Giáo Hội trên con đường rao giảng Tin Mừng luôn luôn muốn thích nghi văn hoá của các dân tộc. Trong lịch sử Truyền Giáo, kinh nghiệm của vụ án Nghi Lễ Trung Hoa đã là một bài học cân não không bao giờ quên được. (*)
(*) Các linh mục Dòng Tên (Jesuits) tiêu biểu là Cha Mateo Ricci (1552-1610) đến Trung Hoa, thích nghi ngay từ ban đầu với văn hoá Hán tộc: ăn mặc đúng kiểu người Tàu, giữ lễ người Hoa, nói năng theo từ ngử người Hoa, tôn trọng nghi thức Tôn Kính Tổ Tiên và Ðức Khổng Tử. Nhờ vậy sau này Vua Khang Hy (1661-1722) chấp nhận cho giảng đạo. Chính nhà Vua đã thủ bút viết hai chữ Hán đại tự KINH THIÊN treo trước cửa chính nhà thờ chính toà Bắc Kinh. Các cha dòng Ðaminh và Phanxicô không chấp nhận, đua nội vụ trình Tòa Thánh. Ðức Giáo Hoàng Clementê XI ra tông huấn Ex Illa die (từ ngày đó) ngày 19 tháng 3, 1715 dứt khoát phủ nhận nghi lễ Trung Hoa. Vua Khang Hy coi đó như một hành động nhục mạ quốc thể Trung Hoa, ra lệnh trục xuất các thừa sai, triệt hạ các thánh đường và cấm người Trung Hoa theo đạo Thiên Chúa. Vụ án kéo dài hơn 200 năm, mãi tới năm 1939 Ðức Piô XI mới ra tông thư Plane Compertum (hiểu biết trọn vẹn) giải toả lệnh cấm từ thời Ðức Giáo Hoàng Clementê XI.
Tại Á Châu năm 1965 các hội đồng Gíám Mục Á Châu nhóm họp tại Philippines đã đặt vấn đề: Phải trở về truyền thống Á Châu. Sau Hội nghị, các Tổng Giám Mục và Giám Mục các nước Ðông Nam Á bắt đầu gửi các sinh viên du học các nước Ấn Ðộ, Ðài Loan và Nhật Bản, để thâu hội truyền thống Á Châu. (*)
(*) Tại Việt Nam Ðức Tổng Giám Mục Saigon đề nghị linh mục Vũ Ðình Trác đi Ðài Loan; Đức Giám Mục Nha Trang trạch cử linh mục Trịnh Thế Hùng; sau đó Tu hội St Sulpice Vĩnh Long cử linh mục Nguyễn Chí Thiết và Quebec , Canada cử cha Vũ dư Khánh, tất cả đều tu học tại đại học Fujen của Ðức Hồng Y Yupin, riêng cha Vũ Dư Khánh học tại đại học Ðài Loan. Dòng Tên sai linh mục Hoàng Sĩ Quý học Ấn Ðộ Giáo tại đại học Sorbone. Dòng Ðaminh sai cha Thiện Cẩm nghiên cứu Phật Giáo tại Sorbone, Paris.
Sau đó vấn đề Thần Học Á Châu xuất hiện với các thần học gia: – Tổng Giám Mục Stanislas Lokuang: Triết lý thực tiễn, trình bày Thiên Chúa Giáo theo chứng từ Khổng giáo và Lão giáo. Taipei: Học sinh thư cục, 1970. Tái bản năm 1981 và 1991 nhan đề sách đổi thành Sĩ Lâm triết học – Thực tiễn thiên. – Kosake Koyama: Water buffalo Theology, nói lên đạo sống thiên nhiên của Zen và nông nghiệp. New York: Maryknoll, 1974. – Choan Seng Song: Christian Mission in Reconstruction an Asian Analysis, chủ trương Thần học quân bình đời sống con người Trung Hoa. Madras: Maryknoll, 1977. – Tissa Balasuriya: “Towards the Liberation of Theology in Asia” trong Virginia Fabella: Asia’s Struggle for Full Humanity: towards a Relevant Theology. Tissa viết theo chứng từ “giải thoát” của Phật Giáo Tích Lan. New York: Maryknoll, 1980. – Jung Young Lee: Minjung Theology: People as the subjects of History. Thần học bình dân hay tiện dân của Hàn Quốc. New York: Maryknoll, 1983. – Moon Hee Suk: Minjung Theology: an old Testament Perspective, Thần học tiên dân của Hàn Quốc. New York: Maryknoll, 1985. – Choan Seng Song: Theology from he womb of Asia, chủ trương Thần học quân bình qua đời sống con người. New York: Maryknoll, 1986. – Virginia Fabella và Sun Ai Lee Park: We dare to Dream. Doing Theology as Asian Women, bênh vực quyền lợi phụ nữ Á Châu qua thần học Kytô giáo. Hong Kong: 1989
Như vậy, ba nước Viễn Ðông: Trung Hoa, Nhật Bổn, Hàn quốc, và nước Tích Lan đã khởi đầu những dòng Thần Học theo truyền thống của họ, còn Việt Nam, một “văn hoá chi bang”, cũng không thể thiếu một dòng Thần học truyền thống của Việt tộc, phù hợp với Thần học Kytô giáo, mà ta mệnh danh là Thần Học Việt Nam. Trong đạo trường chung này, chúng ta cùng bắt tay nhau khởi thảo Thần học Việt Nam. Nói đến vấn đề trọng đại này, chúng ta khởi đầu bằng truyền thống tư tưởng Việt tộc. Chúng tôi long trọng tuyên cáo: chúng ta còn hai ẩn lộ có thể trở về nguồn. Ðó là Tập tài liệu cổ bằng Nho văn: Bách Việt Tiên Hiền Chí vâ Trống Ðồng Việt tộc.
I- Cổ thư Bách Việt tiên hiền chí
1. đôi dòng sử sách
Bách việt tiên hiền chí là tập sách quý trích trong đại bộ Lĩnh Nam di thư của Trung Hoa. Ðây là tài liệu ruột cho các nhà khảo cổ và nhân chủng học, cũng như cho các nhà Văn Hoá Việt Học đang xây dựng cho Việt Nho Việt Triết. Chúng tôi long trọng giới thiệu: chúng ta còn đường đi và những chứng tích linh động của tư tưởng Bách Việt hay Việt Tộc qua tập tài liệu qúy giá này.
Bách Việt Tiên Hiền chí do Âu Ðại Nhậm , tự Trịnh Bá, đời Minh tuyển soạn. Sách bao gồm 102 Hiền Triết Bách Việt: Âu Trị Tử, Trù Vô Sư, Âu Dương, Kế Nhi, Phạm Lãi, Tiết Chúc, Trần Âm, Chư Kê Dĩnh, Cao Cố, Sử Lộc, Mai quyên, Công Sư Ngung, Trương Mãi, Trịnh Nghiêm, Ðiền Giáp, Hà Di, Tất Thủ, Nghiêm Trợ, Chu Mãi Thần, Ðặng Mật, Tôn Miêu, Ngô Bá, Trịnh Cát, Hà Ðan, Mai Phúc, Nghiêm Quang, Trần Nguyên, Vương Sung, Bao Hàm, Dương Phù Trương Trọng , Dương Phấn, Ðặng Thịnh, Chung Ly ý, Hứa Kinh, Kỳ Mẫu Tuấn, Chiêu Mãnh, Trần Lâm, Trầm Phong, Cố Phùng, Công Tôn Tùng, Trịnh Hoành, Trần Hiêu, Thái Luân, Lý Tiến, Long Khâu Tường, Từ Hủ, Ðạm Ðài, Kính Bá, Lưu yến, Mạnh Thường, Hoàng Xương, Bành Tu, Nguyễn Lang, Từ Trung, Trương Vũ, Thân Sóc, Lục Tục, Ðường Trân, Ðới Tựu, Chu Tuấn, Tạ Di Ngô, Hạ Thuần, Ðổng Chính, Sơ Nguyên, Triệu Trường, Quân Vi Thuyết, La Uy, Ðường Tụng, Ðốn Kỳ, Ðinh Mật, Nhan ô, Phí Phiếm, Từ Trĩ, Quách Thương, Diêu Tuấn, Ðổng Phụng, Ngu quốc, Ðổng Ăm, Hoành Hào, Ðinh Mậu, Y Nha, Từ Ðăng, Thịnh Hiến, Trầm Du, Diêu Văn Thức, Ngô Nương, Hoành Nghị, Sĩ Tiếp, Ngu Phiên, Lý Tổ Nhân, Vương Phạm, Hoàng Thư, Ðào Ðình, Tẩy Kính, Nguyễn Khiêm Chi, Liêu Xung, Phùng Dung, Vi Thiện Ðạo, Mặc Tuyên Khanh, Dương Hoàn.
