Nếu nhân vật của Thanh Tâm vẫn chỉ là một tài nhân, thì những nhân vật của cụ Nguyễn, thì hoặc mai một (Từ Hải) hoặc trở thành nhân tài (Thúy Kiều). Mai một vì vẫn còn bị tha hóa, và nằm trong “vòng luân hồi” của bất hòa, trong khi thành nhân tài, là nhờ ý thức được vài trò của con người trong trời đất, và con người nhân vị trong tương quan với Trời và Đất cũng như với tha nhân. Phát huy tâm đạo giúp ta đạt tới cái đạo thái hòa. Trong một nguồn mạch như vậy, chúng ta có thể hiểu được lý do tại sao Nguyễn Du chọn tên Đoạn Trường Tân Thanh làm tựa đề cho câu chuyện cụ thuật lại dựa theo câu truyện Phong Tình Lục của Thanh Tâm Tài Nhân. Tân thanh, tiếng nói mới, sức mạnh mới (chứ không phải là câu chuyện mời từ Phong Tình Lục) là một sức mạnh giải thoát khỏi đoạn trường. Mà sức mạnh mới này chỉ có thể có đưọc khi thực thi tâm đạo: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.”

Không cần phải nói thêm, sự khác biệt giữa Thanh Tâm Tài Nhân và Lễ Phạm Nguyễn Hầu, đó là niềm tin vào tâm đạo, và vào năng lực con người có thể thực thi tâm đạo, tự phát triển thành nhân tài.[52]  Điểm mà chúng ta đã bàn trong luận văn, đó là cái nguyên lực (tài) khi phát huy đúng thì có thể tạo ra sức mạnh thay đối “cuộc bể dâu” vốn tự tại “trong cõi người ta?” Phát huy tâm đạo tức là tuân thủ mục đích thái hòa và thực thi phượng thế tâm đạo (hợp), cũng như luyện tập những phương pháp nào hữu hiệu nhất (các kỹ thuật của hợp) để đạt tới mục đích này. Nguyên lý thái hòa, phương thế hợp, cũng như những phương pháp để hợp là những bản chất tất yếu của triết lý tam tài. Sự khác biệt giữa triết lý tam tài nói chung và triết lý tam tài Việt không nằm trong bản chất, nhưng thấy nơi phương pháp hợp. Tương tư, tâm đạo Việt khác với tâm đạo Tầu, hay tâm đạo của Nhật, không phải tự bản chất (vì cùng mục đích thái hòa và phương thế hợp), mà trong sự kiện người Việt dùng phương pháp. Phương pháp này chúng tôi gọi là biện chứng siêu việt. Phân tích biện chứng tài nhân và nhân tài trong luận văn này đã dựa trên phương pháp biện chứng siêu việt như vậy.

Heidelberg, 26.04.2009 

Nguồn: http://www.simonhoadalat.com


[52] Những nhà Kiều học đều đồng thuận về sự kiện Nguyễn Du muốn gửi gắm một sứ điệp nào đó trong tác phẩm bất hủ này. Đa số cho rằng ông muốn giãi bày bi kịch ông phải ra làm quan cho Gia Long, một hành vi ngược với quan niệm “trung thần bất sự nhị quân.” Chúng tôi cũng đồng ý, nhưng thiển nghĩ thêm, ngoài sứ điệp trên, cụ Nguyễn có lẽ còn muốn nhấn mạnh đến việc ông ý thức được mình là một nhân tài, vượt khỏi tài nhân. Câu thơ tự xác định “Bất tri tam bách dư niên hậu / Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” (Thanh Hiền Thi Tập) ám chỉ con người nhân tài họ Nguyễn.

TRIẾT LÝ TRUYỀN THỐNG VIỆT TỘC
dọn đường cho
THẦN HỌC VIỆT NAM

Giáo Hội trên con đường rao giảng Tin Mừng luôn luôn muốn thích nghi văn hoá của các dân tộc. Trong lịch sử Truyền Giáo, kinh nghiệm của vụ án Nghi Lễ Trung Hoa đã là một bài học cân não không bao giờ quên được. (*)

(*) Các linh mục Dòng Tên (Jesuits) tiêu biểu là Cha Mateo Ricci (1552-1610) đến Trung Hoa, thích nghi ngay từ ban đầu với văn hoá Hán tộc: ăn mặc đúng kiểu người Tàu, giữ lễ người Hoa, nói năng theo từ ngử người Hoa, tôn trọng nghi thức Tôn Kính Tổ Tiên và Ðức Khổng Tử. Nhờ vậy sau này Vua Khang Hy (1661-1722) chấp nhận cho giảng đạo. Chính nhà Vua đã thủ bút viết hai chữ Hán đại tự KINH THIÊN treo trước cửa chính nhà thờ chính toà Bắc Kinh. Các cha dòng Ðaminh và Phanxicô không chấp nhận, đua nội vụ trình Tòa Thánh. Ðức Giáo Hoàng Clementê XI ra tông huấn Ex Illa die (từ ngày đó) ngày 19 tháng 3, 1715 dứt khoát phủ nhận nghi lễ Trung Hoa. Vua Khang Hy coi đó như một hành động nhục mạ quốc thể Trung Hoa, ra lệnh trục xuất các thừa sai, triệt hạ các thánh đường và cấm người Trung Hoa theo đạo Thiên Chúa. Vụ án kéo dài hơn 200 năm, mãi tới năm 1939 Ðức Piô XI mới ra tông thư Plane Compertum (hiểu biết trọn vẹn) giải toả lệnh cấm từ thời Ðức Giáo Hoàng Clementê XI.

Tại Á Châu năm 1965 các hội đồng Gíám Mục Á Châu nhóm họp tại Philippines đã đặt vấn đề: Phải trở về truyền thống Á Châu. Sau Hội nghị, các Tổng Giám Mục và Giám Mục các nước Ðông Nam Á bắt đầu gửi các sinh viên du học các nước Ấn Ðộ, Ðài Loan và Nhật Bản, để thâu hội truyền thống Á Châu. (*)

(*) Tại Việt Nam Ðức Tổng Giám Mục Saigon đề nghị linh mục Vũ Ðình Trác đi Ðài Loan; Đức Giám Mục Nha Trang trạch cử linh mục Trịnh Thế Hùng; sau đó Tu hội St Sulpice Vĩnh Long cử linh mục Nguyễn Chí Thiết và Quebec , Canada cử cha Vũ dư Khánh, tất cả đều tu học tại đại học Fujen của Ðức Hồng Y Yupin, riêng cha Vũ Dư Khánh học tại đại học Ðài Loan. Dòng Tên sai linh mục Hoàng Sĩ Quý học Ấn Ðộ Giáo tại đại học Sorbone. Dòng Ðaminh sai cha Thiện Cẩm nghiên cứu Phật Giáo tại Sorbone, Paris.

Sau đó vấn đề Thần Học Á Châu xuất hiện với các thần học gia: – Tổng Giám Mục Stanislas Lokuang: Triết lý thực tiễn, trình bày Thiên Chúa Giáo theo chứng từ Khổng giáo và Lão giáo. Taipei: Học sinh thư cục, 1970. Tái bản năm 1981 và 1991 nhan đề sách đổi thành Sĩ Lâm triết học – Thực tiễn thiên. – Kosake Koyama: Water buffalo Theology, nói lên đạo sống thiên nhiên của Zen và nông nghiệp. New York: Maryknoll, 1974. – Choan Seng Song: Christian Mission in Reconstruction an Asian Analysis, chủ trương Thần học quân bình đời sống con người Trung Hoa. Madras: Maryknoll, 1977. – Tissa Balasuriya: “Towards the Liberation of Theology in Asia” trong Virginia Fabella: Asia’s Struggle for Full Humanity: towards a Relevant Theology. Tissa viết theo chứng từ “giải thoát” của Phật Giáo Tích Lan. New York: Maryknoll, 1980. – Jung Young Lee: Minjung Theology: People as the subjects of History. Thần học bình dân hay tiện dân của Hàn Quốc. New York: Maryknoll, 1983. – Moon Hee Suk: Minjung Theology: an old Testament Perspective, Thần học tiên dân của Hàn Quốc. New York: Maryknoll, 1985. – Choan Seng Song: Theology from he womb of Asia, chủ trương Thần học quân bình qua đời sống con người. New York: Maryknoll, 1986. – Virginia Fabella và Sun Ai Lee Park: We dare to Dream. Doing Theology as Asian Women, bênh vực quyền lợi phụ nữ Á Châu qua thần học Kytô giáo. Hong Kong: 1989

