Việt Triết Luận Tập (Quyển Thượng)
Chương IV
Bản Thể Và Ðặc Tính Việt Triết

Gs. Trần Văn Đoàn

Tiền ngôn

Trong chương trước, chúng tôi đã bàn về những chiều hướng của triết học hiện đại. Qua cách trình bày về ý nghĩa của triết học, cũng như qua sự phê bình những lỗi lầm căn bản mà giới trí thức từng vấp phạm, chúng ta đã xác quyết một cách gián tiếp nền Việt triết. Chương này trình bày bản chất, cũng như những đặc tính của Việt triết theo một lối nhìn khoa học, nhắm xác định một cách trực tiếp sự hiện hữu của nó. Thế nên, độc giả sẽ nhận ra là trọng tâm của chương sách không phải là một trình bày (exposition) hay diễn tả (description) song là chứng minh (proof) nền Việt triết. Ðể có thể thuyết phục giới triết học và khoa học, tác giả sẽ theo một hệ thống luận lý khoa học: trước hết xác định ý nghĩa cũng như đặc tính của một nền tri thức khoa học; sau đó phân tích bản chất cũng như đặc tính của Việt triết để xem chúng có phù hợp với một nền tri thức khoa học hay không. Từ đây, tác giả sẽ xác định vị trí của Việt triết theo hệ thống của tri thức khoa học. Theo lược đồ này, chương này gồm ba phần chính: (1) phần thứ nhất bàn về ý nghĩa cũng như hệ thống của tri thức khoa học; (2) phần thứ hai phân tích bản thể và tính chất của Việt triết; và (3) phần cuối cùng xác định vị trí của Việt triết theo hệ thống cũng như phương pháp của kiến thức.

1. Tri Thức, Khoa Học và Tri Thức Khoa Học

Như đã từng bàn một cách tổng quát về ý nghĩa của tri thức khoa học rải rắc đó đây, chúng tôi hiểu tri thức (savoir) khác với kiến thức (connaissance), và tri thức không hoàn toàn đồng nghĩa với tri thức khoa học (scientific knowledge, le savoir scientifique). Trong đoạn này, chúng tôi xin phép được đi sâu hơn vào vấn đề, một phần để vạch ra một số hiểu lầm về khoa học, và một phần khác để làm một tiền đề chứng thực sự hiện hữu của Việt triết.

1.1. Kiến Thức và Tri Thức

Tự thời Hy Lạp, tri thức (episteme) biểu tả một năng lực của nhận thức (faculty of knowledge). Nó không phải, và không thể đồng nghĩa với kiến thức, tức một tri thức đã thành hình, có tính cách cá biệt, thường bị hạn hẹp và lệ thuộc vào điều kiện của không gian và thời gian. Thế nên tự Plato, chúng ta đã thấy có hai loại tri thức, một loại thuộc thế giới hiện tượng, và một loại khác thuộc thế giới chân thật và vĩnh cửu, đó là thế giới lý hình (the world of ideas). Aristotle phân biệt ra thành ba loại tri thức: tri thức thuần túy (pure science), tri thức thực hành (practical science) và kiến thức (empirical, factual science). Tới thời hiện đại, Kant đồng nghĩa tri thức với khả năng tư duy theo lý trí. Ðối với triết gia người Phổ này, tri thức thuần túy là tri năng (Vermògen, faculty of knowledge) dựa trên quy luật của lý trí thuần túy, trong khi tri thức thực hành là sự việc áp dụng tri thức thuần túy vào những phán đoán đạo đức, hay nói cách chung, thực hành.

Nơi đây, chúng tôi xin đi sâu vào lý do phân biệt giữa tri thức thuần túy, sự tương quan của nó với lý trí, và lý do tại sao nó đại biểu cho một loại tri thức mà chúng ta gọi là tri thức khoa học.

Vậy thì tri thức thuần túy là gì? Thực ra đó là một loại tri thức bao gồm hai đặc tính: phổ quát (universal) và tất yếu (necessary). Thứ nhất, nó không lệ thuộc vào bất cứ yếu tố nội tại hay điều kiện ngoại tại. Nói cách khác, nó không bị lệ thuộc vào hai yếu tố của thời gian và không gian. Thí dụ, một tri thức như “con người là một sinh vật phải chết,” hay “thân thể bao gồm tất cả mọi bộ phận thuộc thân thể,” hay “độc thân là người ở một mình,” vân vân. Một loại tri thức như thế có tính cách phổ quát (universal), tự nó đã đủ (self-sufficient). Chúng ta có thể thêm các yếu tính khác vào mệnh đề trên, song chúng ta không thể cắt bớt từ mệnh đề này bất cứ một yếu tính nào. Thêm vào, mệnh đề chính cũng không thay đổi chi. Thí dụ “độc thân là người không có gia đình, không con không cái không vợ không chồng, chưa (không) lấy vợ (chồng)…” Tất cả những câu thêm vào không thay đổi bản chất của “độc thân là người ở một mình.” Ngược lại, nếu cắt bớt bất cứ một câu hay chữ nào, mệnh đề sẽ sụp đổ. Thí dụ chúng ta không thể nói “độc thân là người,” hay “cái bàn ở độc thân.” Bởi vì một câu nói như vậy đúng là ngớ ngẩn hay vô nghĩa. Nói theo ngôn ngữ của luận lý, một tri thức tự đủ, hay một tri thức phổ quát là một tri thức xây trên mệnh đề phân tích (analytic proposition). Ðó là một mệnh đề mà tất cả mọi đặc tính của nó đã nằm sẵn trong tiền đề. Thứ hai, tri thức phổ quát có thể áp dụng vào các đối tượng khác nhau, trong bất cứ xã hội hay môi trường nào, song đều nói lên cùng một đặc tính. Ðó là tính chất tất yếu (necessary) của tri thức thuần túy. Nói cách khác, cho dù áp dụng thế nào, cách chi, vào đâu thì mệnh đề vẫn giữ nguyên bản chất của nó mà không thể thay đổi. Thí dụ “con người là một sinh vật phải chết.” Chúng ta có thể thay đổi con người thành người Tầu, người Việt, người Mỹ, người Tây; chúng ta cũng có thể nói người Việt hồi xưa, người Việt trong tương lai, người Việt hiện nay; chúng cũng có thể thay đổi, người Việt tại Hà Nội, Sài Gòn, tại Mỹ, tại Pháp… Song cho dù thay đổi thế nào, vẫn không thể đánh mất cái bản chất của con người là phải chết. Nói tóm lại, một tri thức thuần túy phải mang hai đặc tính của phổ quát (universal) và tất yếu (necessary). Một tri thức như vậy có thể thấy một cách hiển nhiên trong các mệnh đề toán học, và sau thời Newton, trong các phương trình vật lý. Thí dụ, phương trình 1 = 1 hay công thức f = m luôn luôn đúng trong thế giới hình học của Euclides và thế giới cơ khí của Newton. Nó vượt khỏi thời gian và không gian một chiều.

Chính vì vậy, mà các triết gia và toán học gia nhận định rằng, bất cứ một tri thức thuần túy nào, cũng phải là một tri thức khoa học; mà tri thức khoa học phải là một tri thức có hai đặc tính phổ quát và tất yếu. Tri thức này được thực chứng bằng các nguyên lý như nguyên lý đồng nhất (principle of identity) và không mâu thuẫn (principle of non-contradiction). Một tri thức không đồng nhất, hay mâu thuẫn không thể có phổ quát tính và tất yếu tính, và lẽ tất nhiên không phải là tri thức khoa học. Chúng ta không cần phải lập lại nơi đây là nguyên lý đồng nhất này cũng là nền tảng của vật lý, như thấy trong công thức về sự cân bằng giữa lực và vật thể f = m, và lẽ dĩ nhiên của toán học như (1 = 1), hay (n + 0 = 0 + n), hay (+ n – n = – n + n = 0) vân vân.

1.2. Tri Thức Khoa Học

Một tri thức phổ quát và tất yếu như thế được người Hy lạp gọi là episteme, và dịch sang La ngữ là scientia. Người Nhật dịch sang Nhật ngữ là khoa học, và được người Tầu chấp nhận. Bị ảnh hưởng của Hán ngữ, người Việt chúng ta hiểu khoa học theo lối giải thích của người Tầu, cho rằng chỉ có những tri thức của khoa học tự nhiên như toán học, vật lý học mới đúng là khoa học.