Trong số này có nhiều nhân vật quen thuộc, như Phạm Lãi, Chu Mãi Thần, Vương sung, Trương Trọng, Lý Tiến, Chung Ly Y, Mạnh Thường, Tạ Di Ngô, Vi Thiện Ðạo….
Tư tưởng bật nổi của các vị Tiên Hiền đó quy về các đề tài chính: Triết Lý Âm Dương, Triết lý Tam Tài, Ðạo sống Quân Tử, Hiếu đạo, Triết lý Nông Nghiệp, Ðạo sống thiên nhiên….
Ta thử đọc bài Tựa của Bách Việt Tiên Hiền Chí:
” Hai chữ và là một. Vũ Cống là một miền vuông vắn ngoài cõi Dương Châu, từ Ngũ Lĩnh tới bờ biển. Ðó là miền của Việt tộc, khởi thủy từ thời vua Vũ, làm thành các nước chư hầu Bách Việt. Thiếu Khang lúc ấy phong Yến Tử ở miền Hội Kê, thờ vua Vũ. Họ xâm mình cắt tóc, phá hoang lập ấp tại đây. Cách hai mươi đời sau, Việt Câu Tiễn, một thường dân nổi lên diệt Ngô, xưng Vương, đóng đô ở Lang Gia, trở thành dân nước hùng cường một phương. Câu Tiễn suốt sáu đời, gia công đánh Sở. Sở rất mạnh về thương mại, đánh bại Câu Tiễn, dồn về Lang Gia, dừng bước ở miền Ðông. Vũ Việt phân tán các con mỗi người một nơi: kẻ xưng Vương, người xưng Chủ khắp miền duyên hải Giang Nam, thần phục nước Sở. Ðó là Bách Việt , phân chia bờ cõi từ Dương Châu, Hội Kê xuống Nam. Nhờ thực tài xem thiên văn và bói chim, sau cùng diệt được Sở Vương. Câu Tiễn thâu hồi cả miền Dương Việt lập thành ba Quận: Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Uy. Con cháu sau này quy phục Hán Tộc, liên hợp các miền thành Thương Ngô, Uất Lâm, Giao Chỉ, Cửu Chân, Ðam Nhĩ, Châu Nhai.. tất cả 9 quận. Từ miền Nam Việt tới địa giới Bắc Cô Tư, Hội Kê gọi là Phù Việt ; phía Ðông miền hoang vu tới Chương Tuyền gọi là Mân Việt . Từ biển Ðông, kinh đô Vương Diêu tới Vĩnh Gia gọi là Âu Việt. Từ Tang Ca tới miền Ðông ôn hoà thư thái gọi là Lạc Việt. Người Hán Tộc cho rằng: người Việt ở miền duyên hải có nhiều đồi mồi, tê giác, đá ngọc, bạc đồng, trái cây, vải vóc.
Tuy nhiên Việt tộc được chung đúc bởi dương khí, cho nên nhân văn, mũ áo, lễ nhạc không giống lễ giáo Ðường Ngu. Sau này tôi nghe có vị thái sư Nam Giao nói rằng: người Việt tuy man di, nhưng từ đầu đã có công đức với nhân dân lắm. Sách Xuân Thu viết: “Câu Tiễn ở ư Việt vào nước Ngô. Lúc ấy họ rất khổ sở vất vả, nhưng lại có nhiều mưu kế thâm sâu, bền chí giữ liêm sĩ, nghe theo mệnh Trung Quốc mà tôn nhà Chu, theo Hán tộc từ đó cho tới sau này”.
Sau này có Sô Thị gọi là Diêu Triệu thâu hồi dân Việt chung quanh, được tán thưởng cho tới thời Lưu Thị, lập thành hai kinh Ðông Tây. Thần dân Việt tộc có công nghiệp văn chương rải rắc khắp tám dặm miền duyên hải Giao Châu đã đem lại nhiều lợi ích.
Vì thế sử sách từ Chu đến Hán đã ghi chép Việt tộc có hàng 120 Ðại Hiền Tiểu Hiền. Từ thời Chương Vũ Hoàng Sơ tới Ðường Tống thu hồi lại tất cả, gọi là bách việt tiên hiền.
Lời tựa của Âu Ðại Nhậm
năm thứ 33 đời Gia tĩnh, tháng 11 này 21
Minh Thế Tông năm 1522
Qua bài Tựa này, chúng ta nhận định nhiều ưu thế của Việt tộc: 1. Ðã có thời Việt Câu Tiễn diệt Ngô, xưng Vương, hùng cứ một phương. 2. Họ đã làm chủ suốt miền Giang Nam. 3. Có thực tài xem thiên văn và bói chim. 4. Thần phục nước Sở, thâu hồi cả miền Dương Việt. 5. Việt tộc miền duyên hải có nhiều đồi mồi, tê giác, đá ngọc, bạc đồng, trái cây, vải vóc. 6. Người Việt được chung đúc bởi dương đức, cho nên nhân văn, mũ áo, lễ nhạc không giống Ðường Ngu. Phải chăng hay hơn, vì nhờ dương đức. 7. Người xây dựng nước tuy vất vả khổ sở, nhưng lại thâm mưu túc trí, bền lòng giữ liêm sỉ 8. Lúc ấy đã lập thành hai kinh Ðông Tây, tức là Quảng Ðông Quảng Tây. 9. Thần dân của Việt tộc có công nghiệp văn chương rải rắc khắp bảy tám dặm miền Giao Châu, đã đem lại nhiều ích lợi. 10. Cả hơn mười Việt tộc đã bị đồng hoá với Hán Tộc, chỉ trừ Lạc Việt và Việt Thường tự cường không bị thâu hoá, mà tồn tại thành nước Việt Nam ngày nay.
Ðó là những điểm ưu việt của dân anh hùng Việt Nam, dưới mắt Hán tộc, tức dân Trung Hoa. Nhưng điều quan trọng ở đây là Việt tộc có hàng 120 Ðại Hiền Tiểu Hiền đã đóng góp cho văn hoá Hán tộc và làm thành Truyền thống văn hoá Việt Nam.