Như vậy, ba nước Viễn Ðông: Trung Hoa, Nhật Bổn, Hàn quốc, và nước Tích Lan đã khởi đầu những dòng Thần Học theo truyền thống của họ, còn Việt Nam, một “văn hoá chi bang”, cũng không thể thiếu một dòng Thần học truyền thống của Việt tộc, phù hợp với Thần học Kytô giáo, mà ta mệnh danh là Thần Học Việt Nam. Trong đạo trường chung này, chúng ta cùng bắt tay nhau khởi thảo Thần học Việt Nam. Nói đến vấn đề trọng đại này, chúng ta khởi đầu bằng truyền thống tư tưởng Việt tộc. Chúng tôi long trọng tuyên cáo: chúng ta còn hai ẩn lộ có thể trở về nguồn. Ðó là Tập tài liệu cổ bằng Nho văn: Bách Việt Tiên Hiền Chí vâ Trống Ðồng Việt tộc.

I- Cổ thư Bách Việt tiên hiền chí

1. đôi dòng sử sách

Bách việt tiên hiền chí là tập sách quý trích trong đại bộ Lĩnh Nam di thư của Trung Hoa. Ðây là tài liệu ruột cho các nhà khảo cổ và nhân chủng học, cũng như cho các nhà Văn Hoá Việt Học đang xây dựng cho Việt Nho Việt Triết. Chúng tôi long trọng giới thiệu: chúng ta còn đường đi và những chứng tích linh động của tư tưởng Bách Việt hay Việt Tộc qua tập tài liệu qúy giá này.

Bách Việt Tiên Hiền chí do Âu Ðại Nhậm , tự Trịnh Bá, đời Minh tuyển soạn. Sách bao gồm 102 Hiền Triết Bách Việt: Âu Trị Tử, Trù Vô Sư, Âu Dương, Kế Nhi, Phạm Lãi, Tiết Chúc, Trần Âm, Chư Kê Dĩnh, Cao Cố, Sử Lộc, Mai quyên, Công Sư Ngung, Trương Mãi, Trịnh Nghiêm, Ðiền Giáp, Hà Di, Tất Thủ, Nghiêm Trợ, Chu Mãi Thần, Ðặng Mật, Tôn Miêu, Ngô Bá, Trịnh Cát, Hà Ðan, Mai Phúc, Nghiêm Quang, Trần Nguyên, Vương Sung, Bao Hàm, Dương Phù Trương Trọng , Dương Phấn, Ðặng Thịnh, Chung Ly ý, Hứa Kinh, Kỳ Mẫu Tuấn, Chiêu Mãnh, Trần Lâm, Trầm Phong, Cố Phùng, Công Tôn Tùng, Trịnh Hoành, Trần Hiêu, Thái Luân, Lý Tiến, Long Khâu Tường, Từ Hủ, Ðạm Ðài, Kính Bá, Lưu yến, Mạnh Thường, Hoàng Xương, Bành Tu, Nguyễn Lang, Từ Trung, Trương Vũ, Thân Sóc, Lục Tục, Ðường Trân, Ðới Tựu, Chu Tuấn, Tạ Di Ngô, Hạ Thuần, Ðổng Chính, Sơ Nguyên, Triệu Trường, Quân Vi Thuyết, La Uy, Ðường Tụng, Ðốn Kỳ, Ðinh Mật, Nhan ô, Phí Phiếm, Từ Trĩ, Quách Thương, Diêu Tuấn, Ðổng Phụng, Ngu quốc, Ðổng Ăm, Hoành Hào, Ðinh Mậu, Y Nha, Từ Ðăng, Thịnh Hiến, Trầm Du, Diêu Văn Thức, Ngô Nương, Hoành Nghị, Sĩ Tiếp, Ngu Phiên, Lý Tổ Nhân, Vương Phạm, Hoàng Thư, Ðào Ðình, Tẩy Kính, Nguyễn Khiêm Chi, Liêu Xung, Phùng Dung, Vi Thiện Ðạo, Mặc Tuyên Khanh, Dương Hoàn.

Trong số này có nhiều nhân vật quen thuộc, như Phạm Lãi, Chu Mãi Thần, Vương sung, Trương Trọng, Lý Tiến, Chung Ly Y, Mạnh Thường, Tạ Di Ngô, Vi Thiện Ðạo….

Tư tưởng bật nổi của các vị Tiên Hiền đó quy về các đề tài chính: Triết Lý Âm Dương, Triết lý Tam Tài, Ðạo sống Quân Tử, Hiếu đạo, Triết lý Nông Nghiệp, Ðạo sống thiên nhiên….

Ta thử đọc bài Tựa của Bách Việt Tiên Hiền Chí:

” Hai chữ và là một. Vũ Cống là một miền vuông vắn ngoài cõi Dương Châu, từ Ngũ Lĩnh tới bờ biển. Ðó là miền của Việt tộc, khởi thủy từ thời vua Vũ, làm thành các nước chư hầu Bách Việt. Thiếu Khang lúc ấy phong Yến Tử ở miền Hội Kê, thờ vua Vũ. Họ xâm mình cắt tóc, phá hoang lập ấp tại đây. Cách hai mươi đời sau, Việt Câu Tiễn, một thường dân nổi lên diệt Ngô, xưng Vương, đóng đô ở Lang Gia, trở thành dân nước hùng cường một phương. Câu Tiễn suốt sáu đời, gia công đánh Sở. Sở rất mạnh về thương mại, đánh bại Câu Tiễn, dồn về Lang Gia, dừng bước ở miền Ðông. Vũ Việt phân tán các con mỗi người một nơi: kẻ xưng Vương, người xưng Chủ khắp miền duyên hải Giang Nam, thần phục nước Sở. Ðó là Bách Việt , phân chia bờ cõi từ Dương Châu, Hội Kê xuống Nam. Nhờ thực tài xem thiên văn và bói chim, sau cùng diệt được Sở Vương. Câu Tiễn thâu hồi cả miền Dương Việt lập thành ba Quận: Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Uy. Con cháu sau này quy phục Hán Tộc, liên hợp các miền thành Thương Ngô, Uất Lâm, Giao Chỉ, Cửu Chân, Ðam Nhĩ, Châu Nhai.. tất cả 9 quận. Từ miền Nam Việt tới địa giới Bắc Cô Tư, Hội Kê gọi là Phù Việt ; phía Ðông miền hoang vu tới Chương Tuyền gọi là Mân Việt . Từ biển Ðông, kinh đô Vương Diêu tới Vĩnh Gia gọi là Âu Việt. Từ Tang Ca tới miền Ðông ôn hoà thư thái gọi là Lạc Việt. Người Hán Tộc cho rằng: người Việt ở miền duyên hải có nhiều đồi mồi, tê giác, đá ngọc, bạc đồng, trái cây, vải vóc.

Tuy nhiên Việt tộc được chung đúc bởi dương khí, cho nên nhân văn, mũ áo, lễ nhạc không giống lễ giáo Ðường Ngu. Sau này tôi nghe có vị thái sư Nam Giao nói rằng: người Việt tuy man di, nhưng từ đầu đã có công đức với nhân dân lắm. Sách Xuân Thu viết: “Câu Tiễn ở ư Việt vào nước Ngô. Lúc ấy họ rất khổ sở vất vả, nhưng lại có nhiều mưu kế thâm sâu, bền chí giữ liêm sĩ, nghe theo mệnh Trung Quốc mà tôn nhà Chu, theo Hán tộc từ đó cho tới sau này”.