Sự hiểu khoa học theo nghĩa hẹp như trên không hoàn toàn sai, song chắc hẳn không chỉnh. Bởi lẽ, nếu từ lịch sử biến hóa của ngôn ngữ, quan niệm và lối sống, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra là một quan niệm về khoa học theo nghĩa hẹp như trên chỉ mới phát xuất từ thời cận đại mà thôi. Thế nên, như chúng tôi đã nhắc tới sự lẫn lộn giữa tri thức và nhận thức hay kiến thức, nơi đây cũng cần phải nhắc sơ qua sự nhầm lẫn giữa tri thức và khoa học, nhất là sự đồng nghĩa khoa học với cái học của một loại tri thức cá biệt nào đó tức học khoa (khoa học theo nghĩa hiện đại.) Thứ nhất, nếu theo lịch sử diễn biến của ngữ căn, khoa học đồng nghĩa với tri thức. Như chúng tôi đã trình bày trong đoạn trên, khoa học là một tri thức phổ quát và tất yếu. Chỉ từ thời triết học “tân tiến” (modernus), mà chúng ta còn gọi là triết học “hiện đại” (modern philosophy) hay cận đại (theo thứ tự thời gian,) khoa học mới tách rời và được hiểu như là một môn tri thức hợp với một phương pháp cố định, hay đồng nhất với một học khoa. Trên một khía cạnh nào đó, Bacon coi science như là một tri thức được xây dựng trên phương thế thí nghiệm hay trắc nghiệm. Nói cách khác, đối với Bacon, tri thức là khoa học thí nghiệm (experimental sciences). Ðối với những người như Locke và Hume, tri thức chỉ có thể có nếu chúng được xây trên những kinh nghiệm chung (common experience hay common sense theo Locke), hay trên sự tất yếu liên quan của kinh nghiệm (Hume). Ðối với Comte, và gần đây, trường phái thực chứng, thì tri thức là khoa học thực chứng (positive sciences). Từ một khía cạnh khác, Descartes hiểu khoa học như là một nền tri thức phổ quát và tự túc (self-sufficient). Ông coi tri thức toán học mới là tri thức chân thật, và từ đây, ông cả quyết rằng, chỉ có những tri thức dựa theo một lối suy tư toán học mới là tri thức khoa học. Descartes còn đi xa hơn nữa, cho rằng ngay cả siêu hình học cũng phải đặt nền tảng trên một phương pháp toán học như vậy. Những người theo Descartes như Spinoza càng nỗ lực áp dụng phương pháp toán học vào trong tất cả mọi tri thức, bao gồm luân lý và cả thần học. Lý do mà Descartes, Spinoza, Leibniz chọn toán học như là một tri thức khoa học, bởi vì nó toàn mỹ, không bị lệ thuộc vào không gian và thời gian, và có thể áp dụng vào trong tất cả mọi tri thức. Toán học là tiêu chuẩn để xác định sự chân thực của tri thức. Toán học cũng là hình thức đẹp đẽ và cân đối nhất của thẩm mỹ học, thí dụ như  trong âm nhạc của Johannes Sebastian Bach, trong điêu khắc của Michael Angelo, trong họa phẩm của Leonardo da Vinci, vân vân.

Tuy vậy, nếu khoa học là một tri thức toàn mỹ biểu tả chân lý, mà chỉ có một chân lý duy nhất, vậy thì chúng ta phải đặt lại vấn đề khoa học nơi đây. Bởi lẽ, lối nhìn của chủ thuyết kinh nghiệm của Locke ngược lại với lối nhìn duy lý của Descartes, và cả hai trường phái đều dùng phương pháp khác nhau. Nếu Descartes chủ trương phương pháp phân tích và trực giác, thì Locke lại chủ trương kinh nghiệm và phương pháp quy nạp. Kant đã nhìn ra những khó khăn trên, nên ông hiểu khoa học theo một nghĩa rộng hơn: khoa học là một tri thức xây trên kinh nghiệm, song đó là kinh nghiệm có tính chất phổ quát và tuyệt đối. Toán học cũng chỉ là một tri thức khoa học. Tri thức này không có tiên thiên (a priori) như Descartes chủ trương, song cũng không phải hậu thiên (a posteriori) như Locke nhận định. Tri thức khoa học là một tri thức tiên nghiệm (transcendental), có nghĩa là một tri thức xây trên kinh nghiệm song kinh nghiệm này có tính cách tiên thiên (phổ quát) và tất yếu. Ðể chứng minh một nền tri thức khoa học như vậy, Kant bắt buộc phải chứng minh là mệnh đề toán họ�c là một mệnh đề “tổng hợp tiên thiên” (synthetic a priori). Vì phạm vi của bài viết, chúng tôi sẽ không đi sâu vào luận đề cũng như khó khăn của Kant. Ðiểm mà chúng tôi muốn nhấn mạnh nơi đây, đó là dẫu cho rằng Kant có lý và tiến bộ hơn so với Descartes và Locke, ông vẫn hiểu tri thức theo nghĩa một nền khoa học có tính chất phổ quát và bất biến, vượt thời gian và không gian. Nói một cách khác, theo Kant thì bất cứ tri thức nào, bao gồm siêu hình học, đều phải cấu tạo theo mẫu tổng hợp tiên thiên, tức xây dựng trên những kinh nghiệm có tính chất phổ quát và tất yếu. Những tri thức như vậy được Kant gọi là tri thức thuần túy, hay tiên nghiệm (transcendental).

Lẽ tất nhiên những định nghĩa về khoa học như trên không hẳn là sai, song cũng không hẳn có thể hoàn toàn nói lên bản chất của khoa học. Sau thời Einstein, chúng ta đã bắt đầu nhận ra là khoa học cũng khó có thể đồng nhất. Mặc dù cố gắng, ngay các nhà khoa học, nhất là các vật lý học gia lượng tử như Max Planck, Werner Heisenberg, Niels Bohr, Erwin Schròdingger, etc. đều nhận ra dự án của một nền khoa học thống nhất không dễ thực hiện. Albert Einstein cũng bác bỏ sự hiện thực của cơ khí lượng tử (quantum mechanics). Nhà bác học này đi theo một hướng khác; ông nỗ lực tổng hợp lý thuyết tương đối (general relativity) với nguyên lý bất định (the principle of uncertainty), để xây dựng nền khoa học thống nhất, nhưng đã không thành công. Nói tóm lại, dẫu rằng con người luôn cố gắng xây dựng một nền khoa học tuyệt đối, song khó có thể thành công. Như chúng tôi sẽ bàn thêm về bản tính của khoa học trong đoạn tới: chúng tôi nghĩ như Karl Popper là, khoa học không nhất thiết đồng nghĩa, hay đồng tính, hay đồng hình với bất cứ một loại học khoa nào đó, thí dụ như toán học hay vật lý. Khoa học phải được hiểu theo bản chất của nó, đó là sự luôn không ngừng tiếp tục đào bới các vấn nạn, đi tìm giải đáp bằng cách thí nghiệm, trắc nghiệm hay thực chứng. Hiểu theo nghĩa này, chúng tôi thiết nghĩ là có nhiều nền khoa học mà hình thức hay phương pháp đều khác biệt. Sự khác biệt này tùy theo mục đích, lối sống, cũng như bản chất của vấn nạn. Ðể độc giả có thể nhận ra một cách dễ dàng luận điểm này, chúng tôi xin phân tích sự khác biệt giữa hai nền khoa học tự nhiên và nhân văn.

1.3. Khoa Học Tự Nhiên và Khoa Học Xã Hội Nhân Văn

Những lối nhìn của các triết gia và khoa học gia nói trên tuy không đồng nhất về sự kiến cấu của khoa học, song lại rất đồng nhất về tính chất của khoa học: khoa học là một nền tri thức có tính chất phổ quát và tất yếu. Thực vậy, nếu bàn về tri thức thuần túy, họ có lý; song nếu nói về kiến thức, hay tri thức thực tiễn và thực hành, người ta khó có thể kiếm ra được một nền kiến thức có tính chất phổ quát và tất yếu (a connaissance of universal and necessary character). Chính vì không nhận ra sự khác biệt giữa tri thức và kiến thức, về sự dị biệt giữa mục đích cũng như phương pháp, các triết gia và khoa học gia đã đơn phương cho rằng, nếu chỉ có một chân lý duy nhất, thì cũng chỉ có thể có một nền tri thức duy nhất, đó là tri thức khoa học. Mà đã là khoa học, thì cũng chỉ có một nền khoa học mà thôi, đó là khoa học tự nhiên. Họ theo Galileo và Newton, quả quyết rằng nếu luật thiên nhiên có tính chất phổ quát và tất yếu, thì nó phải được áp dụng vào tất cả mọi lãnh vực cũng như sinh hoạt trong thiên nhiên, bao gồm con người, xã hội và kinh tế. Họ xác quyết là, kết quả sẽ hoàn toàn giống nhau nếu áp dụng cùng một phương pháp khoa học như nhau. Như vậy, họ xác nhận một quan niệm khoa học thống nhất (unified sciences), và quyền uy tuyệt đối của khoa học này (the absolute supremacy of sciences).

Sự thật là các nhà khoa học không hoàn toàn đúng. Những lý thuyết áp dụng khoa học tự nhiên vào đạo đức học như chủ thuyết công lợi (utilitarianism), hay hiệu quả luận (consequentialism), hay quyết định luận (decisionism) đã không thành công trong công việc tiên đoán (predict), áp dụng và giải quyết những vấn nạn đạo đức của con người. Hoặc cực đoan hơn, lý thuyết đạo đức dựa trên mô thức toán học, tức nền đạo đức nghĩa vụ (deontology) của Kant càng không thể áp dụng được. Sự thất bại của các nền đạo đức dựa trên khoa học tự nhiên hay toán học có thể giải thích được bởi sự việc nhầm lẫn giữa khoa học tự nhiên và khoa học nhân văn, và nhất là bởi tư tưởng độc tôn của khoa học thống nhất. Trên thực tế, hai nền khoa học này không đồng nhất; và bản chất của chúng cũng không thể đồng nhất. Nơi đây, chúng tôi xin vắn tắt một số điểm như sau:

– Thứ nhất, mục đích của khoa học tự nhiên khác với khoa học nhân văn. Nếu khoa học tự nhiên nhắm đến tri thức tuyệt đối mà họ có thể kiến cấu nhờ khám phá ra luật tự nhiên, và dựa trên mô hình của tự nhiên, thì khoa học nhân văn nhắm tới tri thức thực hành, hay nhắm tới một nền kiến thức thông dụng, nhắm giải quyết những vấn nạn của con người và của xã hội. Mô hình của khoa học nhân văn không dựa theo một mô hình cố đinh, song dựa theo thế sinh.