2. Triết lý truyền thống
Như trên đã nói chúng ta khuôn đúc tư tưởng Tiên Hiền vào ba dòng triết lý căn bản: Triết Lý Tam Tài, Triết Lý Âm Dương và Triết Lý Nông Nghiệp.
triết lý tam tài
– Triết lý Tam Tài trong khối Viễn Ðông rất bàng bạc. Trung Hoa Nhật Bản trình bày Tam Tài với tính cách thực tại hơn là triết lý. Trung Hoa có bộ Tam Tài đồ hội gần 4000 trang, nhưng đó chỉ là liệt kê tổng quát theo các hiện tượng: thiên văn, địa văn và nhân văn mà thôi. Nhật Bản có 1 tập nhỏ duy nhất, nhan đề Tam Tài tạp biện nói một cách chung chung, áp dụng vào nhân sinh mà thôi. Việt Nam ta từ hồi còn là Việt tộc, các Tiên Hiền đã nói về Tam Tài như những thế lực cấu tạo, bảo tồn và phát huy vạn vật.
Các Tiên Hiền Bách Việt, như Ðại Phu Chủng. Phạm Lãi, Chư Kê Dĩnh, Trịnh Nghiêm, Ðiền Giáp, Dương Phù, Tạ Di Ngô đã trình bày Tam Tài Thiên Ðịa Nhân là ba căn cơ cho Thiên Ðạo, Ðịa đạo và Nhân Ðạo. Nhờ đó Việt tộc từ ngàn xưa đã xây dựng Chủ Ðạo Nhân bản tâm linh, là truyền thống văn hoá của ta ngày nay. Con người là sức mạnh của Trời: Thiên địa chi đức. Con người là chủ nhân ông trong vũ trụ, được Trời che đất chở: Thiên phú địa tái. Con gnười khám phá những Thiên văn, khai quật những địa văn, để tô điểm cho Nhân văn thêm tươi đẹp phong phú.(*)
(*) Đại Phu Chủng, quyển 1, trang 1-2; Phạm Lãi, quyển 1, trang 4; Chư Kê Dĩnh, quyển 1, trang 6; Trịnh Nghiêm; Trịnh Nghiêm, Ðiền Giáp quyển 1, trang 10; Dương Phù quyển 2 trang 6; Tạ Di Ngô quyển 3, trang 7.
Sau này các nhà Việt Nho, như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Du đã thể hiện dòng triết lý ấy trong thơ văn một cách đầy đủ rõ ràng (*)
(*) Ðọc Vũ Đình Trác: “Triết lý Tam Tài” trong Luận án Triết lý nhân bản Nguyễn Du. Orange, CA: Hội Hữu, 1993, trang 91-144.
Ðặc biệt Trần Cao Vân viết một bài thơ nhan đề Tam Tài, đã tận tả ý nghĩa của dòng triết ký này:
Trời Ðất sinh Ta có ý không ?
Chưa sinh Trời Ðất có Ta trong.
Ta cùng Trời Ðất ba ngôi sánh,
Trời Ðất in Ta một chữ đồng.
Ðất nứt Ta ra, Trời chuyển động,
Ta thay Trời mở Ðất mênh mông.
Trời che Ðất chở Ta thong thả,
Trời Ðất Ta đây đủ Hoá Công.
Ðiểm Thần học dân gian nổi bật lên ở đây là: con người đứng giữa Trời Ðất để nối kết đôi bờ Thiên Ðịa. Con người được Trời che Ðất chở, phải đắp đổi hai bên cho cân xứng. Con người làm vua vũ trụ, như kiểu sách Sáng Thế Ký 1: 28. Con người vì thế phải làm trọn ba đạo: đạo Trời đạo Ðất và đạo Người. Chỉ tròn nhân đạo, khi con người đi theo đúng thiên lý và đạo tự nhiên của Ðất. Nhờ vậy con người sẽ gây được đời sống quân bình và toàn diện. Cha Trời Mẹ Ðất chính là triết lý chấp Ðịa tòng Thiên của Cha ông ta từ ngàn xưa. Chấp Ðịa là đón nhân địa vật làm của riêng, khai thác
trái đất để tô điểm đời sống con người cho phong phú theo ý Trời. Tòng Thiên đây chính là theo ý Trời. Theo được ý Trời, thì Trời cũng theo ý Ta. Ðây là ý nghĩa câu tục ngữ Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhân (Trời không phụ người có lòng tốt).
Nhờ đó văn hoá truyền thống vẫn là văn hoá nhất quán và giao hội. Những nền văn hoá “duy, chủ” không hợp với triết lý Tam Tài, đương nhiên cũng không hợp với người Việt. Chính vì thế, không lạ gì dân chúng Việt Nam không chấp nhận công sản chỉ có địa mà không có thiên. Con người thiếu Thiên sẽ bơ vơ lạc lõng trong cõi thời không, thiếu địa sẽ khắc khổ tàn tạ. Con người chỉ an vui hạnh phúc khi trọn đưọc Thiên đạo Ðịa đạo và Nhân đạo. Vô tín ngưỡng vô tôn giáo là phản bội dòng triết lý dân tộc.
Vô gia đình lại chính là con người tự phản bôi con người. Con người Tam Tài là
con người Thiên thời, địa lợi nhân hoà. Các huyền thoại của ta đều cho thấy: con người có nhân đức, thường được Tiên Thánh và Ðấng Tạo Hoá phù trợ, gặp nhiều thuận lợi do Cha Trời mẹ Ðất xếp đặt.
triết lý âm dương
– Triết lý Âm Dương được xuất hiện dưới ngòi bút của các vị Tiên Hiền: Kế Nhi, Dưỡng Phấn, Quách Thương. Kế Nhi đề cập luật Âm Dương với Ngũ Hành. Dưỡng Phấn trình bày hậu quả của Âm Dương, Quách Thương nhấn mạnh: Dương đức là căn bản của chính sách tu tề.(*) Ðọc qua ba Tiên Hiền này, ta có cảm tưởng như Dòng Bách Việt xưa coi âm dương như nguyên tố sinh tử của một hệ tộc. Cũng nhờ Âm Dương quân bình và dương đức cường thịnh mà hai hệ tộc Lạc Việt và Việt Thường còn tồn tại, để thành Việt Nam ngày nay. Nhờ dòng triết lý này, đạo sống Quân bình Âm Dương được thể hiện nơi người Việt muôn thủa, mà lịch sử tôn họ là Dân Anh Hùng.
(*) Kế Nhi đọc quyển 1, trang 3; Dưỡng Phấn quyển 2, trang 7; Quách Thương quyển 4, trang 4.
Dòng triết lý này được thể hiện thời Hùng Vương với Bánh Dầy Bánh Chưng, một vuông một tròn tượng trưng cho Trời tròn Ðất vuông, nói lên sự vuông tròn của Âm Ðương mang ý nghĩa Quân Bình và Toàn Diện. Âm Dương là hai nguyên tố sinh tồn và biến hoá qua Ngũ Hành: Thủy Hoả Thổ Kim Mộc. Nhờ Ngũ Hành tương sinh tương khắc mà có biến hoá trong trời đất.
Triết lý Âm Dương Ngũ Hành cũng là nền tảng cho sự hoà diệu trong trời đất và nơi cuộc sống con người: tình cảm, tâm tư, ước vọng là nguồn mạch của văn chương tư tưởng con người, dĩ nhiên cũng là nguồn mạch của văn hoá.
Ðối với Việt tộc, khởi đầu Âm làm chủ: Âu Cơ, Mị Nương, Tiên Dung mở đầu cho tình cảm phu phụ, gia đình làng xóm. Lần lần chuyển sang Dương Chủ: 18 đời Hùng Vương. Sau cùng là Âm Dương giao thoa: Phu xướng phụ tùng và Phu phụ tương dung tương tại. Nhờ vậy mới phát sinh Quân bình Âm Dương. Âm Dương đã quân bình thì có giao hoà toàn diện. Ðó là Ðạo Sống Thái Hoà.