Sau này có Sô Thị gọi là Diêu Triệu thâu hồi dân Việt chung quanh, được tán thưởng cho tới thời Lưu Thị, lập thành hai kinh Ðông Tây. Thần dân Việt tộc có công nghiệp văn chương rải rắc khắp tám dặm miền duyên hải Giao Châu đã đem lại nhiều lợi ích.

Vì thế sử sách từ Chu đến Hán đã ghi chép Việt tộc có hàng 120 Ðại Hiền Tiểu Hiền. Từ thời Chương Vũ Hoàng Sơ tới Ðường Tống thu hồi lại tất cả, gọi là bách việt tiên hiền.

Lời tựa của Âu Ðại Nhậm
năm thứ 33 đời Gia tĩnh, tháng 11 này 21
Minh Thế Tông năm 1522

Qua bài Tựa này, chúng ta nhận định nhiều ưu thế của Việt tộc: 1. Ðã có thời Việt Câu Tiễn diệt Ngô, xưng Vương, hùng cứ một phương. 2. Họ đã làm chủ suốt miền Giang Nam. 3. Có thực tài xem thiên văn và bói chim. 4. Thần phục nước Sở, thâu hồi cả miền Dương Việt. 5. Việt tộc miền duyên hải có nhiều đồi mồi, tê giác, đá ngọc, bạc đồng, trái cây, vải vóc. 6. Người Việt được chung đúc bởi dương đức, cho nên nhân văn, mũ áo, lễ nhạc không giống Ðường Ngu. Phải chăng hay hơn, vì nhờ dương đức. 7. Người xây dựng nước tuy vất vả khổ sở, nhưng lại thâm mưu túc trí, bền lòng giữ liêm sỉ 8. Lúc ấy đã lập thành hai kinh Ðông Tây, tức là Quảng Ðông Quảng Tây. 9. Thần dân của Việt tộc có công nghiệp văn chương rải rắc khắp bảy tám dặm miền Giao Châu, đã đem lại nhiều ích lợi. 10. Cả hơn mười Việt tộc đã bị đồng hoá với Hán Tộc, chỉ trừ Lạc Việt và Việt Thường tự cường không bị thâu hoá, mà tồn tại thành nước Việt Nam ngày nay.

Ðó là những điểm ưu việt của dân anh hùng Việt Nam, dưới mắt Hán tộc, tức dân Trung Hoa. Nhưng điều quan trọng ở đây là Việt tộc có hàng 120 Ðại Hiền Tiểu Hiền đã đóng góp cho văn hoá Hán tộc và làm thành Truyền thống văn hoá Việt Nam.

2. Triết lý truyền thống

Như trên đã nói chúng ta khuôn đúc tư tưởng Tiên Hiền vào ba dòng triết lý căn bản: Triết Lý Tam Tài, Triết Lý Âm Dương và Triết Lý Nông Nghiệp.

triết lý tam tài

Triết lý Tam Tài trong khối Viễn Ðông rất bàng bạc. Trung Hoa Nhật Bản trình bày Tam Tài với tính cách thực tại hơn là triết lý. Trung Hoa có bộ Tam Tài đồ hội gần 4000 trang, nhưng đó chỉ là liệt kê tổng quát theo các hiện tượng: thiên văn, địa văn và nhân văn mà thôi. Nhật Bản có 1 tập nhỏ duy nhất, nhan đề Tam Tài tạp biện nói một cách chung chung, áp dụng vào nhân sinh mà thôi. Việt Nam ta từ hồi còn là Việt tộc, các Tiên Hiền đã nói về Tam Tài như những thế lực cấu tạo, bảo tồn và phát huy vạn vật.

Các Tiên Hiền Bách Việt, như Ðại Phu Chủng. Phạm Lãi, Chư Kê Dĩnh, Trịnh Nghiêm, Ðiền Giáp, Dương Phù, Tạ Di Ngô đã trình bày Tam Tài Thiên Ðịa Nhân là ba căn cơ cho Thiên Ðạo, Ðịa đạo và Nhân Ðạo. Nhờ đó Việt tộc từ ngàn xưa đã xây dựng Chủ Ðạo Nhân bản tâm linh, là truyền thống văn hoá của ta ngày nay. Con người là sức mạnh của Trời: Thiên địa chi đức. Con người là chủ nhân ông trong vũ trụ, được Trời che đất chở: Thiên phú địa tái. Con gnười khám phá những Thiên văn, khai quật những địa văn, để tô điểm cho Nhân văn thêm tươi đẹp phong phú.(*)

(*) Đại Phu Chủng, quyển 1, trang 1-2; Phạm Lãi, quyển 1, trang 4; Chư Kê Dĩnh, quyển 1, trang 6; Trịnh Nghiêm; Trịnh Nghiêm, Ðiền Giáp quyển 1, trang 10; Dương Phù quyển 2 trang 6; Tạ Di Ngô quyển 3, trang 7.

Sau này các nhà Việt Nho, như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Du đã thể hiện dòng triết lý ấy trong thơ văn một cách đầy đủ rõ ràng (*)

(*) Ðọc Vũ Đình Trác: “Triết lý Tam Tài” trong Luận án Triết lý nhân bản Nguyễn Du. Orange, CA: Hội Hữu, 1993, trang 91-144.

Ðặc biệt Trần Cao Vân viết một bài thơ nhan đề Tam Tài, đã tận tả ý nghĩa của dòng triết ký này:

Trời Ðất sinh Ta có ý không ?
Chưa sinh Trời Ðất có Ta trong.
Ta cùng Trời Ðất ba ngôi sánh,
Trời Ðất in Ta một chữ đồng.
Ðất nứt Ta ra, Trời chuyển động,
Ta thay Trời mở Ðất mênh mông.
Trời che Ðất chở Ta thong thả,
Trời Ðất Ta đây đủ Hoá Công.

Ðiểm Thần học dân gian nổi bật lên ở đây là: con người đứng giữa Trời Ðất để nối kết đôi bờ Thiên Ðịa. Con người được Trời che Ðất chở, phải đắp đổi hai bên cho cân xứng. Con người làm vua vũ trụ, như kiểu sách Sáng Thế Ký 1: 28. Con người vì thế phải làm trọn ba đạo: đạo Trời đạo Ðất và đạo Người. Chỉ tròn nhân đạo, khi con người đi theo đúng thiên lý và đạo tự nhiên của Ðất. Nhờ vậy con người sẽ gây được đời sống quân bình và toàn diện. Cha Trời Mẹ Ðất chính là triết lý chấp Ðịa tòng Thiên của Cha ông ta từ ngàn xưa. Chấp Ðịa là đón nhân địa vật làm của riêng, khai thác
trái đất để tô điểm đời sống con người cho phong phú theo ý Trời. Tòng Thiên đây chính là theo ý Trời. Theo được ý Trời, thì Trời cũng theo ý Ta. Ðây là ý nghĩa câu tục ngữ Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhân (Trời không phụ người có lòng tốt).

Nhờ đó văn hoá truyền thống vẫn là văn hoá nhất quán và giao hội. Những nền văn hoá “duy, chủ” không hợp với triết lý Tam Tài, đương nhiên cũng không hợp với người Việt. Chính vì thế, không lạ gì dân chúng Việt Nam không chấp nhận công sản chỉ có địa mà không có thiên. Con người thiếu Thiên sẽ bơ vơ lạc lõng trong cõi thời không, thiếu địa sẽ khắc khổ tàn tạ. Con người chỉ an vui hạnh phúc khi trọn đưọc Thiên đạo Ðịa đạo và Nhân đạo. Vô tín ngưỡng vô tôn giáo là phản bội dòng triết lý dân tộc.
Vô gia đình lại chính là con người tự phản bôi con người. Con người Tam Tài là
con người Thiên thời, địa lợi nhân hoà. Các huyền thoại của ta đều cho thấy: con người có nhân đức, thường được Tiên Thánh và Ðấng Tạo Hoá phù trợ, gặp nhiều thuận lợi do Cha Trời mẹ Ðất xếp đặt.

triết lý âm dương

– Triết lý Âm Dương được xuất hiện dưới ngòi bút của các vị Tiên Hiền: Kế Nhi, Dưỡng Phấn, Quách Thương. Kế Nhi đề cập luật Âm Dương với Ngũ Hành. Dưỡng Phấn trình bày hậu quả của Âm Dương, Quách Thương nhấn mạnh: Dương đức là căn bản của chính sách tu tề.(*) Ðọc qua ba Tiên Hiền này, ta có cảm tưởng như Dòng Bách Việt xưa coi âm dương như nguyên tố sinh tử của một hệ tộc. Cũng nhờ Âm Dương quân bình và dương đức cường thịnh mà hai hệ tộc Lạc Việt và Việt Thường còn tồn tại, để thành Việt Nam ngày nay. Nhờ dòng triết lý này, đạo sống Quân bình Âm Dương được thể hiện nơi người Việt muôn thủa, mà lịch sử tôn họ là Dân Anh Hùng.