– Thứ tới, nếu tri thức khoa học vượt khỏi không gian và thời gian, thì kiến thức của khoa học nhân văn nằm trong xã hội và lịch sử. Kiến thức về con người và xã hội không thể tách rời khỏi xã hội, văn hoá, lịch sử… của con người. Kiến thức con người bị hai yếu tố thời gian và không gian xác định, biến đổi và phủ định.

– Thứ ba, chính vì vậy mà chúng ta không thể áp dụng một cách vô thức phương pháp của khoa học tự nhiên vào trong thế sinh. Nếu phương pháp của khoa học tự nhiên, tự nó đã có những điểm khác biệt, và tự nó luôn phải biến đổi, cải tiến, thì chúng ta càng không có lý do áp dụng phương pháp của nó vào trong khoa học nhân văn. Chúng ta biết, ngay trong toán học, các nhà toán học không nhất thiết chỉ tin vào một phương pháp duy nhất. Phương pháp trực giác (intuition) trong hình học cũng không thể hoàn toàn áp dụng vào toán số được. Ngược lại phương pháp phân tích (analytic) tuy rất quan trọng trong lãnh vực chứng minh, cũng chưa hẳn giúp gì nhiều trong lãnh vực phát minh. Nói tóm lại, phương pháp của khoa học tự nhiên không phải là phương pháp duy nhất, càng không thể áp dụng vào trong tất cả mọi lãnh vực của mọi khoa học, nhất là khoa học nhân văn. Thế nên điểm tối quan trọng là khoa học nhân văn phải tự tìm ra một phương pháp khác biệt để hiểu, tìm và giải quyết vấn nạn của con người xã hội.

1.4. Bản Thể, Bản Chất và Tính Chất

Sự khác biệt giữa khoa học tự nhiên và khoa học nhân văn, như chúng tôi đã nói trên, rõ rệt nhất trong hai tính chất phổ quát (universality) hay phổ biến (generality) và tất yếu (necessity) hay thiết yếu (contingency). Trong khoa học nhân văn, chúng ta không thể có phổ quát tính và tất yếu tính một cách tuyệt đối. Chúng ta chỉ có thể hiểu chúng theo một nghĩa tương đối mà thôi. Ðể tránh ngộ nhận, chúng tôi xin được bàn trong đoạn này về bản chất và tính chất của Việt triết không theo hai yếu tính của phổ quát (universality) và tất yếu (necessity), song theo hai đặc tính phổ biến (generality) và thiết yếu (contingency). Bởi lẽ, như độc giả đã nhận ra về sự khác biệt giữa khoa học tự nhiên và khoa học nhân văn, chúng ta khó có thể dùng cùng một từ ngữ để diễn tả các đặc tính khác biệt của chúng. Sau đây, chúng tôi xin được giải thích thêm về sự khác biệt giữa phổ quát và phổ biến, tất yếu và thiết yếu. Như đã nói đến trong đoạn bàn về khoa học tự nhiên và nhân văn, phổ quát và tất yếu mang tính chất tuyệt đối, trong khi phổ biến và thiết yếu có tính chất tương đối. Thí dụ, phương trình 1 = 1 là một sự thật phổ quát vượt khỏi không gian và thời gian, trong khi “lửa gần rơm có ngày sẽ cháy” là một mệnh đề mang tính chất phổ biến trong một xã hội nông nghiệp mà thôi. Thí dụ thứ hai như mệnh đề “khi nước được đun nóng tới nhiệt độ 100c, nó sẽ bốc hơi” mang tính cách tất yếu; trong khi câu nói “có tật giật mình” chỉ có tính chất thiết yếu. Mệnh đề sau không tất yếu, bởi lẽ có những người có tật mà chẳng giật mình bao giờ cả. Thế nên, chúng ta có thể nói: các mệnh đề (phương trình) toán học hay vật lý thường mang hai tính chất phổ quát và tất yếu; trong khi những mệnh đề về xã hội, tâm lý thường chỉ có tính chất phổ quát và thiết yếu mà thôi.

Trong một mạch văn như vậy, chúng tôi hiểu bản chất (essence) như là tính chất căn bản nhất, mà nếu thiếu nó thì bất cứ một sự vật, hay một con người, một xã hội nào cũng không thể hiện ra như thể chính nó. Nói theo ngôn ngữ của hữu thể học, thì bản chất của một sự vật xác định sự hiện sinh của sự vật (Esse qua ens, Être en tant qu’étant). Nói một cách cụ thể, bản chất của một sự vật, thí dụ như cái bàn, bao gồm chất liệu, hình thức, và công năng. Một vật dụng dùng để viết, ăn, đựng đồ đạc… và được làm bằng chất liệu (gỗ, nhựa, đá…) với hình (vuông, tròn, tam giác, dài…) là một bàn (viết, ăn, vân vân). Nếu cái bàn xuất hiện không theo những bản chất trên, nó sẽ không phải là cái bàn nữa. Hoặc nếu nó xuất hiện dưới những bản chất, hay công năng khác, thí dụ không phải để viết song để nằm, không phải hình tròn song là hình tứ giác dài, thì sự vật đó phải là một cái giường, chứ không phải bàn ăn.

Không hoàn toàn đồng nhất với bản chất, nhưng là căn bản của bản chất, đó chính là bản thể (substantia). Bản thể không những biểu tả tính chất bất khả khuyết, mà còn quan trọng hơn, xác định tính (Bestimmtheit) hay đồng tính (Identity) của hữu thể (Esse ipsum, Being as Being, Être en tant qu’être) và nhất là Uyên nguyên tính (Ursprunglichkeit). Nói cách khác, bản thể nói lên chính sự vật (con người) như chính nó (mình). Thí dụ, con người là chính con người, súc vật là súc vật… Sự khác biệt giữa con người và sự vật không còn chỉ thấy nơi những đặc tính, song trong chính bản thể. Chúng ta có thể nói, con người khác sự vật không phải chỉ do các đặc tính khác biệt, vì rất có thể cả hai có nhiều đặc tính chung như chiếm không gian, cứng mềm, nhỏ, to hay sẽ bị hư mục đi, vân vân. Trường hợp giữa con người nguyên sơ (homo erectus) và một giống đười ươi là một thí dụ điển hình. Tuy cả hai rất gần giống nhau (như thấy nơi các đặc tính), song con người vẫn là con người. Con người tự bản thể không thể là một súc vật. Chính vì vậy, chúng ta có không thể kết luận cho con người là sự vật, ngay khi giữa con người và sự vật có nhiều đặc tính giống nhau.

Khi hiểu bản thể và bản chất như vậy, chúng ta có thể tóm lại như sau: chúng ta chỉ có thể nhận biết bất cứ một sự vật nào nếu khám phá ra những đặc tính (bản chất) của nó. Chúng ta chỉ có thể xác định một vật thể nếu chúng ta nhận ra sự khác biệt giữa bản thể của nó với bản thể của một sự vật khác. Và tiếp theo, chúng ta chỉ có thể ý thức được tộc, giống, nòi… nếu chúng ta nhận ra được bản thể và những bản chất của một nhóm người, hay của một xã hội. Nói tóm lại, nếu bản chất nói lên tính chất đặc thù (particularity), phổ biến và thiết yếu, thì bản thể biểu tả tính chất phổ quát và tất yếu. Bất cứ một tộc, một giống hày một nòi nào cũng chỉ có thể nhận ra được nhờ vào bản thể và những bản chất của họ.

2. Bản Chất Việt Triết

Trong một mạch văn trên, chúng ta có thể quả quyết là bản thể của Việt triết chính là lối suy tư của người Việt, và chỉ của người Việt mà thôi, trong khi bản chất của Việt triết là những đặc tính thiết yếu cho người Việt và phổ biến nơi người Việt. Những bản chất này cũng có thể thấy nơi các dân tộc khác, song không thể thiếu nơi người Việt. Thí dụ như người ngoại quốc có thể có tâm tình Việt, song người Việt không thể không có tâm tình Việt. Trong đoạn này, chúng tôi phân tích những bản chất của Việt triết; đó là những tính chất phổ biến và thiết yếu hiện diện trong lối suy tư, lối nhìn, lối sống, lối nói, lối nghe, lối ăn mặc, lối giao du hay lối diễn tả của người Việt. Nói cách khác, bản chất của Việt triết chính là những đặc thù phổ biến nơi người Việt và xã hội Việt, và thiết yếu để hiểu, nhận ra cũng tiên đoán sự suy tư, hành động, lối sống… của họ. Ðó chính là những đặc tính mà chúng tôi gọi là cộng tính, cộng cảm, cộng ngôn, cộng thể, cộng hoạt, cộng thức, công ích, công lợi, vân vân. Chúng ta bắt đầu với nền tảng của lối suy tư Việt.