Dựa trên triết lý Âm Dương, cuộc sống của Việt tộc lúc nào cũng giao hoà và nhất quán. Nhờ thế tinh thần kết đoàn dễ thể hiện thành tình: đồng bào, làng xóm, chức vị, đồng môn, nghề nghiệp. Cả về phương diện Y đạo cũng thế. Tất cả y lý dựa trên nguyên tắc: Quân bình âm dương. Ðồ ăn đồ uống phải theo luật Quân bình âm dương, thì sẽ trường sinh vô bệnh. Thuốc men cũng theo luật đó để trị liệu. Theo huyền thoại, Y Tổ Thôi Vĩ được Tiên Ma Cô trao tặng một Lá Ngải để bách trị. Bất cứ bệnh gì, đốt lá Ngải lên cứu đều bình phục. Lá Ngải chính là dược thảo thiên nhiên có hoạt chất âm dương điều hoà, chữa trị bá chứng.
Ðời sau Y Tổ Hải Thượng Lãn ông cũng dựa trên lý thuyết âm dương mà trị liệu vạn bệnh. Biết được biến chuyển của âm dương trong cơ thể, biết được bệnh tính âm hay dương, và nắm chắc dược tính âm dương, là không còn gì nan trị nữa.
Các văn gia thi sĩ của ta sau này cũng sống theo âm dương: thời thế có lúc âm lúc dương, mà chính trị cũng có lúc âm lúc dương. Kể từ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cho tới Tú Tài Trần Tế Xương suy tư, xử sự, hành động đều theo vận chuyển của âm dương, để lấy dương điều chế âm và lấy âm điều chế dương. Ðó là đạo sống vừa song hành vừa nhất quán.
Triết lý Âm Dương cũng nói lên nhiều điểm Thần học. Ðấng Tạo Hoá, tức ông Trời đã tạo dựng hai nguyên tố uyên nguyên là âm dương, để sinh hoá vạn vật trong vũ trụ: Sáng tối, ngày đêm, mặt trời mặt trăng, Nam tính Nữ tính, điều lành điều dữ, đau khổ sướng vui, lúc may lúc rủi, khi thăng khi trầm, hanh thông bế tắc. Những điều đó lúc nào cũng đi theo cuộc
sống con người. Hiểu như thế, cha ông ta luôn luôn thuận theo ý Trời và luật thiên nhiên: bất oán thiên bất vưu nhân. Mặc dù gặp hoàn cảnh nào cũng an vui điều hoà. Và chí tiến thủ giúp họ điều hoà hoàn cảnh: khi vui nghĩ đến lúc buồn, biến đổi nỗi buồn trở thành niềm vui; khi ấm no nghĩ đến lúc thiếu thốn mà đề phòng; khi sa cơ lỡ bước phải lập chí để vượt thắng .
Ðạo sống quân bình âm dương chính là đạo sống thái hoà, đem đến cho con người Việt Nam muôn thủa một nhịp sống đắp đổi, uyển chuyển và hoà hợp, khiến cho con người Việt Nam luôn luôn giữ thế tự tại, mà có thể hoà mình với mọi người và mọi hoàn cảnh.
triết lý nông nghiệp
– Nhờ căn bản Tam Tài mà có triết lý Nông Nghiệp. Con người được Trời cho làm chủ vũ trụ này, trở thành chủ nhân ông trên mặt đất. Ðề ra dòng triết lý này có các Hiền Triết Kế Nhi, La Uy, Ðường Tụng. Kế Nhi chủ trương Nông vi bản: Nông Tang. Nghề nông phát đạt thì dân mới giầu mạnh. La Uy thì khuyến Nông Mục. Ðường Tụng đưa ra một lối sống nông nghiệp theo đạo Hiếu. Nhờ hiếu đạo Trời sẽ cho mưa móc trên thảo mộc. (*)
* Kế Nhi xem quyển 1, trang 3; La Uy quyển 4, trang 1; Ðường Tụng quyển 4, trang 2.
Triết lý Nông Nghiệp hệ tại quan niệm: nông nghiệp là công việc tay người khai phá trái đất được Trời Ðất thuận hoà. Vua Việt Câu Tiễn xuất thân từ nghề nông, và phu nhân xuất thân từ nghề nuôi Tằm. Sau khi khởi thắng, lên ngôi, tham vấn Kế Nhi, Kế Nhi thưa: Nông nghiệp mà thiệt hại, thì thảo mộc không tươi tốt, thiếu hụt cùng cực thì hàng hoá khan hiếm….Nếu biết nhận định được thời lệnh theo Kim Mộc và Thủy Hoả với Âm Dương mà ứng dụng vào nông nghiệp, thì không lo thất bại. (*)
(*) Bách Việt Tiên Hiền chí, quyển 1, trang 2.
Dòng triết lý nông nghiệp này cùng ứng hợp với ý nghĩa Huyền Sử Bánh Dầy Bánh Chưng, Dưa Hấu đời Hùng Vương. Bao nhiêu lễ vật ngọc ngà châu báu, Hùng Vương không ưa, mà lại nhận hoa màu ruộng đất kết tập trong hai chiếc Bánh Dầy bánh Chưng do ngũ cốc kết thành. Trân châu ngọc bảo nào cũng chẳng bằng lúa gạo nuôi sống nhân gian.
Qua bao đời xây dựng dân nước, Cha Ông ta lúc nào cũng cần đến trí thức là đèn soi cho hành động, nhưng trí thức là ngọn, nông nghiệp vẫn là gốc. Cho nên ca dao hát rằng:
Nhất Sĩ nhì Nông,
Hết gạo chạy rông,
Nhất Nông nhì Sĩ.
Nhưng căn bản của Nông nghiệp vẫn là đạo đức nông nghiệp. Nền đạo đức này hệ tại ăn ở thuận hợp với Trời đất thì mới phong đăng hoà cố:
Ơn Trời mưa nắng phải thì,
Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu.
Công lênh chẳng quản dài lâu,
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng.
Ðặc biệt hơn, nông phu luôn luôn cầu khẩn ơn Trời:
Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống,
Lấy ruộng tôi cày, lấy đầ bát cơm.
Họ đặt hết niềm tin ở Cha Trời. Những lời tục ngữ chính là những lời kinh chân thành ;
Trời sinh Trời chẳng phụ nào….
Trời sinh Trời dưỡng….
Trời sinh voi Trời sinh cỏ…..
Trời nào có phụ ai đâu ?…..
ơn Trời mưa gió thuận hoà….
Quyền cao chức trọng Trời cho….
ơn Trời phù hộ ngày đêm…
Phải nói rằng đạo sống Nông Nghiệp là đạo sống hoà hợp với Trời đất và vũ trụ thiên nhiên. Con người sống an vui với Trời đất và muôn loài.
Ðây là một thứ đạo thiên nhiên: Thiên cao địa hậu nhân hiền hay Thiên phú Ðịa tái Nhân an. Xã hội nông nghiệp an nhiên thư thái, dân gian đều có phần ruộng để canh tác, có vườn rau ao cá, vườn cây hoa trái bốn mùa, ấm no ngọt bùi cùng chia sẻ, khi hoạn nạn cùng nhau tương
trợ. Quanh năm hai mùa làm ruộng, có tháng làm lụng vất vả, có tháng vui chơi hội hè. Lễ chùa, lễ nhà thờ đông vui sầm uất. Hội làng hội nước nô nức giao hoà. Con người bình sản không quá giầu mà cũng không quá nghèo, đôi khi tới mức giầu sang phú túc. Không tranh giành không áp đảo cũng không kèn cựa nhau. Ðể thêm màu sắc dân sinh, có người dư giả lại buôn bán đó đây; người khác nảy tài đi vào công nghiệp, tuy nhiên cũng là tiểu công, để tô điểm cho đời sống thôn xóm gia đình thêm ấm áp đẹp màu. Tứ dân: sĩ nông công thương luôn luôn hoà hợp. Tuy nhiên là một dân tộc hiếu học, vì đời sống nông nghiệp bình dân rất trọng
Kẻ Sĩ. Kẻ Sĩ trong làng nắm giữ những công việc hành chánh, giao dịch, lo cho dân trí và dân đức. Giáo dục và đạo nghĩa vì đó cũng thêm phần sùng mộ cao thâm và phát triển.