(*) Kế Nhi đọc quyển 1, trang 3; Dưỡng Phấn quyển 2, trang 7; Quách Thương quyển 4, trang 4.

Dòng triết lý này được thể hiện thời Hùng Vương với Bánh Dầy Bánh Chưng, một vuông một tròn tượng trưng cho Trời tròn Ðất vuông, nói lên sự vuông tròn của Âm Ðương mang ý nghĩa Quân Bình và Toàn Diện. Âm Dương là hai nguyên tố sinh tồn và biến hoá qua Ngũ Hành: Thủy Hoả Thổ Kim Mộc. Nhờ Ngũ Hành tương sinh tương khắc mà có biến hoá trong trời đất.

Triết lý Âm Dương Ngũ Hành cũng là nền tảng cho sự hoà diệu trong trời đất và nơi cuộc sống con người: tình cảm, tâm tư, ước vọng là nguồn mạch của văn chương tư tưởng con người, dĩ nhiên cũng là nguồn mạch của văn hoá.

Ðối với Việt tộc, khởi đầu Âm làm chủ: Âu Cơ, Mị Nương, Tiên Dung mở đầu cho tình cảm phu phụ, gia đình làng xóm. Lần lần chuyển sang Dương Chủ: 18 đời Hùng Vương. Sau cùng là Âm Dương giao thoa: Phu xướng phụ tùng và Phu phụ tương dung tương tại. Nhờ vậy mới phát sinh Quân bình Âm Dương. Âm Dương đã quân bình thì có giao hoà toàn diện. Ðó là Ðạo Sống Thái Hoà.

Dựa trên triết lý Âm Dương, cuộc sống của Việt tộc lúc nào cũng giao hoà và nhất quán. Nhờ thế tinh thần kết đoàn dễ thể hiện thành tình: đồng bào, làng xóm, chức vị, đồng môn, nghề nghiệp. Cả về phương diện Y đạo cũng thế. Tất cả y lý dựa trên nguyên tắc: Quân bình âm dương. Ðồ ăn đồ uống phải theo luật Quân bình âm dương, thì sẽ trường sinh vô bệnh. Thuốc men cũng theo luật đó để trị liệu. Theo huyền thoại, Y Tổ Thôi Vĩ được Tiên Ma Cô trao tặng một Lá Ngải để bách trị. Bất cứ bệnh gì, đốt lá Ngải lên cứu đều bình phục. Lá Ngải chính là dược thảo thiên nhiên có hoạt chất âm dương điều hoà, chữa trị bá chứng.

Ðời sau Y Tổ Hải Thượng Lãn ông cũng dựa trên lý thuyết âm dương mà trị liệu vạn bệnh. Biết được biến chuyển của âm dương trong cơ thể, biết được bệnh tính âm hay dương, và nắm chắc dược tính âm dương, là không còn gì nan trị nữa.

Các văn gia thi sĩ của ta sau này cũng sống theo âm dương: thời thế có lúc âm lúc dương, mà chính trị cũng có lúc âm lúc dương. Kể từ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cho tới Tú Tài Trần Tế Xương suy tư, xử sự, hành động đều theo vận chuyển của âm dương, để lấy dương điều chế âm và lấy âm điều chế dương. Ðó là đạo sống vừa song hành vừa nhất quán.

Triết lý Âm Dương cũng nói lên nhiều điểm Thần học. Ðấng Tạo Hoá, tức ông Trời đã tạo dựng hai nguyên tố uyên nguyên là âm dương, để sinh hoá vạn vật trong vũ trụ: Sáng tối, ngày đêm, mặt trời mặt trăng, Nam tính Nữ tính, điều lành điều dữ, đau khổ sướng vui, lúc may lúc rủi, khi thăng khi trầm, hanh thông bế tắc. Những điều đó lúc nào cũng đi theo cuộc
sống con người. Hiểu như thế, cha ông ta luôn luôn thuận theo ý Trời và luật thiên nhiên: bất oán thiên bất vưu nhân. Mặc dù gặp hoàn cảnh nào cũng an vui điều hoà. Và chí tiến thủ giúp họ điều hoà hoàn cảnh: khi vui nghĩ đến lúc buồn, biến đổi nỗi buồn trở thành niềm vui; khi ấm no nghĩ đến lúc thiếu thốn mà đề phòng; khi sa cơ lỡ bước phải lập chí để vượt thắng .

Ðạo sống quân bình âm dương chính là đạo sống thái hoà, đem đến cho con người Việt Nam muôn thủa một nhịp sống đắp đổi, uyển chuyển và hoà hợp, khiến cho con người Việt Nam luôn luôn giữ thế tự tại, mà có thể hoà mình với mọi người và mọi hoàn cảnh.

triết lý nông nghiệp

– Nhờ căn bản Tam Tài mà có triết lý Nông Nghiệp. Con người được Trời cho làm chủ vũ trụ này, trở thành chủ nhân ông trên mặt đất. Ðề ra dòng triết lý này có các Hiền Triết Kế Nhi, La Uy, Ðường Tụng. Kế Nhi chủ trương Nông vi bản: Nông Tang. Nghề nông phát đạt thì dân mới giầu mạnh. La Uy thì khuyến Nông Mục. Ðường Tụng đưa ra một lối sống nông nghiệp theo đạo Hiếu. Nhờ hiếu đạo Trời sẽ cho mưa móc trên thảo mộc. (*)

* Kế Nhi xem quyển 1, trang 3; La Uy quyển 4, trang 1; Ðường Tụng quyển 4, trang 2.

Triết lý Nông Nghiệp hệ tại quan niệm: nông nghiệp là công việc tay người khai phá trái đất được Trời Ðất thuận hoà. Vua Việt Câu Tiễn xuất thân từ nghề nông, và phu nhân xuất thân từ nghề nuôi Tằm. Sau khi khởi thắng, lên ngôi, tham vấn Kế Nhi, Kế Nhi thưa: Nông nghiệp mà thiệt hại, thì thảo mộc không tươi tốt, thiếu hụt cùng cực thì hàng hoá khan hiếm….Nếu biết nhận định được thời lệnh theo Kim Mộc và Thủy Hoả với Âm Dương mà ứng dụng vào nông nghiệp, thì không lo thất bại. (*)

(*) Bách Việt Tiên Hiền chí, quyển 1, trang 2.

Dòng triết lý nông nghiệp này cùng ứng hợp với ý nghĩa Huyền Sử Bánh Dầy Bánh Chưng, Dưa Hấu đời Hùng Vương. Bao nhiêu lễ vật ngọc ngà châu báu, Hùng Vương không ưa, mà lại nhận hoa màu ruộng đất kết tập trong hai chiếc Bánh Dầy bánh Chưng do ngũ cốc kết thành. Trân châu ngọc bảo nào cũng chẳng bằng lúa gạo nuôi sống nhân gian.

Qua bao đời xây dựng dân nước, Cha Ông ta lúc nào cũng cần đến trí thức là đèn soi cho hành động, nhưng trí thức là ngọn, nông nghiệp vẫn là gốc. Cho nên ca dao hát rằng:

Nhất Sĩ nhì Nông,
Hết gạo chạy rông,
Nhất Nông nhì Sĩ.