2.1. Nền Tảng Siêu Hình

Người Việt tuy suy tư một cách thực tiễn, song luôn dựa trên một nền tảng siêu hình. Nói một cách khác, lối suy tư của họ gắn chặt với những yếu tố siêu hình như trời (thiên), đất (địa). Và họ thường tự đặt mình trong một thế sinh siêu hình trên. Chính vì vậy mà chúng ta có thể nói, nền tảng siêu hình của Việt triết chính là Nhân, Trung và Việt. Người Việt tìm hiểu về chính mình trong mối tương quan với Trời, với đất và với con người (Nhân). Họ khám phá ra cái đạo sống trong cái mạng lưới tương quan này, đó chính là Trung. Họ tìm cách cải tiến lối sống bằng cách chọn lọc và tổng hợp những yếu tố (tính) thích hợp và làm thăng tiến cuộc sống của họ (Việt).

Như chúng tôi đã nhấn mạnh tại nhiều nơi, trọng tâm của Việt triết là chính con người. Thế nên Việt triết phải nói lên hay trả lời những câu hỏi: Con người nghĩ gì? Họ sống như thế nào? Họ tương giao ra sao? Họ giải đáp những vấn đề thể nào? vân vân. Nếu hiểu Việt triết theo những câu hỏi và trả lời, thì chúng ta có thể nói, họ suy tư trong tương giao với Trời, với đất và với con người. Họ sống cũng theo một quy luật hòa hợp giữa Trời và đất và giữa con người (Trung, Nhân), và họ cảm thông với Trời, đất (Việt) và người (Nhân). Sau đây, chúng tôi xin đi sâu hơn vào ba đặc tính siêu hình này: ba đặc tính cấu tạo nền triết học Tam Tài, đó là Nhân, Trung và Việt.

2.1.1. Nhân Triết

Như đã phân tích trong các chương trước, Việt triết trước hết là một nền triết học nhân bản. Trong Việt triết, con người là trung điểm. Trung điểm cũng là trọng tâm, cũng là điểm mà qua đó Trời và đất tương giao, mà quỷ thần chi hội, mà nhân nhân tương dữ. Chính vì vậy, mà chúng ta có thể nói, trong Việt triết, con người không những là đối tượng, mà còn là mục đích; không những là mục đích mà cũng là phương tiện: qua con người để tới con người. Thế nên để hiểu con người Việt, để nhận ra lối suy tư của họ, chúng ta cần phải phân tích con người từ trụ điểm, qua tương điểm, và đích điểm. Nói cách khác, chúng ta bắt buộc phải khám phá ra mục đích của họ (đích điểm), phải nhận ra sự tương giao, cách tổ chức, lối xử thế của họ (tương điểm), và lẽ tất nhiên phải xác định vị thế (trụ điểm) của họ.

Như là một trụ điểm, con người cùng một lúc là điểm xuất phát, là trung tâm, và là cùng đích. Trong Hà Ðồ, Lạc Thư, hay Ðồ Thư Hợp Nhất và trong kiến trúc Thái Thất, con người luôn đứng giữa vũ trụ (đại biểu Ðông Tây Nam Bắc). Trong ngũ hành, con người nằm trong cung thổ, cũng là cung trung ở giữa các cung khác như kim, mộc, thuỷ, hoả. Trong Hồng Phạm, con người nằm ở cung hoàng cực, cũng là trung tâm của hồng phạm. Tuy là trụ điểm, song vị thế của con người luôn biến hoá. Nói cách khác, con người không phải là một hằng tinh cố đinh, song cũng không phải là một vệ tinh chạy vòng theo hằng tinh. Trong hồng phạm, vị thế của mỗi cung không thể tự độc lập, song tương quan. Tương tự, con người tuy là trụ điểm song trong tương quan.

Như là tương điểm, con người chỉ có thể hiện hữu, có ý nghĩa qua chính con người. Ðiều đó có nghĩa là, chính qua sự tương giao mà con người xác định vị thế của mình: cha-con, cha-mẹ, mẹ-con, chú-cháu, bác-cháu… Cũng chính qua tương giao mà con người kiến tạo những hình thức, thể chế, hay những bản chất của họ. Ngược lai, chính cộng thể (common structure) đòi hỏi con người luôn ở trong tình trạng di động tương giao. Vật thì, chúng ta có thể nói, con người tương giao luôn là trụ điểm và đồng thời cũng phải là tương điểm. Bản tính của người Việt do vậy phải là tương tính (relational nature) và hỗ tính (reciprocal nature). Những đặc tính trên cấu tạo thành cộng tính (common nature) của người Việt vậy.

Như là đích điểm, con người coi mình là mục đích. Thế nên, họ vươn lên không phải để biến thành thần như trong văn hóa Hy-La, song thành Thánh. Họ tuy ước vọng trường sinh bất tử, song vẫn là con người. Nói cách khác, đạo nhân của họ là làm con người biến thành một con người toàn vẹn, con người quân tử, con người thánh nhân, tức một con người nối kết Trời và đất (vương), một con người có tai có miệng, biết nghe dân và nói được tiếng nói của dân.

Qua các phân tích trên, Việt triết chú trọng đến con người, song không duy nhân. Bởi lẽ nếu duy nhân thì sẽ đánh mất sự tương quan, hỗ tính, và như thế tự đánh mất chính con người. Và nếu duy nhân, thì con người Việt sẽ không thể siêu việt, và do đó không thể nối kết được Trời và đất. Chính vì thế, ta có thể nói, Việt triết vị nhân chứ không duy nhân. Chính tính cách vị nhân nói lên căn bản siêu hình và đạo dức của Việt triết, đó chính là nhân đạo.

2.1.2. Trung Triết

Nếu chúng ta chấp nhận Nhân triết, mà nguyên lý là đạo nhân, chỉ có thể có trong tương quan giữa con người với Trời, đất và với con người, thì đặc tính siêu hình thứ hai phải là trung đạo. Như là một trụ điểm, song cũng là tương điểm và đích điểm, con người không thể, và không được phép nghiêng về bất cứ phương hướng nào, cho rằng hướng thượng (Trời) hay hướng hạ (đất), hay hướng đông hay hướng tây. Từ nguyên lý của đạo nhân, chúng ta có thể nói nguyên lý thứ hai của Việt triết là đạo Trung, mà chúng tôi gọi là trung triết. Nếu lý thuyết của Kim Ðịnh về Việt nho có thể được chấp nhận, thì trung dung có lẽ là một nền triết lý căn bản của Việt triết. Lẽ tất nhiên, chúng tôi không dám táo bạo như Kim Ðịnh, cho rằng nguyên nho là Việt nho, song không ai có thể phủ nhận được ảnh hưởng của đạo trung dung trên lối suy tư của dân Việt. Câu hỏi mà chúng tôi rất trân trọng, đó là (1) có phải chúng ta chỉ chấp nhận một cách dễ dàng những cái gì thuộc về chúng ta? và (2) có phải bởi vì chúng đã có những đặc tính như vậy, nên một khi khám phá tư tưởng tương tự, cho rằng đến từ ngoại thế, chúng ta chấp nhận ngay, và coi nó như là một bộ phận tất nhiên của thế sinh của mình?

Chúng tôi nghiêng về câu hỏi sau, nên dẫu rằng phát xuất từ Tầu, vẫn coi trung dung là một lối suy tư Việt. Bởi lẽ, ngay cả khi không bị ảnh hưởng của Nho giáo, người Việt vẫn tư duy một cách trung dung; và nhất là, trung dung là phương thế tất yếu từ nguyên lý của đạo nhân.

Trong Trung Dung ta đọc:

“Bất phiên chi vị trung.
Bất dịch chi vị dung.
Trung giả thiên hạ chi chính đạo.
Dung giả thiên hạ chi định lý.”

Trong đoạn này, chúng ta thấy trung mang hai nghĩa “bất phiên” và “bất dịch,” đó có nghĩa là không nghiêng về bên nào, cũng không lệch về phía nào. Song nói như thế, trung mới chỉ ra đặc tính của con người như trụ điểm, song chưa thể vạch ra được con người như tương điểm và đích điểm. Và nếu chỉ là trụ điểm bất dịch, cố định thì làm sao biết được nghiêng hay lệch? Ðể ý thức được bất dịch, bất phiên, con người phải nằm trong một quá trình của tương quan, và phải bị thúc đẩy bởi những mục đích (đích điểm). Nói theo ngôn ngữ của vật lý học Newton, luật cân bằng giữa hấp lực của trái đất và hấp lực của các tinh tú khác khiến con người và sự vật ở trong trạng thái cân bằng. Chính vì vậy, nếu chỉ hiểu trung như bất phiên, bất dịch, chúng ta sẽ không thể nhận ra cái đạo lý của trung hoặc hiểu trung một cách lệch lạc theo nghĩa trung quân, trung thần. Hiểu trung như thế tức là đã đi lệch lạch, phiên về phía vua, phía những kẻ thống trị mà quên dân, quên chính mình. Trung không thể tách rời khỏi dung. Dung là sự dung hòa mối tương quan của con người với con người, với Trời, với đất. Mục đích của dung nhắm giúp con người không đánh mất chính mình (tức trụ điểm), nhưng cũng không đánh mất tương điểm (tha nhân) và đích điểm (con người chân thực, siêu việt). Ta đọc trong sách Trung Dung:

“Hiếu học cận hồ tri.
Lực hành cận hồ nhân.
Tri sỉ cận hồ dung.
Tri tư tam giả,
Tích tri sở dĩ tu thân.”