II- trống đồng việt tộc
Theo truyền thyết, vua Hùng Vùng trước khi phân tán anh em đi khắp bờ cõi, để cai quản đại tộc, đã truyền đúc 1600 trống đồng để làm tích tộc và điển chương thống nhất cho Việt tộc (*). Trên các trống đồng ấy, có ghi khắc tất cả đạo sống vủa Việt tộc theo truyền thống, để con dân muôn đời noi theo những điển lệ, tập tục và hiến chương của Văn Lang (Việt tộc) là “văn hoá chi bang”, như Hán tộc đã xưng tặng.
(*) Tại Âu Châu, nhiều nhà khảo cổ đã biết đến trống đồng Việt Nam từ năm 1682, nhưng mãi taới thế kỷ 19, Hirth (1890) mới khảo sát trống đồng, cho rằng phát xuất từ Hán tộc. Năm 1901 De Grooth cho cho là xuất xứ của trống đồng do Việt tộc. Năm 1902, Franz Heger lại xác nhận: trống đồng là sản phẩm của Việt tộc (Kim Định: Sứ điệp Trống Ðồng. San Jose: Thanh Niên quốc gia, 1984, trang 19).
1. lịch sử trống đồng
Thực ra từ đời sơ nguyên, Việt tộc có nhiều loại trống: về chất loại, có trống đất, trống gỗ, trống đồng. Về công dụng, có trống cầu mưa, trống trống sấm, trống trận trận, trống cầm canh v.v…Theo truyền thuyết như nói trên, Hùng Vương trao ban 1600 trống đồng cho mọi chi tộc(*), làm căn bản trị quốc. Nhưng theo chính sử, năm 43, Mã Viện sang đánh Trưng Vương, đã ra lệnh thu tập hết trống đồng về Trung quốc, tặng bạn bè thân hữu, hoặc phá ra lấy đồng đúc tượng ngựa mẫu.
(*) Theo tài liệu bài thuyết trình của học giả Ðào Mộng Nam, đầu đề Thơ và Ðạo, đọc tại Hội thảo Văn Hoá, Lịch Sử Việt Nam kỳ 16. (Ðào Mộng Nam: Khúc hát dâng tình. Orange, CA: Lời Vàng, 1990)
Theo sử gia Nguyễn Khắc Ngữ, các loại trống đồng tìm được ở rất nhiều nơi, từ Tứ Xuyên, Quế Châu, Quảng Tây, Qủng Ðông cho tới Ai Lao, Cao Mên, Miến Ðiện, Tái Lan, Mã Lai v.v. Riệng tại Việt Nam, ở Ðông Sơn, Thanh Hoá đào được 24 trống; tại Hà Ðông 9 trống; tại Bắc Ninh 3 trống; tại Cao Bằng 3 trống; tại Hà Nam, Hà Nội, Hoà Bình, Kiến An, mỗi nơi 2 trống; tại Nam Ðịnh, Lao Kay, Sơn Tây, Yên Bái,Hải Dương, Nghệ An, Thủ Dầu Một, Kontum, mỗi nơi 1 trống. Cộng tất cả là 55 trống đồng(*).
(*) Nguyễn Khắc Ngũ: Mỹ thuật cổ truyền Việt Nam. Montréal: Tủ sách nghiên cứu Sử Ðịa, 1981.
Trong thập niên 1885-95, nhân đô hộ Pháp mới thấy giá trị lịch sử của trống đồng Việt Nam, nên cho lệnh đi thu lượm trống đồng khắp nơi… Moulié chuộc được trống đồng của gia đình vọng tộc người Mường ở miên sông Ðà, Hoà Bình; trống này được trưng bày ở Hội Chợ quốc tế Paris, sau để trong bảo tàng viện Guimet. Tiếp theo là 2 trống đồng Khai Hoá do Gillet tìm được ở nhà tù trưởng Miêu tộc tại Vân Nam, cũng trưng bày tại Paris và lưu giữ tại Bảo tàng viện Vienne, dưới chủ quyền của Ðức quốc. Trống thứ ba là trống đồng Ngọc Lũ, tìm được ở chùa Long Ðại sơn, làng Ngọc Lũ, Hà Nam. Trống này được lưu trữ tại trường Viễn Ðông Bác Cổ Hà Nội(*). Trống thứ 4 là cặp trống Hoàng Hạ, tìm được năm 1932 tại làng Hoàng Hạ, Hà Ðông, được lưu giữ tại bảo tàng viện Finot, Hà Nội. Nhưng tiêu biểu nhất và đẹp nhất là trống đồng Ngọc Lũ, Hà Nam, tìm được năm 1901.
(*) Nguyễn Khắc Ngữ: Sách dẫn trên, trang 38.
Ở đây chúng tôi trình bày những nét đặc trưng của truyền thống Việt tộc qua trống đồng Ngọc Lũ. Trống này cao 0,63m; đường kính rộng 0,86m, được trang trí bằng các hình vẽ chạm sâu xuống cả trên mặt trống lẫn tang trống.
Bây giờ chúng ta hãy đọc tất cả ý nghĩa truyền thống, mà Ðức Hùng vương đã loan truyền cho con dân ngàn đời để dựng Nước, giữ Nước và bảo vệ, mở rộng bờ cõi Nước Việt.
2. hồn nước trên mặt trống đồng
Hồn Nước đây bao hàm tất cả ý nghĩa các yếu tố lập quốc, bảo quốc và hưng quốc. Ðây là truyền thống Việt triết, đạo thống, quốc hồn, quốc tính và quốc túy. Các yếu tố đó là Ánh Sáng và Âm Thanh, Việt Ðiều, Hướng đi tả nhậm, Ðạo Sống: Tam Tài, Âm Dương, Nông nghiệp và Thái Hoà qua các hình vẽ trên mặt trống.
Chính giữa mặt trống là hình ngôi sao 14 cánh, chỉ Mặt Trời sáng. Chung quanh ngôi sao có 16 vòng đồng tâm, trang trí bằng những hình kỷ hà hay hình vẽ khác nhau. Giữa vòng thứ 5 và thứ 6, có hình 2 căn nhà mái cong, có sàn; trong có người tóc dài ngồi. Trước nhà là 4 dàn
trống và đoàn ca vũ đang nhảy múa, có khèn đệm. Sau nhà có 2 người đang giã gạo.
Xen kẽ với hai 2 nhà sàn trên là 2 nhà sàn mái tròn, trong có người cầm kiếm; trước nhà có một người tay phải cầm kiếm, tay trái cầm con chim; sau nhà có 1 đoàn võ sĩ cầm lao, cầm kiếm đang múa nhả.
Giữa vòng thứ 7 và thứ 8 có hình 2 đàn hươu (10 con mỗi đàn) xen kẽ có 2 đàn chim đang bay (mỗi đàn 8 con). Giữa vòng thứ 8 và vòng thứ 9 khắc 18 con chim mỏ dài đang bay, xen kẽ với 18 con khác đang đậu dưới đất.