Nhưng căn bản của Nông nghiệp vẫn là đạo đức nông nghiệp. Nền đạo đức này hệ tại ăn ở thuận hợp với Trời đất thì mới phong đăng hoà cố:

Ơn Trời mưa nắng phải thì,
Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu.
Công lênh chẳng quản dài lâu,
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng.

Ðặc biệt hơn, nông phu luôn luôn cầu khẩn ơn Trời:

Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống,
Lấy ruộng tôi cày, lấy đầ bát cơm.

Họ đặt hết niềm tin ở Cha Trời. Những lời tục ngữ chính là những lời kinh chân thành ;

Trời sinh Trời chẳng phụ nào….
Trời sinh Trời dưỡng….
Trời sinh voi Trời sinh cỏ…..
Trời nào có phụ ai đâu ?…..
ơn Trời mưa gió thuận hoà….
Quyền cao chức trọng Trời cho….
ơn Trời phù hộ ngày đêm…

Phải nói rằng đạo sống Nông Nghiệp là đạo sống hoà hợp với Trời đất và vũ trụ thiên nhiên. Con người sống an vui với Trời đất và muôn loài.

Ðây là một thứ đạo thiên nhiên: Thiên cao địa hậu nhân hiền hay Thiên phú Ðịa tái Nhân an. Xã hội nông nghiệp an nhiên thư thái, dân gian đều có phần ruộng để canh tác, có vườn rau ao cá, vườn cây hoa trái bốn mùa, ấm no ngọt bùi cùng chia sẻ, khi hoạn nạn cùng nhau tương
trợ. Quanh năm hai mùa làm ruộng, có tháng làm lụng vất vả, có tháng vui chơi hội hè. Lễ chùa, lễ nhà thờ đông vui sầm uất. Hội làng hội nước nô nức giao hoà. Con người bình sản không quá giầu mà cũng không quá nghèo, đôi khi tới mức giầu sang phú túc. Không tranh giành không áp đảo cũng không kèn cựa nhau. Ðể thêm màu sắc dân sinh, có người dư giả lại buôn bán đó đây; người khác nảy tài đi vào công nghiệp, tuy nhiên cũng là tiểu công, để tô điểm cho đời sống thôn xóm gia đình thêm ấm áp đẹp màu. Tứ dân: sĩ nông công thương luôn luôn hoà hợp. Tuy nhiên là một dân tộc hiếu học, vì đời sống nông nghiệp bình dân rất trọng
Kẻ Sĩ. Kẻ Sĩ trong làng nắm giữ những công việc hành chánh, giao dịch, lo cho dân trí và dân đức. Giáo dục và đạo nghĩa vì đó cũng thêm phần sùng mộ cao thâm và phát triển.

II- trống đồng việt tộc

Theo truyền thyết, vua Hùng Vùng trước khi phân tán anh em đi khắp bờ cõi, để cai quản đại tộc, đã truyền đúc 1600 trống đồng để làm tích tộc và điển chương thống nhất cho Việt tộc (*). Trên các trống đồng ấy, có ghi khắc tất cả đạo sống vủa Việt tộc theo truyền thống, để con dân muôn đời noi theo những điển lệ, tập tục và hiến chương của Văn Lang (Việt tộc) là “văn hoá chi bang”, như Hán tộc đã xưng tặng.

(*) Tại Âu Châu, nhiều nhà khảo cổ đã biết đến trống đồng Việt Nam từ năm 1682, nhưng mãi taới thế kỷ 19, Hirth (1890) mới khảo sát trống đồng, cho rằng phát xuất từ Hán tộc. Năm 1901 De Grooth cho cho là xuất xứ của trống đồng do Việt tộc. Năm 1902, Franz Heger lại xác nhận: trống đồng là sản phẩm của Việt tộc (Kim Định: Sứ điệp Trống Ðồng. San Jose: Thanh Niên quốc gia, 1984, trang 19).

1. lịch sử trống đồng

Thực ra từ đời sơ nguyên, Việt tộc có nhiều loại trống: về chất loại, có trống đất, trống gỗ, trống đồng. Về công dụng, có trống cầu mưa, trống trống sấm, trống trận trận, trống cầm canh v.v…Theo truyền thuyết như nói trên, Hùng Vương trao ban 1600 trống đồng cho mọi chi tộc(*), làm căn bản trị quốc. Nhưng theo chính sử, năm 43, Mã Viện sang đánh Trưng Vương, đã ra lệnh thu tập hết trống đồng về Trung quốc, tặng bạn bè thân hữu, hoặc phá ra lấy đồng đúc tượng ngựa mẫu.

(*) Theo tài liệu bài thuyết trình của học giả Ðào Mộng Nam, đầu đề Thơ và Ðạo, đọc tại Hội thảo Văn Hoá, Lịch Sử Việt Nam kỳ 16. (Ðào Mộng Nam: Khúc hát dâng tình. Orange, CA: Lời Vàng, 1990)

Theo sử gia Nguyễn Khắc Ngữ, các loại trống đồng tìm được ở rất nhiều nơi, từ Tứ Xuyên, Quế Châu, Quảng Tây, Qủng Ðông cho tới Ai Lao, Cao Mên, Miến Ðiện, Tái Lan, Mã Lai v.v. Riệng tại Việt Nam, ở Ðông Sơn, Thanh Hoá đào được 24 trống; tại Hà Ðông 9 trống; tại Bắc Ninh 3 trống; tại Cao Bằng 3 trống; tại Hà Nam, Hà Nội, Hoà Bình, Kiến An, mỗi nơi 2 trống; tại Nam Ðịnh, Lao Kay, Sơn Tây, Yên Bái,Hải Dương, Nghệ An, Thủ Dầu Một, Kontum, mỗi nơi 1 trống. Cộng tất cả là 55 trống đồng(*).

(*) Nguyễn Khắc Ngũ: Mỹ thuật cổ truyền Việt Nam. Montréal: Tủ sách nghiên cứu Sử Ðịa, 1981.

Trong thập niên 1885-95, nhân đô hộ Pháp mới thấy giá trị lịch sử của trống đồng Việt Nam, nên cho lệnh đi thu lượm trống đồng khắp nơi… Moulié chuộc được trống đồng của gia đình vọng tộc người Mường ở miên sông Ðà, Hoà Bình; trống này được trưng bày ở Hội Chợ quốc tế Paris, sau để trong bảo tàng viện Guimet. Tiếp theo là 2 trống đồng Khai Hoá do Gillet tìm được ở nhà tù trưởng Miêu tộc tại Vân Nam, cũng trưng bày tại Paris và lưu giữ tại Bảo tàng viện Vienne, dưới chủ quyền của Ðức quốc. Trống thứ ba là trống đồng Ngọc Lũ, tìm được ở chùa Long Ðại sơn, làng Ngọc Lũ, Hà Nam. Trống này được lưu trữ tại trường Viễn Ðông Bác Cổ Hà Nội(*). Trống thứ 4 là cặp trống Hoàng Hạ, tìm được năm 1932 tại làng Hoàng Hạ, Hà Ðông, được lưu giữ tại bảo tàng viện Finot, Hà Nội. Nhưng tiêu biểu nhất và đẹp nhất là trống đồng Ngọc Lũ, Hà Nam, tìm được năm 1901.

(*) Nguyễn Khắc Ngữ: Sách dẫn trên, trang 38.

Ở đây chúng tôi trình bày những nét đặc trưng của truyền thống Việt tộc qua trống đồng Ngọc Lũ. Trống này cao 0,63m; đường kính rộng 0,86m, được trang trí bằng các hình vẽ chạm sâu xuống cả trên mặt trống lẫn tang trống.

Bây giờ chúng ta hãy đọc tất cả ý nghĩa truyền thống, mà Ðức Hùng vương đã loan truyền cho con dân ngàn đời để dựng Nước, giữ Nước và bảo vệ, mở rộng bờ cõi Nước Việt.