Vậy nên, trung dung không phải là “lấy đạo trung làm đạo thường,” như Tử Tư hiểu “lệch” hay như cụ Trần Trọng Kim hiểu “phiên.” Trung dung nói lên cái đạo lý vĩnh cửu (thường), đó là chỉ khi nào giữ được cái lực, cái lối sống, cái nhìn, sự suy tư trong một trạng thái trung, bằng cách dung hoà tương quan theo cái đích chung, thì lúc đó mới có thể có “vạn vật hồ yên.”

Hiểu trung và dung như vậy, Việt triết không hoàn toàn giống Nho triết. Việt triết coi trung như trụ điểm, song đó là trụ của tương quan. Trong dã sử, thần thoại và nhân thoại, trung luôn là một nguyên lý căn bản làm cân bằng tương giao. Trong huyền thoại về nguồn gốc Việt tộc, sự cân bằng giữa âm (Âu Cơ) và dương (Lạc Long Quân), 50 con cho mỗi người, rồi giữa núi và biển; mà mẹ thì lên núi (âm + dương), cha thì xuống biển (dương + âm); tất cả diễn tả một sự quân bình, và cân đối. Trong câu chuyện “bánh dầy bánh chưng,” cũng thấy nguyên lý của trung và dung, tức hòa hợp và giữ quân bình và cân đối. Bánh dầy (hình tròn, tượng trưng dương tức mặt trời,) bánh chưng (vuông tượng trưng âm tức trái đất,) nói lên sự hiệp nhất tức dung: âm + dương: “âm dương hiệp nhất tự mình tẩu” (câu nói chơi trong dân gian). Sự hiệp nhất này nói lên tình trạng trung, hay an bình: mẹ tròn con vuông. Trong văn hóa dân gian, nguyên lý trung và dung này cũng là một nguyên lý hướng dẫn mà chúng ta dựa theo để tư duy, sáng tác, hay sinh sống. Nếu nhìn vào nghệ thuật điêu khắc, kiến trúc, và tổ chức, cũng như hành chánh, chúng ta cũng thấy tất cả đều theo nguyên lý của trung và dung. Một cách cụ thể, nghệ thuật thấy trên Trống đồng Ðông Sơn, kiến trúc chùa chiền, hay ngay nhà ở của dân thường… đều có những đặc tính sau: (1) nguyên lý số 3, tức tam tài hòa hợp giữa trời và đất: nhà ba gian, thang ba bậc, chùa tam điện, tam tòa. Hoặc ngay gần đây, đạo Cao Ðài dùng hình tam giác (Mắt trong khuôn tam giác) để diễn tả đấng Tối Cao Ngọc Hoàng Thượng Ðế. (2) Tất cả các yếu tố đều giao kết và thành một. Ta thấy yếu tố giao kết này trong các nghệ thuật, như điêu khắc trên Trống Ðồng, hay trong ngôn ngữ: Giao long, Giao chỉ, Giao châu, Giao quận…

2.1.3. Việt Triết

Bản chất thứ ba của Việt triết có thể gọi là tính chất siêu việt. Siêu việt không có nghĩa vượt xa hơn những dân tộc khác, song biểu tả một ý chí thắng vượt những gian nan, cũng như lối sống phong phú hóa, đa hóa và hội nhập song không đánh mất nguyên tính của mình. Trong đoạn này, chúng tôi xin phân tích một số đặc tính của (siêu) việt triết, dựa vào lối suy tư, cũng như lối tổ chức của dân Việt.

Ðể thắng vượt gian nan, người Việt bắt buộc phải khắc chế những nguyên nhân, hay những đối tượng gian nan. Song khắc phục không có nghĩa là tiêu diệt, nhưng là biến chế, hay biến hóa, hay hội nhập. Thí dụ biến dã thú thành gia súc, hay đồng hóa các tộc khác, hay trốn thoát khỏi bàn tay của kẻ thù to lớn hơn mình bằng cách hội nhập với chính kẻ thù, song đồng lúc vẫn giữ được bản chất của mình, tất cả những sự kiện trên đều nói lên tính chất thắng vượt.

Thứ đến, khi biến hoá, đồng hoá ngoại lực, người Việt không dùng bạo lực, hay tiêu diệt đối thủ, song dùng phương pháp siêu việt. Họ học hỏi chính lối sống, lối suy tư cũng như ngôn ngữ của đối thủ, và tổng hợp với lối suy tư của họ, ngôn ngữ của họ… để “hiểu người, hiểu mình.” Họ biến hoá thế sinh của đối thủ, song không vất bỏ nó. Chính vì thế mà đối thủ dễ dàng chấp nhận lối sống mới. Nhìn vào lịch sử của người Việt, chúng ta có thể nói mà không sợ sai, đó là tất cả lịch sử là một lịch sử của cải đổi, biến hoá thiên nhiên, và kẻ thù. Từ vùng nam Trường giang tới tận bờ biển Ðông Nam, người Việt đã biến hóa thiên nhiên, và những sắc tộc khác. Sắc tộc Việt hôm nay không chỉ là một sắc tộc duy nhất, nguyên thuỷ, thí dụ người Giao Chỉ, hay Lạc Việt. Sắc tộc Việt hôm nay là một sắc tộc có tính chất mở rộng mà ta gọi chung là “Bách Việt.” Bách không chỉ có nghĩa 100, song nghĩa là mở rộng, để thâu nhận thêm.

Tiếp tới, một đặc tính khác của việt triết là tính chất hội nhập. Hội nhập nơi đây không có nghĩa thuần phục, hoặc biến thành người Tầu, hay một sắc dân nào khác. Ðối với người Việt, hội nhập là một phương thế tự vệ, phát triển chính mình và biến hóa thế giới mà họ đương sống, hay “cải hoá” kẻ thù mà họ phải đối diện. Ngay từ những thế kỷ tiên khởi, người Việt đã hội nhập với văn hóa Tầu. Họ không biến thành người Tầu, mặc dù ăn mặc, hay ngay cả ngôn ngữ đều theo Tầu. Ngược lại, chính những kẻ thống trị biến thành Việt, như trường hợp của Sỹ Nhiếp, Mã Viện, hay sau này, trường hợp người Hương, và của người Chàm sau Chế Viên. Ngay cả khi chinh phục dân tộc khác, họ cũng hội nhập vào xã hội của người khác, thí dụ Chàm, hay các sắc tộc vùng cao nguyên. Họ giữ lại một phần nào tập tục, ngôn ngữ của các sắc dân đó. Họ thông hôn song vẫn giữ lại bản chất của họ. Ðây là một sự tổng hợp có tính cách chọn lọc mà chúng tôi từng gọi là siêu việt biện chứng.

Do vậy, việt triết cũng nói lên tính chất quy nguyên, giữ được nguyên tính của tộc Việt. Như đã thấy trong lịch sử, ý thức về gốc nguồn của mình rất mạnh mẽ nơi cộng đồng Việt. Ý thức này được diễn tả trong những nhân thoại như thần Kim Quy, hay Trọng Thủy Mỵ Châu, hay những chuyện anh hùng của Trần Bình Trọng, hay trong câu hịch của Nguyễn Trãi. Thần Kim Quy trả gươm vàng lại cho tộc Việt. Mỵ Châu khi ý thức bị Trọng Thủy (người phương Bắc) lừa, nhất định không tham vinh hoa phú quý theo Bắc, mà nhẩy vào Việt tỉnh tự tử để trung với Nam tộc. Trần Bình Trọng “thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương nước Bắc”. Tất cả những giai thoại trên, tuy không phải là những sự kiện lịch sử, song phản ảnh tất cả lịch sử suy tư, hay lối suy tư phổ biến của người Việt.

Nói tóm lại, việt triết bao gồm những đặc tính khai phóng, tổng hợp, viễn việt song quy nguyên và bảo tồn nguyên tính của Việt.

2.2. Ðặc Tính của Việt Triết

Dựa trên những bản tính siêu hình tiềm ẩn trong bản thể Việt, phần này quảng diễn những đặc tính của Việt triết. Những đặc tính này thực ra chỉ là những thuộc tính (attributes) hay quy tính rút ra từ ba bản chất: nhân, trung và việt mà chúng tôi bàn ở đoạn trên.