Trên tang trống, có khắc hình thuyền, trên có những người cầm lao kiếm, như đang chuẩn bị chiến đấu, hoặc múa nhảy, hoặc chèo thuyền. Trên hông đứng thẳng, có những đường trang trí kỷ hà đứng thẳng hay nằm ngang, đóng khung lấy những người cầm rìu và lá chắn.
Hình mặt trời
– Mặt Trời ứng với quốc hiệu Xích Quỷ. Xích là lửa đỏ, chỉ mặt Trời, là ánh sáng. Khởi đầu đời sống con người là âm thanh; âm thanh chính là hơi thở là truyền thông. Việt tộc truyền thông bằng âm thanh, Hán tộc truyền thông bằng văn tự. Âm thnnh trung thành và có sức giao
hội hơn văn tự. Ðường ta đi khởi từ âm thanh, tiến lên ánh sáng thái hoà, tức Ông Trời hay Tạo Hoá. Hán tộc dùng hình tượng, vẫn còn câu nệ vào văn tự, khó siêu thăng. Con người Việt tộc, vì thế dễ bề tiến lên ánh sáng là cõi Minh Ðức Minh Thành, do Trời tác động. Quỷ có nghĩa là một ngôi sao trong nhị thập bát tú, cũng chỉ ánh sáng, một thứ ánh sáng hùng mạnh vượt lên trên hêt, là Ánh Sáng của Trời đất, chính là Tạo Hoá hay Ông Trời. Ðây là triết lý lập quốc của người Việt.
Vật biểu chim
– Chim đủ cỡ lớn nhỏ, ở trong 3 vòng trang trí. Theo truyền thống Việt, chim luôn luôn đi theo người. Vòng ngoài cùng có 18 đôi chim, vòng giữa có chim và nai, vòng trong chim lẫn với người, đặc biệt có người mặc lốt chim. Như vậy ta thấy người và chim đắp đổi nhau. Sư thực này cho biết thủa ban đầu, vật biểu của Việt tộc là Chim, sau này tới đời Hùng Vương, Chim đi với Tiên, ta thường gọi là Tổ Tiên.(*)
(*) Kim Định: Sứ điệp Trống Ðồng. San Jose: Thanh Niên Quốc Gia, 1984, trang 48: Ta quen nói Tổ
Tiên, lâu ngày quên đi rằng tổ là nhà của chim; nói Tổ Tiên cũng như nói tiên chim vậy.
Sau này nước Văn Lang nhớ Cha Lạc Long, mới đổ sang Long Tiên hay Rồng Tiên. Từ đó vật biểu của Việt là Rồng. Theo huyền sử, Chim được xuất hiện từ đầu với chim Hồng, tức ngỗng trời hay thiên nga, trong đại danh Hồng Bàng . Bàng có nghĩa là mái nhà của Rồng , vẫn quy về
nghĩa Chim Rồng hay Tiên Rồng. Các tổ mẫu của Việt tộc cũng là hình ảnh Chim. Âu Cơ là hiên thân chim Hải Âu. Vụ Tiên là hiện thân của Vịt trời (Vụ là vịt). Ðặc biệt hơn nữa: Âu Cơ sinh con theo lối chim là đẻ trứng. Ðây cũng là huyền ý. Nếu hiểu theo thường ý, thì chỉ là truyện dị đoan buồn cười.
Như thế Chim trên mặt trống nói lên sự xuất sinh của Việt tộc. Ðồng thời mang ý nghĩa cao bay, thảnh thơi và tung tăng ca hót. Cao bay chỉ sự thăng tiến; thảnh thơi của đời sống thanh thoát; tung tăng chỉ cuộc sống linh hoạt; ca hót chỉ nhịp sống an vui. Tuy nhiên con người vẫn là chủ nhân ông trên mặt trống đồng, để xác định quan niệm nhân bản của Việt tộc.
Tả nhậm
– Ðời xưa Hán tộc thường gọi Việt tộc và Di Ðịch là Tả Nhậm (cài khuy áo bên tả), có vẻ khinh khi. Nhưng truyền thống này, theo ý nghĩa Triết Việt lại là một điểm siêu việt, vì tả nhậm là theo hướng mặt trời: đi từ bên phải sang bên trái, ngược chiều vớ hướng kim đồng hồ. Còn hữu nhậm đi từ bên trái sang bên phải theo hướng kim đồng hồ. Nếu đứng quay về phía Bắc, ta thấy mặt trời đi từ phía Ðông (hữu) sang Tây (tả).
Trên mặt trống đồng, ta thấy người và
vật đều tiến theo hướng ngược kim đồng hồ, tức là tả nhậm hay tả hành.
Hình tả hành và hữu hành
Như vậy tả nhậm chỉ hướng Trời trái với hữu nhậm chỉ hướng Ðât. Ý nghĩa triết lý sống là đi theo Trời và sống theo Trời. Ðây cũng là Nhân đạ theo Thiên Ðạo, đúng với ý nghĩa “Thiên nhân tương dữ” hay “Thiên nhân hiệp nhất”. Lý thuyết này đã hình thành khoa Thần bí Học của Việt tộc, và cũng là căn bản cho chủ thuyết Thiên lý và Thiên Mệnh. để rồi đi tới cuộc trao đổi quân bình Thiên địa nhân hoà đồng. Lý thuyết này dẫn tới cuộc sống của Ðại Ngã Tâm Linh. Khi đạo Trời đã vững, thì đạo Ðất nay sinh điều hoà, có nghĩa là “xây dựng vật chất trên căn bản tinh thần”. Tinh thần trở thành căn cơ nội tại và vật chất thể hiện tự nhiên bên ngoài. Do vậy Việt tộc thường nói Ðất hay Âm trước Trời hay Dưong, như Âm Dương, Vợ Chồng, Nhà Nước, đêm ngày v.v.
Tam tài đạo
– Nhận xét chung, người ta thấy Mặt
trống tượng trưng cho Trời; tang trống tượng trưng cho Người và đáy trống tượng
trưng cho Ðất. Cả ba yếu tố hoà hợp, tạo nên ba đạo lớn: Thiên Ðạo, Nhân đạo và
Ðịa đạo. Ba đạo ấy được thể hiện trong ba ý nghĩa: Thiên sinh, Ðịa dưỡng, Nhân hoà.
Thiên Sinh có nghĩa là Trời mở đầu cuộc sống. Trên mặt trống ta thấy hình Mặt Trời sáng láng. Con người khởi đầu thờ Mặt Trời. Mặt Trời là biểu tượng của ánh sáng và sự sống, dần dần truy nguyên, người ta khám phá ra bàn tay Tạo Hoá tạo dựng nên Mặt Trời, Mặt Trăng và tinh tú và muôn vật, để đi tới chỗ nhận biết Trời, thờ Trời, Ông Trời hay Tạo Hoá.
Ðịa dưỡng có ý nói về đời sống vật
chất. Thiên là Ðấng Tạo Hoá, thì Ðịa theo chiều hướng của Thiên, là mẹ của vật
chất nuôi dưỡng chúng nhân và sinh vật. Vật chất đầy đủ, thì tinh thần dễ phát
hiện. Tuy nhiên vật chất thiếu tinh thần sẽ mất hồn sống, không sự sinh hoá. Vì
thế nguồn mạch của sinh hoá là Thiên địa song hành, thiên địa tương giao làm
thành sự sống và dưỡng sinh, như một thứ Ðại Ngã Tâm Linh.