2. hồn nước trên mặt trống đồng

Hồn Nước đây bao hàm tất cả ý nghĩa các yếu tố lập quốc, bảo quốc và hưng quốc. Ðây là truyền thống Việt triết, đạo thống, quốc hồn, quốc tính và quốc túy. Các yếu tố đó là Ánh Sáng và Âm Thanh, Việt Ðiều, Hướng đi tả nhậm, Ðạo Sống: Tam Tài, Âm Dương, Nông nghiệp và Thái Hoà qua các hình vẽ trên mặt trống.

Chính giữa mặt trống là hình ngôi sao 14 cánh, chỉ Mặt Trời sáng. Chung quanh ngôi sao có 16 vòng đồng tâm, trang trí bằng những hình kỷ hà hay hình vẽ khác nhau. Giữa vòng thứ 5 và thứ 6, có hình 2 căn nhà mái cong, có sàn; trong có người tóc dài ngồi. Trước nhà là 4 dàn
trống và đoàn ca vũ đang nhảy múa, có khèn đệm. Sau nhà có 2 người đang giã gạo.

Xen kẽ với hai 2 nhà sàn trên là 2 nhà sàn mái tròn, trong có người cầm kiếm; trước nhà có một người tay phải cầm kiếm, tay trái cầm con chim; sau nhà có 1 đoàn võ sĩ cầm lao, cầm kiếm đang múa nhả.

Giữa vòng thứ 7 và thứ 8 có hình 2 đàn hươu (10 con mỗi đàn) xen kẽ có 2 đàn chim đang bay (mỗi đàn 8 con). Giữa vòng thứ 8 và vòng thứ 9 khắc 18 con chim mỏ dài đang bay, xen kẽ với 18 con khác đang đậu dưới đất.

Trên tang trống, có khắc hình thuyền, trên có những người cầm lao kiếm, như đang chuẩn bị chiến đấu, hoặc múa nhảy, hoặc chèo thuyền. Trên hông đứng thẳng, có những đường trang trí kỷ hà đứng thẳng hay nằm ngang, đóng khung lấy những người cầm rìu và lá chắn.

Hình mặt trời

– Mặt Trời ứng với quốc hiệu Xích Quỷ. Xích là lửa đỏ, chỉ mặt Trời, là ánh sáng. Khởi đầu đời sống con người là âm thanh; âm thanh chính là hơi thở là truyền thông. Việt tộc truyền thông bằng âm thanh, Hán tộc truyền thông bằng văn tự. Âm thnnh trung thành và có sức giao
hội hơn văn tự. Ðường ta đi khởi từ âm thanh, tiến lên ánh sáng thái hoà, tức Ông Trời hay Tạo Hoá. Hán tộc dùng hình tượng, vẫn còn câu nệ vào văn tự, khó siêu thăng. Con người Việt tộc, vì thế dễ bề tiến lên ánh sáng là cõi Minh Ðức Minh Thành, do Trời tác động. Quỷ có nghĩa là một ngôi sao trong nhị thập bát tú, cũng chỉ ánh sáng, một thứ ánh sáng hùng mạnh vượt lên trên hêt, là Ánh Sáng của Trời đất, chính là Tạo Hoá hay Ông Trời. Ðây là triết lý lập quốc của người Việt.

Vật biểu chim

– Chim đủ cỡ lớn nhỏ, ở trong 3 vòng trang trí. Theo truyền thống Việt, chim luôn luôn đi theo người. Vòng ngoài cùng có 18 đôi chim, vòng giữa có chim và nai, vòng trong chim lẫn với người, đặc biệt có người mặc lốt chim. Như vậy ta thấy người và chim đắp đổi nhau. Sư thực này cho biết thủa ban đầu, vật biểu của Việt tộc là Chim, sau này tới đời Hùng Vương, Chim đi với Tiên, ta thường gọi là Tổ Tiên.(*)

(*) Kim Định: Sứ điệp Trống Ðồng. San Jose: Thanh Niên Quốc Gia, 1984, trang 48: Ta quen nói Tổ

Tiên, lâu ngày quên đi rằng tổ là nhà của chim; nói Tổ Tiên cũng như nói tiên chim vậy.

Sau này nước Văn Lang nhớ Cha Lạc Long, mới đổ sang Long Tiên hay Rồng Tiên. Từ đó vật biểu của Việt là Rồng. Theo huyền sử, Chim được xuất hiện từ đầu với chim Hồng, tức ngỗng trời hay thiên nga, trong đại danh Hồng Bàng . Bàng có nghĩa là mái nhà của Rồng , vẫn quy về
nghĩa Chim Rồng hay Tiên Rồng. Các tổ mẫu của Việt tộc cũng là hình ảnh Chim. Âu Cơ là hiên thân chim Hải Âu. Vụ Tiên là hiện thân của Vịt trời (Vụ là vịt). Ðặc biệt hơn nữa: Âu Cơ sinh con theo lối chim là đẻ trứng. Ðây cũng là huyền ý. Nếu hiểu theo thường ý, thì chỉ là truyện dị đoan buồn cười.

Như thế Chim trên mặt trống nói lên sự xuất sinh của Việt tộc. Ðồng thời mang ý nghĩa cao bay, thảnh thơi và tung tăng ca hót. Cao bay chỉ sự thăng tiến; thảnh thơi của đời sống thanh thoát; tung tăng chỉ cuộc sống linh hoạt; ca hót chỉ nhịp sống an vui. Tuy nhiên con người vẫn là chủ nhân ông trên mặt trống đồng, để xác định quan niệm nhân bản của Việt tộc.

Tả nhậm

– Ðời xưa Hán tộc thường gọi Việt tộc và Di Ðịch là Tả Nhậm (cài khuy áo bên tả), có vẻ khinh khi. Nhưng truyền thống này, theo ý nghĩa Triết Việt lại là một điểm siêu việt, vì tả nhậm là theo hướng mặt trời: đi từ bên phải sang bên trái, ngược chiều vớ hướng kim đồng hồ. Còn hữu nhậm đi từ bên trái sang bên phải theo hướng kim đồng hồ. Nếu đứng quay về phía Bắc, ta thấy mặt trời đi từ phía Ðông (hữu) sang Tây (tả).

Trên mặt trống đồng, ta thấy người và
vật đều tiến theo hướng ngược kim đồng hồ, tức là tả nhậm hay tả hành.

Hình tả hành và hữu hành

Như vậy tả nhậm chỉ hướng Trời trái với hữu nhậm chỉ hướng Ðât. Ý nghĩa triết lý sống là đi theo Trời và sống theo Trời. Ðây cũng là Nhân đạ theo Thiên Ðạo, đúng với ý nghĩa “Thiên nhân tương dữ” hay “Thiên nhân hiệp nhất”. Lý thuyết này đã hình thành khoa Thần bí Học của Việt tộc, và cũng là căn bản cho chủ thuyết Thiên lý và Thiên Mệnh. để rồi đi tới cuộc trao đổi quân bình Thiên địa nhân hoà đồng. Lý thuyết này dẫn tới cuộc sống của Ðại Ngã Tâm Linh. Khi đạo Trời đã vững, thì đạo Ðất nay sinh điều hoà, có nghĩa là “xây dựng vật chất trên căn bản tinh thần”. Tinh thần trở thành căn cơ nội tại và vật chất thể hiện tự nhiên bên ngoài. Do vậy Việt tộc thường nói Ðất hay Âm trước Trời hay Dưong, như Âm Dương, Vợ Chồng, Nhà Nước, đêm ngày v.v.

Tam tài đạo

– Nhận xét chung, người ta thấy Mặt
trống tượng trưng cho Trời; tang trống tượng trưng cho Người và đáy trống tượng
trưng cho Ðất. Cả ba yếu tố hoà hợp, tạo nên ba đạo lớn: Thiên Ðạo, Nhân đạo và
Ðịa đạo. Ba đạo ấy được thể hiện trong ba ý nghĩa: Thiên sinh, Ðịa dưỡng, Nhân hoà.

Thiên Sinh có nghĩa là Trời mở đầu cuộc sống. Trên mặt trống ta thấy hình Mặt Trời sáng láng. Con người khởi đầu thờ Mặt Trời. Mặt Trời là biểu tượng của ánh sáng và sự sống, dần dần truy nguyên, người ta khám phá ra bàn tay Tạo Hoá tạo dựng nên Mặt Trời, Mặt Trăng và tinh tú và muôn vật, để đi tới chỗ nhận biết Trời, thờ Trời, Ông Trời hay Tạo Hoá.