2.2.1. Lối Suy Tư Tương Quan

Từ vai trò của con người như là người nối kết Trời và đất, cũng như giữa con người, từ sự biến đổi vị trí của trụ điểm cũng như tương điểm, từ sự chú trọng vào vị trí của trung, và lối suy tư theo trung và dung chúng ta có thể nói, người Việt tư duy một cách tương quan. Lối tư duy này mang những đặc điểm sau:

(1) Chủ thể tuy suy tư, song không phải tự chủ thể, hay về chủ thể (solipsus) như kiểu suy tư của Descartes hay các nhà triết lý duy ngã như Fichte, Schelling và phần nào Hegel. Chúng ta suy tư cũng không hẳn chỉ tập trung vào đối tượng hay đối thể như thấy nơi các triết gia duy nghiệm hay duy thực (Locke, Hume). Lối suy tư của người Việt tập trung vào chính điểm tương quan giữa chủ thể (ngã) và đối thể (tha, hay khách, hay nễ).

(2) Ðiểm tương quan, hay điểm giữa này nối kết chủ thể và khách thể. Nó biểu hiện cộng tính của chủ thể và khách thể (đối tượng). Thí dụ như tình yêu giữa hai người nam nữ là cộng tính của cả hai bên. Không thể có một tình yêu đơn phương. Chính cộng tính này biểu hiện ra được bản tính cũng như đặc tính. Vậy thì, nếu đặc tính của tương quan chính là cộng tính, thì chúng ta có thể nói, chủ thể và khách thể chỉ được xác định trong chính cộng tính. Nói một cách khác, trong mối tương quan như vậy, không ai làm chủ, mà cũng chẳng ai làm khách, bởi vì tất cả đều là chủ. Danh từ xưng hô giữa đôi vợ chồng như “mình ơi,” “nhà tôi”; giữa cặp tình nhân như “anh-em, em-anh;” giữa bạn bè như “chúng mình,” “cậu-tớ”… tất cả đều nói lên chủ tính của những người tham dự.

(3) Vậy nên chúng ta có thể nói, lối suy tư tương quan này cũng diễn đạt sự việc con người Việt chấp nhận những bản tính như đồng vị, đồng tính, đồng thể và đồng tình là những phạm trù tất nhiên. Sự kiện mà ít khi chúng ta để ý, đó là người Việt thích dùng những đại danh từ như chúng ta, chúng tôi, chúng mình… hay dân tôi, dân ta, nước nhà, dân nhà. Lối sử dụng ngôn ngữ như trên phản ảnh một tâm thức (tiềm thức) tập thể (mass-consiousness, mass-subconsciousness) xây trên sự đồng tính, đồng tình, đồng thể và đồng vị.

(4) Không những chỉ biểu tả đồng tính, đồng thể, tương quan còn là cái thước đo sự tiến bộ, hay thoái lui, và phán đoán thiện hảo hay ác dữ. Một tương quan càng sâu đậm, thì tình cảm gia tăng. Ngược lại, nếu tương quan xa cách, tình cảm sẽ trở lên lạnh nhạt. Một tương quan gián đoạn nói lên sự xung đột hận thù. Trong một cái hệ tương quan như vậy, chúng ta có thể hiểu được tư tưởng, hành vi cũng như tổ chức của con người. Dựa theo lối suy tư tương quan này, người Việt xây dựng một hệ thống tổ chức, một nền đạo đức, cũng như nột bảng giá trị để phán đoán.

(5) Hệ đạo đức, thể chế, hay tổ chức hành chánh được kiến tạo từ tương quan, và nhắm bảo vệ tương quan. Chính do mối tương quan mà chúng ta có thể chế quân thần (vua tôi), sư sinh (thầy trò), phu thê (chồng vợ – vợ chồng), phụ tử (cha con), bằng hữu (bạn bè). Song cũng để bảo vệ hệ tương quan này, mà chúng ta chấp nhận nền đạo lý như tam cương ngũ thường của Hán nho. Song cũng chính vì tương quan của người Việt khác với người Tầu, nên sự hiểu biết cũng như áp dụng đạo lý tam cương, ngũ thường không hoàn toàn giống Tầu. Trung dung chi đạo cũng chỉ là một nền đạo lý nhắm giúp hệ tương quan có thể tồn tại, và phát huy công năng.

(6) Nói tóm lại, lối suy tư cũng như quy luật suy tư trong Việt triết là lối suy tư trong tương quan, qua tương quan, và cho tương quan. Những hình thức của tương quan chính là tương giao, tương thông, tương đồng, tương hỗ, tương thân, tương ái… Thế nên, chúng ta có thể quả quyết là, luận lý của Việt triết chính là luận lý tương quan.

2.2.2. Ðộng Tính

Ngoài lối tư duy tương quan, Việt triết cũng tư duy một cách rất việt, hay siêu việt biện chứng. Như chúng tôi đã bàn đến bản tính siêu việt trong phần trên, nên đoạn này chỉ bổ túc thêm vào một đặc tính mà chúng tôi từng gọi là siêu việt biện chứng.

(1) Suy tư từ tương quan và qua tương quan, chủ thể suy tư luôn ở trong trạng thái năng động. Tương tự, đối thể (khách thể) và ngay cả thế giới (môi trường) cũng luôn ở trong một trạng thái tương tự. Một lối suy tư như vậy, một thế sinh tương quan như thế dựa trên bản chất động của con người Việt, mà chúng tôi gọi là động tính. Ðộng tính này tiềm tàng trong tiềm thức Việt, và nhờ vào động năng mà biểu hiện qua hành động, trong các lối tổ chức và ngôn ngữ.

(2) Trước hết, động tính được nhìn thấy trong động năng (bản năng biến động) của tương quan. Khả năng luôn suy tư và tác động trong tương quan của chủ thể khiến mối tương quan luôn biến chuyển: từ chủ sang khách, và ngược lại, từ khách về chủ. Sự biến chuyển này có thể song phương, cũng có thể đa phương, đa diện. Song phương, đó là lối suy tư tương hỗ (reciprocal or mutual thinking); trong khi đa phương, đa diện, đó chính là lối suy tư tinh tòa (constellative thinking). Trong lối diễn tả anh-em, cô-chú, mày-tao, vân vân, chúng ta nhận thấy động tính hỗ tương. Trong lối diễn tả rộng hơn, tức đa phương và đa diện, ta thấy ngôn ngữ tương quan mở rộng theo vị trí (địa vị) của tương quan: Thí dụ: bác-chú-cậu / bác-cô-thím-cháu hay anh-tao-ta-tôi-tớ-em-mày, vân vân. Trong trường hợp sau, cả một chụm tương quan được kiến tạo theo mô hình của tinh toà.

(3) Thứ tới, động năng không phát hiện theo một luận lý của thời gian tuyệt đối (như thấy trong lý thuyết của Newton,) và của không gian đơn chiều và đơn diện (như Euclides xác quyết.) Ðộng năng này cũng không phải ở trong trạng thái vô trật tự. Ðúng hơn, động năng theo một trật tự của vô trật tự (order out of chaos) hay một trật tự không theo luật của không gian và thời gian: “Bất sinh giả năng sinh sinh, bất hóa giả năng hóa hóa.” Theo lối nhìn thường dân, luận lý này được diễn tả qua câu ca dao:

“Sinh con rồi mới sinh cha,
sinh cháu giữ nhà rồi lại sinh ông.”

Vậy thì chúng ta có thể nói, động năng phát hiện theo luận lý của tương quan, chứ không theo luận lý hình thức của Aristotle.

(4) Nhờ vào bản tính năng động, và qua sự phát hiện bản chất của động tính, người Việt cải biến cuộc sống của mình. Sự cải biến này rõ rệt hơn cả qua quá trình của con người vật thể tới con người tương quan, tức con người như là con người, và qua con người. Những mỹ ngữ như quân tử, thánh nhân, liệt sỹ, hiền nhân… nói lên những mẫu người lý tưởng tương quan.

(5) Ðộng tính này không ngừng tác động, ngay cả khi những hoạt động của con người đã được hệ thống hay cơ cấu hóa. Trong các hình thái (thể) của xã hội Việt, hành chánh Việt… chúng ta vẫn có thể nhận ra động tính này một cách dễ dàng. Những lối sống như “phép vua thua lệ làng,” “lệnh ông không bằng cồng bà,” hay “vui vẻ” hơn:

“Nhất sỹ nhì nông,
hết gạo chạy rông,
nhất nông nhì sỹ,”
chứng minh một cách rất “hùng hồn” động tính của Việt triết.