Nhân hoà chỉ là Tiểu Ngã trong Ðại Ngã
Tâm Linh, như kiểu Atman ở trong Brahman vậy. Vì thế Nhân phải hoà với Thiên và
Ðịa cũng như Vạn Vật, để gây nên nhịp sống Thái Hoà trong trời đất và trong
nhân sinh. Trên mặt trống ta thấy con người là chủ động dưới ánh sáng của Trời
và trên cuộc sống an cư lập nghiệp của Ðất, tạo thành một đời sống nông nghiệp
thanh thản an bình và siêu thoát.
Ðây là thứ triết lý sống rât tự nhiên
và siêu nhiên: sống trong ánh sáng và âm thanh của những điệu vũ có uy lực nội
tại là Niềm Vui hoà hợp với ngoại cảnh đẹp màu và thú vị.
Đời sống nông nghiệp
– Ðời sống nông nghiệp được mô tả qua
những cảnh chim bay, giã gạo, săn bắn và ca vũ. Chim bay trên con người, chim
bên cạnh người và chim dưới chân con người, reo vui ca hót cuộc sống thiên
nhiên của con người. Giã gạo và Gạo đưọc coi như tinh túy và tinh hoa của nông
nghiệp. Chính vì thế chữ Việt cổ xưa viết với bộ Mễ là Gạo. Ca vũ là đời sống
ấm no vui vẻ, sau những ngày làm lụng vất vả. Toàn dân hội hè đình đám trong
các dịp Thượng điền, Khai hạ, ngày mùa, Cơm mới, để nói lên niềm vui An cư Lạc
nghiệp. Săn bắn tượng trưng bằng cảnh dương cung. Con người là Nhân Hoàng có
quyền trên muôn vật, có quyền ăn ngon mặc đẹp. Chỉ ăn no mặc ấm mà thôi mới là
tối thiểu. Con người tiến bộ cũng cần ăn ngon mặc đẹp cho xứng địa vụ cao quý
hơn muôn vật.
hình giã gạo và dương cung.
Song trùng âm dương
– Âm Dương là hai yếu tố căn cơ của muôn vật và con người. Âm Dương biểu hiện ra qua Mặt Trăng Mặt Trơi, Tói Sáng, Tiên Long, Nam Nữ, Non Sông, Vuông tròn, Cong thẳng, Người vật, Buồn vui, bộ số hai ba hay vài ba. Những nét song trùng (nghĩa là hai nét son song mà lại trùng nhau) cũng gọi là Giao chỉ (hai chân giao nhau) nói lên sự đắp đổi giữa hai yếu tố khác biệt nhau, mà lại tương hoà tương giao. Như vậy lại tạo nên sự quân bình, để đi tới Nhất quán là hậu quả của Nhất nguyên.
hình giao chỉ, song trùng, âm dương…
* Giao chỉ nghĩa là hai ngón chân cái giao nhau, như tục lệ nam nữ hát đối đáp, khi giao chân giao tay, gọi là “cài hoa kết hoa”, như thấy trên mặt trống đồng.
Ðây là dòng triết lý thực tiễn của Việt
tộc. Qua đó phát sinh những Ðức tính: giao hoà, đoàn kết và tương liên. Tiên
Long kết hợp, sinh một trăm con, kẻ núi ngàn, người sông biển, mà vẫn giao
thông với nhau, khi hữu sự, thì kêu gọi nhau, không hề từ bỏ nhau. Tục ngữ ca
dao sau này cũng nói lên tinh thần giao hoà đó:
Khôn ngoan đá đáp người ngoài,
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.
Hay:
Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
Hiến chương này được hội nghị Diên Hồng (1284) nắm giữ và phát huy thành Dân đạo: Dân tộc đại đoàn kết. Nhờ vậy bao lần trong lịch sử lập quốc và bảo quốc, dân Việt đã lấy “nhu thắng cương” và “tiểu thắng đại” hay “thiểu số thắng đa số”. Những cảnh phân hoá ngày nay tại quốc nội cũng như hải ngoại là những hiện tượng “xuất não” do ảnh hưởng “bắc thuộc”, thực dân và cộng sản gây ra. Ðúng là những tai nạn trên đường chính trị mà thôi. Ðã là tai nạn, thì sớm muộn gì cũng qua đi.
kiến trúc mái nhà cong
– Truyền thống văn hoá Viễn Ðông phát khởi do Bách Việt (trong đó có Việt Nam) trước Hán tộc. Dựa vào công cuộc khảo cổ ở chính Trung Hoa, Việt Nam, Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương , Phi Luật Tân, các nhà khảo cổ đã chứng minh rằng: Tổ Tiên những người Ðông Nam A đã biết trồng cây, đẽo đá làm đồ dùng, lấy đất sét làm đồ gốm trước người Trung Hoa, Ấn Ðộ và Cận Ðông nhiều nghìn năm. (*)
(*) Wilheim G. Solheim II: National Geographic, “New light on a forgotten past”, Vol 139, no March 03, 1971, p. 331.
Sách Lĩnh Nam Chích Quái viết:
” Nước Văn Lang Ðông giáp Nam Hải, Tây tới Ba Thục, Bắc giáp Ðộng Ðình Hồ, Nam giáp Hồ Tôn.(*)
(*) Vũ Quỳnh & Kiều Phú: Lĩnh Nam chích quái, Lê Hữu Mục dịch. Hà Nội: 1960, trang 37.
Do vậy những đồ đào được tại Trung quốc cũng thuộc vùng Việt tộc. Theo sử quan Trống Ðồng Việt Nam, kiến trúc mái nhà cong của ta đã có trước công nguyên ít gì cũng hàng ngàn năm. Trên mặt trống đồng Ðông Sơn và Ngọc Lũ có khắc hình Mái Nhà Cong.
hai mẫu mái nhà cong.
Trung Hoa chỉ có mái cong từ thời nhà Ðường, khoảng năm 630. Chính Ðường Huyền Trang, Pháp danh Ðường Tam Tạng, sau khi thỉnh Kinh ở Ấn Ðộ về, được vua Ðường Cao Tông cho xử dụng Ngọc Hoa Cung làm chùa. Huyền Trang sửa lại cung thành chùa cũng theo kiến trúc mái thẳng, chưa có mái cong. Trước đó năm 539 nhà Hán tu bổ miếu thờ Khổng Tử, vẫn còn mái thẳng, như nhà Kim Thanh Ngọc Chấn, Ðạo Quan Kim Cổ. (*)
(*) Từ điển Từ Hải: Huyền Trang. Taiwan: 1948, trang 883.
Ðường Thích Huệ: Tam Tạng Pháp Sư truyện. Taiwan: Quảng văn thư lục, 1963, trg 6-7. Trần Hoà Nghị: Khổng Tử du tung. Hồng Kông: Vạn lý thư điếm, 1987, trg 20.
Nhật Bản có tháp chùa cổ nhất là tháp Chùa Nhạc Sư có mái cong rất đẹp, được kiến tạo năm 730, tại Nara. Cũng tại đây, Pháp Long Tự có mái cong cũng từ thế kỷ 8.(*)
(*) Nhật Bản Mỹ Thuật tự điển. Tokyo: Giác xuyên thư điếm, ed. 6, 1988, trg 131+160
Mái cong của Việt tộc tượng trưng cho sự vươn lên, hướng thượng, lên tới Thiên; đồng thời cũng là nét hài hoà giữa đường thẳng và vuông, để tạo nên một sự cân đối giữa vuông tròn, là đường đi tới đạo sống toàn diện: bao quát trên dưới, trong ngoài, tả hữu và ba bề bốn bên cho quán thông phổ cập.