Ðịa dưỡng có ý nói về đời sống vật
chất. Thiên là Ðấng Tạo Hoá, thì Ðịa theo chiều hướng của Thiên, là mẹ của vật
chất nuôi dưỡng chúng nhân và sinh vật. Vật chất đầy đủ, thì tinh thần dễ phát
hiện. Tuy nhiên vật chất thiếu tinh thần sẽ mất hồn sống, không sự sinh hoá. Vì
thế nguồn mạch của sinh hoá là Thiên địa song hành, thiên địa tương giao làm
thành sự sống và dưỡng sinh, như một thứ Ðại Ngã Tâm Linh.

Nhân hoà chỉ là Tiểu Ngã trong Ðại Ngã
Tâm Linh, như kiểu Atman ở trong Brahman vậy. Vì thế Nhân phải hoà với Thiên và
Ðịa cũng như Vạn Vật, để gây nên nhịp sống Thái Hoà trong trời đất và trong
nhân sinh. Trên mặt trống ta thấy con người là chủ động dưới ánh sáng của Trời
và trên cuộc sống an cư lập nghiệp của Ðất, tạo thành một đời sống nông nghiệp
thanh thản an bình và siêu thoát.

Ðây là thứ triết lý sống rât tự nhiên
và siêu nhiên: sống trong ánh sáng và âm thanh của những điệu vũ có uy lực nội
tại là Niềm Vui hoà hợp với ngoại cảnh đẹp màu và thú vị.

Đời sống nông nghiệp

– Ðời sống nông nghiệp được mô tả qua
những cảnh chim bay, giã gạo, săn bắn và ca vũ. Chim bay trên con người, chim
bên cạnh người và chim dưới chân con người, reo vui ca hót cuộc sống thiên
nhiên của con người. Giã gạo và Gạo đưọc coi như tinh túy và tinh hoa của nông
nghiệp. Chính vì thế chữ Việt cổ xưa viết với bộ Mễ là Gạo. Ca vũ là đời sống
ấm no vui vẻ, sau những ngày làm lụng vất vả. Toàn dân hội hè đình đám trong
các dịp Thượng điền, Khai hạ, ngày mùa, Cơm mới, để nói lên niềm vui An cư Lạc
nghiệp. Săn bắn tượng trưng bằng cảnh dương cung. Con người là Nhân Hoàng có
quyền trên muôn vật, có quyền ăn ngon mặc đẹp. Chỉ ăn no mặc ấm mà thôi mới là
tối thiểu. Con người tiến bộ cũng cần ăn ngon mặc đẹp cho xứng địa vụ cao quý
hơn muôn vật.

hình giã gạo và dương cung.

Song trùng âm dương

– Âm Dương là hai yếu tố căn cơ của muôn vật và con người. Âm Dương biểu hiện ra qua Mặt Trăng Mặt Trơi, Tói Sáng, Tiên Long, Nam Nữ, Non Sông, Vuông tròn, Cong thẳng, Người vật, Buồn vui, bộ số hai ba hay vài ba. Những nét song trùng (nghĩa là hai nét son song mà lại trùng nhau) cũng gọi là Giao chỉ (hai chân giao nhau) nói lên sự đắp đổi giữa hai yếu tố khác biệt nhau, mà lại tương hoà tương giao. Như vậy lại tạo nên sự quân bình, để đi tới Nhất quán là hậu quả của Nhất nguyên.

hình giao chỉ, song trùng, âm dương…

* Giao chỉ nghĩa là hai ngón chân cái giao nhau, như tục lệ nam nữ hát đối đáp, khi giao chân giao tay, gọi là “cài hoa kết hoa”, như thấy trên mặt trống đồng.

Ðây là dòng triết lý thực tiễn của Việt
tộc. Qua đó phát sinh những Ðức tính: giao hoà, đoàn kết và tương liên. Tiên
Long kết hợp, sinh một trăm con, kẻ núi ngàn, người sông biển, mà vẫn giao
thông với nhau, khi hữu sự, thì kêu gọi nhau, không hề từ bỏ nhau. Tục ngữ ca
dao sau này cũng nói lên tinh thần giao hoà đó:

Khôn ngoan đá đáp người ngoài,
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.
Hay:
Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.

Hiến chương này được hội nghị Diên Hồng (1284) nắm giữ và phát huy thành Dân đạo: Dân tộc đại đoàn kết. Nhờ vậy bao lần trong lịch sử lập quốc và bảo quốc, dân Việt đã lấy “nhu thắng cương” và “tiểu thắng đại” hay “thiểu số thắng đa số”. Những cảnh phân hoá ngày nay tại quốc nội cũng như hải ngoại là những hiện tượng “xuất não” do ảnh hưởng “bắc thuộc”, thực dân và cộng sản gây ra. Ðúng là những tai nạn trên đường chính trị mà thôi. Ðã là tai nạn, thì sớm muộn gì cũng qua đi.

kiến trúc mái nhà cong

– Truyền thống văn hoá Viễn Ðông phát khởi do Bách Việt (trong đó có Việt Nam) trước Hán tộc. Dựa vào công cuộc khảo cổ ở chính Trung Hoa, Việt Nam, Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương , Phi Luật Tân, các nhà khảo cổ đã chứng minh rằng: Tổ Tiên những người Ðông Nam A đã biết trồng cây, đẽo đá làm đồ dùng, lấy đất sét làm đồ gốm trước người Trung Hoa, Ấn Ðộ và Cận Ðông nhiều nghìn năm. (*)

(*) Wilheim G. Solheim II: National Geographic, “New light on a forgotten past”, Vol 139, no March 03, 1971, p. 331.

Sách Lĩnh Nam Chích Quái viết:

” Nước Văn Lang Ðông giáp Nam Hải, Tây tới Ba Thục, Bắc giáp Ðộng Ðình Hồ, Nam giáp Hồ Tôn.(*)

(*) Vũ Quỳnh & Kiều Phú: Lĩnh Nam chích quái, Lê Hữu Mục dịch. Hà Nội: 1960, trang 37.

Do vậy những đồ đào được tại Trung quốc cũng thuộc vùng Việt tộc. Theo sử quan Trống Ðồng Việt Nam, kiến trúc mái nhà cong của ta đã có trước công nguyên ít gì cũng hàng ngàn năm. Trên mặt trống đồng Ðông Sơn và Ngọc Lũ có khắc hình Mái Nhà Cong.

hai mẫu mái nhà cong.

Trung Hoa chỉ có mái cong từ thời nhà Ðường, khoảng năm 630. Chính Ðường Huyền Trang, Pháp danh Ðường Tam Tạng, sau khi thỉnh Kinh ở Ấn Ðộ về, được vua Ðường Cao Tông cho xử dụng Ngọc Hoa Cung làm chùa. Huyền Trang sửa lại cung thành chùa cũng theo kiến trúc mái thẳng, chưa có mái cong. Trước đó năm 539 nhà Hán tu bổ miếu thờ Khổng Tử, vẫn còn mái thẳng, như nhà Kim Thanh Ngọc Chấn, Ðạo Quan Kim Cổ. (*)

(*) Từ điển Từ Hải: Huyền Trang. Taiwan: 1948, trang 883.
Ðường Thích Huệ: Tam Tạng Pháp Sư truyện. Taiwan: Quảng văn thư lục, 1963, trg 6-7. Trần Hoà Nghị: Khổng Tử du tung. Hồng Kông: Vạn lý thư điếm, 1987, trg 20.

Nhật Bản có tháp chùa cổ nhất là tháp Chùa Nhạc Sư có mái cong rất đẹp, được kiến tạo năm 730, tại Nara. Cũng tại đây, Pháp Long Tự có mái cong cũng từ thế kỷ 8.(*)

(*) Nhật Bản Mỹ Thuật tự điển. Tokyo: Giác xuyên thư điếm, ed. 6, 1988, trg 131+160

Mái cong của Việt tộc tượng trưng cho sự vươn lên, hướng thượng, lên tới Thiên; đồng thời cũng là nét hài hoà giữa đường thẳng và vuông, để tạo nên một sự cân đối giữa vuông tròn, là đường đi tới đạo sống toàn diện: bao quát trên dưới, trong ngoài, tả hữu và ba bề bốn bên cho quán thông phổ cập.