2.2.3. Lối Suy Tư Biện Chứng và Tổng Hợp

Chính động tính này, cộng thêm lối suy tư trung và dung, luôn đặt trên con người như trụ điểm, mà chúng ta thấy một lối sống và suy tư mà chúng tôi tạm gọi là biện chứng siêu việt. Biện chứng có nghĩa là hành động chọn lựa cái hay, gạt bỏ những cái dở, và học thêm những điều mới với mục đích giải quyết những khó khăn của thế sinh Việt. Tổng hợp không mang nghĩa chấp nhận tất cả những yếu tố mới, song chỉ chọn lựa những yếu tố thích hợp khiến thế sinh Việt phong phú và tiến bộ hơn. Một biện chứng tổng hợp như vậy rõ ràng nhất trong những sinh hoạt văn hóa và ngôn ngữ. Tam giáo đồng nguyên trên thực tế là một tổng hợp giữa ba nguyên lý tôn giáo ngoại lai với tông giáo (đạo dân gian và đạo ông bà) của người Việt. Cao Ðài là một tổng hợp mới giữa các tôn giáo tại Việt Nam và văn hóa Tây phương, giữa những giá trị truyền thống và giá trị mới của Âu Mỹ. Hòa Hảo càng nhấn mạnh tới dung và hòa, hai bản tính thiết yếu của Việt triết, và của Việt nho. Càng rõ rệt hơn, ngôn ngữ Việt đa số đều được cấu tạo theo lối siêu việt biện chứng này. Sự tổng hợp, biện chứng mà siêu việt trong ngôn ngữ bao gồm: (1) tổng hợp đơn ngữ. Thí dụ những từ ngữ kép như “trăm năm” (“trăm”, Việt; “năm” trại từ “niên”, Hán,) hay “nhà ga” (“nhà”, Việt, “gare”, Pháp); (2) tổng hợp ý và ngôn như “kim quy” (kim quy: “quy” có nghĩa là rùa, song được hiểu như là trở lại, trả lại – trong thần thoại thần Kim Quy); (3) tổng hợp hai thế sinh. Trong câu “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài,” tâm được Nguyễn Du dùng để tổng hợp hai lối nhìn về định mệnh, tức thiên định của người Hán và Tống, và nhân định của người Việt; (4) tổng hợp hai ý hệ như quan niệm trung quân ái quốc (trung quân, ái quốc, Tầu; biến thành hiếu dân, trọng dân, Việt). Sự tổng hợp này khiến: (1) ngôn ngữ Việt phong phú hơn, song cũng thực tế hơn; (2) tuy cùng viết như nhau, song người Tầu không hiểu nổi ý nghĩa trong mạch văn của Việt. Thí dụ, cùng viết là nghĩa mà chúng ta hiểu khác với Tầu; (3) thứ tự và trật tự rộng rãi hơn. Thí dụ chúng ta có thể nói giản đơn (giống như Tầu), hay ngược lại, đơn giản (người Tầu không có, và chắc chắn không thể hiểu được); (4) ý nghĩa của nó không cố định, song tuỳ theo tương quan.

Ngoài ra, siêu việt biện chứng cũng được người dân Việt biểu tả qua những khát vọng và ước vọng, và nhất là trong lý tưởng của họ. Tứ hải giai huynh đệ, thế giới đại đồng, thái bình thiên quốc tuy là những quan niệm của người Tầu, song thực ra cũng mãnh liệt và âm ỉ trong tâm hồn Việt. Tương tự, không phải vô cớ mà Việt nho dễ dàng chấp nhận tư tưởng của Nhị Trình, hay của Vương Dương Minh. Những lý tưởng như “nội thánh ngoại vương” (Dương Minh), “trí tri cách vật” (Ðại Học), hay “ý dân là ý trời” (Mạnh Tử) cũng đã là những lý tưởng từng có sẵn trong tâm hồn Việt.

2.2.4. Toàn Thể Tính

Ðặc tính thứ tư của Việt triết chính là lối tư duy trong toàn thể và theo toàn thể. Ðặc tính này rút từ lối suy tư tương quan. Sự thật chỉ có thể biết được một cách thật sự khi toàn thể tính của nó được biểu hiện. Tương tự, con người chỉ có thể hoàn toàn được hiểu, nếu toàn thể tính của mình được nhận ra. Song toàn thể tính này chỉ có thể được biểu lộ qua cái mạng lưới tương quan của con người xã hội mà thôi. Từ một nhận định như vậy, chúng ta có thể nói, toàn thể tính là một đặc tính căn bản của Việt triết. Ðể tránh hiểu lầm, chúng tôi mạn phép xin được bàn thêm vài điểm:

(1) Toàn thể không mang nghĩa là tất cả, cũng không nhất thiết là toàn diện, hoàn toàn tự đủ, tự mãn. Nếu hiểu toàn thể tính như vậy, chúng ta sẽ phải chối bỏ động tính, cũng như siêu việt tính của Việt triết. Chúng tôi hiểu toàn thể tính như là một lối suy tư luôn được hướng dẫn bởi ý niệm viên mãn, nằm trong một mạch văn hồng quan (macro-view), và bị ảnh hưởng của sự chuyển động của mạng lưới liên quan của con người xã hội.

(2) Một lối suy tư toàn thể tính ngược lại với lối suy tư nhất nguyên, hay nhị nguyên, và không đồng nhất với lối tư duy đa nguyên. Nếu nhất nguyên quy tụ sự tạp đa của vũ trụ vào một nguyên lý duy nhất (Thượng Ðế, hay đệ nhất nguyên); và nếu nhị nguyên nhận đinh toàn thể tính của sự vật phải bao gồm hai yếu tố, thí dụ con người gồm hồn (anima) và xác (corpus), sự vật được cấu tạo bởi chất liệu (materia) và mô hình (forma), thì lối suy tư toàn thể tính coi con người như chính là sự tổng hợp của tất cả mọi hoạt động trong tương quan. Tuy vậy, toàn thể tính cũng không phải đa nguyên, bởi đa nguyên chưa hẳn theo một trật tự, và thường thì đa tạp. Toàn thể tính đòi hỏi một suy tư theo luật của loàn thể. Mà luật của toàn thể tính chính là luật của vũ trụ và thế sinh trong tất cả quá trình tác sinh, sinh sinh bất nghỉ; và cả trong quá trình tái hồi, tái hiện, cũng như nhìn con người trong quá trình sinh hoạt.

(3) Ngoài ra, toàn thể tính cũng được hiểu như khai hiện tính, như chúng tôi từng trình bày trong đoạn nói về tính chất tổng hợp của Việt triết, và trong các luận văn khác trước đây. Chính tính chất khai hiện này giúp người Việt thâu nhận một cách dễ dàng các truyền thống khác. Cũng chính tính chất khai mở này mà giữa các tộc ít có xung đột. Cũng chính tính chất khai sinh này mà ngôn ngữ Việt càng ngày càng phong phú và súc tích. Và nhờ vào khai phóng, mà con người Việt không dễ dàng bảo thủ, hay chịu khuất phục ngoại lực.

2.2.5. Thực Tiễn và Thực Dụng

Ðặc tính thứ năm của Việt triết là lối suy tư thực tiễn và cụ thể. Hay nói đúng hơn, người Việt suy tư một cách thực dụng (pragmatic). Như chúng ta đã thấy, người Việt không suy tư theo luận lý toán học, trừu tượng. Ðối tượng tư duy của họ là chính thế sinh (tuy nho nhỏ) với những tương quan mà họ đương sống. Cái vũ trụ của họ giống như một tinh tòa, hay như một mạng nhện bao gồm những nhu cầu tất yếu cho sinh tồn, những ý thích và mục đích thiết yếu cho cuộc sống, những con người tương quan xác định chính họ, ý nghĩa của cuộc sống của họ. Cái thế sinh của họ do vậy không trừu tượng, và cũng không hình nhi thượng. Và ngay cả nền siêu hình học của họ cũng rất gần gũi, rất thân thiết và rất cụ thể. Lối suy tư thực tiễn và thực dụng này có thể thấy:

(1) Người Việt nhìn vấn đề theo thứ tự của sinh tồn, phát triển, và hưởng thụ, ngược lại với lối nhìn của Hy lạp và La tinh. Một lối nhìn như vậy được diễn tả trong truyện “Thằng Bờm.” Bờm chọn sinh tồn (nắm sôi) thay vì phát triển (ba bò chín trâu), hay hưởng thụ (cá mè, gỗ lim). Tương tự, những lối suy tư thực tiễn và thực dụng từng là những lối biểu tả thường xuyên và rất được dân gian ưa thích qua ca dao hay vè như:

“Lấy chồng làm lẽ khỏi lo,
cơm nguội đầy rá, cá kho đầy nồi.”

(2) Họ chấp nhận sự kiện, và theo luận lý của thực tiễn chứ không phải luận lý của chân lý. Những câu nói bình dân “có sao ăn vậy,” “ăn sao nói vậy,” “có sao mặc đó” không có nghĩa là 1 = 1, song biểu tả sự chấp nhận sự kiện như là một phần của thế sinh mình. Ðàng khác, đối với người Việt “ba hoa chích chòe” không phải là một sự dối trá, hay là chối bỏ chân lý. Ngược lại, đây là phương thế biểu tả lối nhìn thực dụng và tương quan của họ:

“Yêu ai thì nói quá ưa,
ghét ai nói thiếu, nói thừa như không.”

Thích ai, họ nâng người đó lên tới chín tầng mây; ghét ai, họ lại vùi tới cùng đáy của địa ngục:

“Yêu nhau yêu cả đường đi,
ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng.”

(3) Thế nên chúng ta có thể quả quyết, người Việt không chú trọng tới chân tính, song tới sự chân thật. Chân thật tính được thực chứng qua chính sự hiện thực (realization, hay Verwirklichung), tức thực tiễn tính của nó. Theo nghĩa này, chân thật không mang tính chất vĩnh cửu, bất biến, bất động, song tùy thuộc thế sinh, và tương quan của con người.