Chúng tôi chỉ trình bày những điểm bật
nổi của trống đồng, hầu khai triển những nét văn hoá truyền thống của Việt Nam,
bắt nguồn từ Bách Việt. Những nét truyền thống này là hồn sống và di sản của
văn hoá Việt Nam.
Kết luận
Những dòng truyền thống trên đã phát sinh nguồn triết lý cao siêu và đạo sống rất hồn hậu của Việt tộc. Trong đó Việt Nam đã thâu hội những tinh hoa để làm thành căn tính của mình suốt mấy ngàn năm lịch sử. Một dân tộc chỉ sống còn và sống mạnh khi nào có một triết lý sống thực sự và vững vàng. Dân tộc đã kinh qua từ Bách Việt, Việt tộc đến Việt Nam, và tồn tại đến ngày nay là nhờ những dòng triết lý sống thực đó. Những dòng triết lý này thể hiện nơi đạo sống. Ðạo sống từ ngàn xưa của dân tộc Việt đã biểu lộ qua nhiều hình thái. Những lúc bình an thư thái, đạo sống tâm linh bừng lên sung mãn. Những lúc bế tắc ngưng đọng, đạo sống tự cường vẫn âm thầm hồn hậu, để tìm đường phục khởi. Trong cuộc sống dân gian, trước mọi hoàn cảnh thăng trầm, người Việt cùng kết hợp trong tinh thần tương thân tương ái và tương trợ qua đạo sống thái hoà. Gặp lúc cuồng phong nổi dậy, đời người nghiêng lệch đổ vỡ, đạo sống quân bình sẽ lập lại trật tự. Có khi nhân sinh phiếm lạm khiếm khuyết, đạo sống toàn diện sẽ là liều thuốc san bằng đắp đổi.
– Ðạo sống tâm linh – Người Việt tự ý thức mình là con cháu Rồng Tiên, có một sinh hệ thần linh, nên lúc nào cũng đinh ninh rằng căn bản của mình là linh thiêng cốt cán. Cho dù lận lội chốn đa mang vật chất, họ vẫn cố vùng lên trong bản tính siêu linh, mà ta gọi là Nhân bản tâm linh. Ðạo nghĩa chính là hương vị, màu sắc của đạo thờ Trời Ðất và ông Bà Tổ Tiên trong ý nghĩa chu toàn nhân đạo:
Dù ai nói ngược nói xuôi,
Ta đây vốn giữ đạo Trời khăng khăng.
Dù ai chác lợi mua danh,
Miễn ta, ta được đạo lành thì thôi
(Ca dao).
Ðạo sống này đem lại cho đời sống một sự bình an trong tay an bài của Cha Trời và trong màu mỡ sung túc của mẹ Ðất.
Ðạo sống tự cường
– Tự cường đây có nghĩa là vươn lên và quật khởi. Vì là con Trời và là Vua mặt đất, đúng với nghĩa Nhân Hoàng, con người sống theo chí khí tự cường. Cuộc đời dù trắc trở tới đâu, con người Việt, trong khí thế Rồng Tiên luôn luôn tự cường để sống còn và sống mạnh. Trong suốt mấy ngàn năm lịch sử cha ông họ đã quật khởi trước những sức mạnh cản đường tiến thủ. Họ vùng dậy sau 1000 đô hộ Hán tộc. Họ quật khởi sau 100 năm đo hộ Pháp. Họ thoát ly sau 30 năm bị ràng buộc bởi vòng xích sắt của cộng sản đề bước vào quỹ đạo thế giới, hầu tìm đường phục hồi cho đồng bào bị đày ải dưới bàn tay sắt hung tàn, để vùng dậy, ý chí hùng cường chính là khí giới của một dân tộc khổ đau, chịu đựng và kiên gan bền chí.
Ðạo sống thái hoà
– Chính nhờ tình người rộng lớn của “Trăm Con” cùng kết đoàn, tương thân tương ái, để giữ bầu không khí đại hoà, mà dân Việt kinh qua biết bao khắc nghiệt của cuộc sống, mà tồn tại đến ngày nay. Hoà hợp trong gia đình trong làng nước và trong tứ hải, mà anh chị em con Rồng cháu Tiên vẫn sống an hoà bao dung. Ðôi khi không thể tránh được những va động vì tự ái tự kỷ, nhưng rồi “chín bỏ làm mười”, vẫn hoà giải và tương giao. Lời Kinh dân tộc vẫn còn được tụng niệm cách hữu hiệu:
Khôn ngoan đá đáp người ngoài,
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau
(Ca dao)
Tình người bắt nguồn từ trong nhà, lại thân trương ra ngoài xã hội:
Nay mừng tứ hải đồng xuân,
Tam dương khai thái,
muôn dân hoà bình.
(Ca dao).
Ðạo sống quân bình
– Con người Việt Nam trong chế độ kìm kẹp tại quốc nội và nơi hải ngoại lệch lạc ngày nay thường bị phân tán nghiêng lệch vì kiếp sống đa đoan phức tạp. Chỉ có đạo sống quân bình của cha ông mới có thể giúp họ lấy lại cán cân thăng bằng cho cuộc sống… Thăng bằng giữa tự do và áp bức, thăng bằng giữa vật chất và tinh thần, thăng bằng giữa lao công và hưởng thụ, thăng bằng giữa tình cảm và lý trí. Bởi vì con người là một thực thể tuy nhị nguyên mà nhất quán, song hành mà nhất tri, nên cần đắp đổi bao dung để giữ thế quân bình. Có quân bình mới an cư, có an cư mới lạc nghiệp. “Duy, chủ” cũng không được, mà tứ tán cũng không an. Quân bình với dân ta là đắp đổi hai bên, là nhịp nhàng đáp ứng. Một Trạng Trình an nhiên tự tại, một Nguyễn Công Trứ “tri hành hợp nhất”, một Nguyễn Du “hiếu trọng tình thâm’ là những hình ảnh đẹp màu của đời sống quân bình vậy.
Ðạo sống toàn diện
– Trong cuộc sống phức tạp ngày nay, con người dễ đi vào phiến diện: được cái này mất cái kia. Nhưng triết lý Tam Tài sẽ giúp con người đền đáp toàn diện cho cả Thiên Ðịa, hình ảnh của tinh thần và vật chất. Triết lý Âm Dương sẽ giữ cho nhịp sống được chu toàn, triết lý nông nghiệp sẽ giúp đời sống an vui, trên đó có thể xây dựng hạnh phúc tâm linh. Ðời sống toàn diện chính là đời sống dung hoà cả trên dưới và ba bề bốn bên. Không bỏ mất một phía nào, mà mỗi khía cạnh, mỗi công việc đều quán xuyến chu toàn. Các nhà Nho hiển đạt ngày xưa như Trần Hưng Ðạo, Nguyễn Trãi, Lê Quý Ðôn, Nguyễn Quỳnh là những quân tử đã đạt đạo sống toàn diện tròn đầy. Những người trẻ ngày nay thành tựu trong nhiều lãnh vực: sĩ kiêm bách nghệ, có đầu óc phổ
biến chu tri cũng chính là những hình ảnh của Toàn Diện.
Những dòng truyền thống lập thành những đạo sống trên đây đã minh chứng hiển nhiên cho một nền Thần Học Nhân Bản của người Việt hôm qua hôm nay và ngàn đời. Bây giờ đây ta mới có đủ dữ kiện để trả lời câu hỏi của lịch sử: Tại sao người Việt lại dễ đón nhận Kytô giáo một cách dễ dàng như vậy ? – Chính là nhờ tinh thần đạo ông Bà đã sẵn có một nền Thần Học nhân bản tâm linh: Thiên nhân tuơng dữ.