Chúng tôi chỉ trình bày những điểm bật
nổi của trống đồng, hầu khai triển những nét văn hoá truyền thống của Việt Nam,
bắt nguồn từ Bách Việt. Những nét truyền thống này là hồn sống và di sản của
văn hoá Việt Nam.

Kết luận

Những dòng truyền thống trên đã phát sinh nguồn triết lý cao siêu và đạo sống rất hồn hậu của Việt tộc. Trong đó Việt Nam đã thâu hội những tinh hoa để làm thành căn tính của mình suốt mấy ngàn năm lịch sử. Một dân tộc chỉ sống còn và sống mạnh khi nào có một triết lý sống thực sự và vững vàng. Dân tộc đã kinh qua từ Bách Việt, Việt tộc đến Việt Nam, và tồn tại đến ngày nay là nhờ những dòng triết lý sống thực đó. Những dòng triết lý này thể hiện nơi đạo sống. Ðạo sống từ ngàn xưa của dân tộc Việt đã biểu lộ qua nhiều hình thái. Những lúc bình an thư thái, đạo sống tâm linh bừng lên sung mãn. Những lúc bế tắc ngưng đọng, đạo sống tự cường vẫn âm thầm hồn hậu, để tìm đường phục khởi. Trong cuộc sống dân gian, trước mọi hoàn cảnh thăng trầm, người Việt cùng kết hợp trong tinh thần tương thân tương ái và tương trợ qua đạo sống thái hoà. Gặp lúc cuồng phong nổi dậy, đời người nghiêng lệch đổ vỡ, đạo sống quân bình sẽ lập lại trật tự. Có khi nhân sinh phiếm lạm khiếm khuyết, đạo sống toàn diện sẽ là liều thuốc san bằng đắp đổi.

– Ðạo sống tâm linh – Người Việt tự ý thức mình là con cháu Rồng Tiên, có một sinh hệ thần linh, nên lúc nào cũng đinh ninh rằng căn bản của mình là linh thiêng cốt cán. Cho dù lận lội chốn đa mang vật chất, họ vẫn cố vùng lên trong bản tính siêu linh, mà ta gọi là Nhân bản tâm linh. Ðạo nghĩa chính là hương vị, màu sắc của đạo thờ Trời Ðất và ông Bà Tổ Tiên trong ý nghĩa chu toàn nhân đạo:

Dù ai nói ngược nói xuôi,
Ta đây vốn giữ đạo Trời khăng khăng.
Dù ai chác lợi mua danh,
Miễn ta, ta được đạo lành thì thôi
(Ca dao).

Ðạo sống này đem lại cho đời sống một sự bình an trong tay an bài của Cha Trời và trong màu mỡ sung túc của mẹ Ðất.

Ðạo sống tự cường

– Tự cường đây có nghĩa là vươn lên và quật khởi. Vì là con Trời và là Vua mặt đất, đúng với nghĩa Nhân Hoàng, con người sống theo chí khí tự cường. Cuộc đời dù trắc trở tới đâu, con người Việt, trong khí thế Rồng Tiên luôn luôn tự cường để sống còn và sống mạnh. Trong suốt mấy ngàn năm lịch sử cha ông họ đã quật khởi trước những sức mạnh cản đường tiến thủ. Họ vùng dậy sau 1000 đô hộ Hán tộc. Họ quật khởi sau 100 năm đo hộ Pháp. Họ thoát ly sau 30 năm bị ràng buộc bởi vòng xích sắt của cộng sản đề bước vào quỹ đạo thế giới, hầu tìm đường phục hồi cho đồng bào bị đày ải dưới bàn tay sắt hung tàn, để vùng dậy, ý chí hùng cường chính là khí giới của một dân tộc khổ đau, chịu đựng và kiên gan bền chí.

Ðạo sống thái hoà

– Chính nhờ tình người rộng lớn của “Trăm Con” cùng kết đoàn, tương thân tương ái, để giữ bầu không khí đại hoà, mà dân Việt kinh qua biết bao khắc nghiệt của cuộc sống, mà tồn tại đến ngày nay. Hoà hợp trong gia đình trong làng nước và trong tứ hải, mà anh chị em con Rồng cháu Tiên vẫn sống an hoà bao dung. Ðôi khi không thể tránh được những va động vì tự ái tự kỷ, nhưng rồi “chín bỏ làm mười”, vẫn hoà giải và tương giao. Lời Kinh dân tộc vẫn còn được tụng niệm cách hữu hiệu:

Khôn ngoan đá đáp người ngoài,
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau
(Ca dao)

Tình người bắt nguồn từ trong nhà, lại thân trương ra ngoài xã hội:

Nay mừng tứ hải đồng xuân,
Tam dương khai thái,
muôn dân hoà bình.
(Ca dao).

Ðạo sống quân bình

– Con người Việt Nam trong chế độ kìm kẹp tại quốc nội và nơi hải ngoại lệch lạc ngày nay thường bị phân tán nghiêng lệch vì kiếp sống đa đoan phức tạp. Chỉ có đạo sống quân bình của cha ông mới có thể giúp họ lấy lại cán cân thăng bằng cho cuộc sống… Thăng bằng giữa tự do và áp bức, thăng bằng giữa vật chất và tinh thần, thăng bằng giữa lao công và hưởng thụ, thăng bằng giữa tình cảm và lý trí. Bởi vì con người là một thực thể tuy nhị nguyên mà nhất quán, song hành mà nhất tri, nên cần đắp đổi bao dung để giữ thế quân bình. Có quân bình mới an cư, có an cư mới lạc nghiệp. “Duy, chủ” cũng không được, mà tứ tán cũng không an. Quân bình với dân ta là đắp đổi hai bên, là nhịp nhàng đáp ứng. Một Trạng Trình an nhiên tự tại, một Nguyễn Công Trứ “tri hành hợp nhất”, một Nguyễn Du “hiếu trọng tình thâm’ là những hình ảnh đẹp màu của đời sống quân bình vậy.

Ðạo sống toàn diện

– Trong cuộc sống phức tạp ngày nay, con người dễ đi vào phiến diện: được cái này mất cái kia. Nhưng triết lý Tam Tài sẽ giúp con người đền đáp toàn diện cho cả Thiên Ðịa, hình ảnh của tinh thần và vật chất. Triết lý Âm Dương sẽ giữ cho nhịp sống được chu toàn, triết lý nông nghiệp sẽ giúp đời sống an vui, trên đó có thể xây dựng hạnh phúc tâm linh. Ðời sống toàn diện chính là đời sống dung hoà cả trên dưới và ba bề bốn bên. Không bỏ mất một phía nào, mà mỗi khía cạnh, mỗi công việc đều quán xuyến chu toàn. Các nhà Nho hiển đạt ngày xưa như Trần Hưng Ðạo, Nguyễn Trãi, Lê Quý Ðôn, Nguyễn Quỳnh là những quân tử đã đạt đạo sống toàn diện tròn đầy. Những người trẻ ngày nay thành tựu trong nhiều lãnh vực: sĩ kiêm bách nghệ, có đầu óc phổ
biến chu tri cũng chính là những hình ảnh của Toàn Diện.

Những dòng truyền thống lập thành những đạo sống trên đây đã minh chứng hiển nhiên cho một nền Thần Học Nhân Bản của người Việt hôm qua hôm nay và ngàn đời. Bây giờ đây ta mới có đủ dữ kiện để trả lời câu hỏi của lịch sử: Tại sao người Việt lại dễ đón nhận Kytô giáo một cách dễ dàng như vậy ? – Chính là nhờ tinh thần đạo ông Bà đã sẵn có một nền Thần Học nhân bản tâm linh: Thiên nhân tuơng dữ.