2.2.6. Lối Suy Tư Biểu Tượng và Sáng Tạo

Tuy suy tư một cách thực tiễn, người Việt không thiếu sáng tạo. Ngôn ngữ của họ là một ngôn ngữ đa ý, nhiều khi lại ngược ý. Bởi lẽ, họ áp dụng những biểu tượng, biểu ngữ hay ngụ ngôn của những thế sinh khác nhau để biểu tả thế sinh của họ. Biểu tượng mà người Việt sử dụng không theo một hệ thống luận lý như trong luận lý biểu tương (symbol-logic), song tượng hình, diễn tả thế sinh của họ qua những nét tiêu biểu bản chất của mình. Những họa khắc trên trống đồng Ðông Sơn, những nhân thoại, những truyện dân gian… tất cả đều mang nhiều ý nghĩa. Không những thế, chúng khiến trí óc của người Việt hoạt động, tưởng tượng, song cũng sáng tạo. Biết bao tác phẩm văn học về Trọng Thủy – Mỵ Nương, biết bao nhiêu câu truyên về Trạng Quỳnh, Ðoàn Thị Ðiểm, Trạng Trình, vân vân. Nói tóm lại, lối suy tư biểu tượng không chỉ có tính chất tưởng tượng, mà còn mang tính chất sáng tạo. Ðây là một điểm khác biệt giữa Việt triết và các nền triết học Tây phương. Chúng ta biết, câu chuyện “Bạch Tuyết và Bẩy Chú Lùn” không thể được chấp nhận như lịch sử, song những câu truyện về Trọng Thủy – Mỵ Châu, Thần Kim Quy, Thánh Gióng lại là một phần quan trọng không thể thiếu của sử Việt. Lý do tại sao người Việt chấp nhận dã sử, huyền sử và huyền thoại như là một bộ phận của thế sinh của họ, là bởi vì chúng phù hợp với lối tư duy biểu tượng và sáng tạo của họ. Lối tư duy này càng rõ rệt hơn trong ngôn ngữ thường tình, vừa thực tiễn, thực dụng nhưng rất biểu tượng, mà chúng ta có thể kê khai tới gần như vô tận.

Lẽ dĩ nhiên, những đặc tính trên không chỉ thấy nơi Việt triết; song chúng ta có thể quả quyết là, chỉ trong Việt triết, và nhất là trong ngôn ngữ Việt, chúng ta mới thấy những đặc tính trên một cách rõ ràng. Thế nên chúng ta có thể xác quyết là nếu không hiểu những đặc tính trên, người ta khó có thể nắm vững được Việt triết.

3. Tạm Kết

Việt Triết trong hệ thống của kiến thức – Vấn Ðề của phương pháp

Sau khi đã biện minh về sự hiện hữu của Việt triết qua chiến lược gọng kềm (pincer-movement), một bên gạt bỏ những hiểu biết sai lầm về khoa học và triết học, và một bên khác chứng minh bản chất và đặc tính của Việt triết theo lối nhìn khoa học xã hội và nhân văn, phần này sẽ không đi sâu hơn, song chỉ bàn thêm một cách rất ngắn gọn về vài điểm liên quan tới phương pháp Việt triết.

Như chúng tôi từng nhắc phớt qua, nền triết học cận đại, thực ra là một nền triết học của lý tính, và khoa học. Mà đặc tính của lý tính và khoa học, chính là phương pháp khoa học. Thế nên từ Bacon tới Descartes, từ Locke tới Kant, từ Hegel tới Marx, và ngay cả vào thế kỷ thứ 20, từ Russell tới Husserl, từ Wittgenstein tới Heidegger, tất cả mọi triết gia, để xứng đáng là triết gia, trước tiên phải là cha đẻ của một phương pháp khoa học hay triết học nào đó. Tuy nhận ra tính chất quá khích của lối nhìn như vậy, chúng tôi vẫn phải thú nhận là, triết học Á đông nói chung, và Việt triết nói chung, chính vì thiếu một (nhiều) phương pháp khoa học, mà bị quên lãng, hay coi thường, hay bị hạ cấp xuống thành một loại ý hệ, hay tôn giáo.

Trong phần này, chúng tôi không giám cho mình cái “danh dự” khám phá ra một phương pháp triết học chi. Mục đích rất khiêm tốn: chúng tôi muốn chứng minh rằng Việt triết cũng có phương pháp riêng của nó, một phương pháp mà chúng ta có thể tạm cho là chuẩn khoa học (quasi-scientific). Phương pháp này không nhắm tới giá trị khoa học tuyệt đối, song một giá trị tương quan. Nó có tính cách thực dụng nhiều hơn là lý thuyết. Từ một phương pháp như vậy, chúng tôi xác định Việt triết là một hệ thống của nhận thức có tính chất thiết yếu (contingent) và phổ biến (general) về những giá trị thực dụng của người Việt. Giá trị của nó là một giá trị phổ biến và thiết yếu trong xã hội Việt và cho dân Việt mà thôi.

3.1. Vấn Ðề Phương Pháp Khoa Học trong Việt Triết

Ðể độc giả khỏi bị hiểu lầm, người viết xin lập lại nơi đây là chúng tôi đặt Việt triết trong mạch văn của nền khoa học nhân văn và xã hội chứ không phải của khoa học tự nhiên. Ðiều đó có nghĩa là, tiêu chuẩn xác định kiến thức không theo điển phạm (paradigm) của tri thức khoa học tự nhiên. Và như thế, Việt triết không đòi hỏi những hiệu qủa mỹ mãn, hay xây dựng một nền tri thức hoàn toàn xác thực như thấy trong toán học.

Một phương pháp như thế tự nó gắn liền với thế sinh Việt. Chỉ trong thế sinh Việt, chúng ta mới phát hiện phương pháp như vậy; và cũng chỉ với một phương pháp này, mà người Việt có thể giải quyết những vấn nạn của họ một cách hiệu nghiệm hơn. Nếu nói theo ngôn ngữ của y học, có những căn bệnh mà chỉ thấy nơi một giống người và trong một vùng có một khí hậu cố định nào đó (thí dụ bệnh ngứa chân ở Hương Cảng, bệnh phong cùi tại vùng nhiệt đới, bệnh sốt rét hay ngã nước nơi rừng thiêng nước độc, vân vân.) Ðể có thể chữa trị một căn bệnh như vậy, các thầy thuốc bắt buộc phải kiếm y dược liệu (thảo, chất liệu) ngay trong chính vùng đất đó. Ðây là lý do giải thích sự khác biệt giữa thuốc bắc (thuốc Tầu), thuốc nam (Việt, hay thuốc ta), tuy cả hai đều là đông y và có lẽ theo cùng một nguyên lý. Trong nhiều trường hợp, thí dụ trường hợp các bệnh tâm thần, phương pháp chữa trị, ngôn ngữ, thế giới sống… phải là chính ngôn ngữ, thế giới sống của bệnh nhân.

Hiểu như vậy, chúng ta đi thêm một bước và đặt lại các câu hỏi: vậy thì phương pháp của Việt triết là (những) phương pháp gì? Chúng ra sao? Có những đặc tính gì? Ý thức được sự khó khăn trong công việc kiến tạo phương pháp, chúng tôi đã đi tìm hiểu thế sinh Việt, cũng như những bản chất và đặc tính của nó trong hai phần trên. Trong phần này, chúng tôi đưa ra hai phương pháp, rút từ bản chất và các đặc tính của Việt triết, thấy trong thế sinh Việt. Chúng tôi sẽ cố gắng trình bày chúng theo phạm trù “chuẩn khoa học,” tức theo tiêu chuẩn của tri thức phổ biến và thiết yếu.

3.2. Siêu Việt Biện Chứng

Nếu chúng ta chấp nhận đặc tính của Việt triết là siêu việt, và tổng hợp, thì câu hỏi đặt ra nơi đây là nó tổng hợp như thế nào; nó siêu việt ra sao? Trả lời những câu hỏi này, đó chính là công việc đi kiến tạo phương pháp siêu việt biện chứng vậy.

3.2.1. Biện Chứng và Thế Sinh

Trước hết, để tránh bị lạm dụng, chúng tôi cần phải xác định ý nghĩa của biện chứng. Như đã tạm nhắc tới trong đoạn bàn về đặc tính tổng hợp và siêu việt, chúng tôi nghiêng về lối hiểu biện chứng theo truyền thống của Plato và Hegel, và gần đây hơn, theo lý thuyết khoa học của Popper. Mà theo một truyền thống như vậy, biện chứng chỉ là một môn luận lý (logic) nhắm chứng minh sự thật (Plato), hay một quy luật phổ biến (Hegel), hay tính chất khoa học (Popper). Một luận lý như vậy có thể theo mô hình của đối thoại (Plato), hay mô hình của xác định – phủ định – tổng hợp (Hegel), hay đơn giản hơn, mô hình của phê phạm – sửa sai (Popper). Nói chung, luận lý biện chứng không phải là một luận lý hình thức (formal logic), song là cả một quá trình tiến triển không ngừng của thế sinh. Chính vì tính chất động và lịch sử mà môn luận lý biện chứng này phản ảnh thế sinh một cách trung thực hơn. Nó có nhiệm vụ nhận ra quy luật của thế sinh, cơ cấu của xã hội cũng như hướng đi của con người. Chính vì vậy mà luận lý lịch sử này có thể tiên đoán, hướng dẫn cũng như giải thích tất cả quá trình của tri thức và của nhân sinh. Nó nói lên lối suy tư, và lối sống của con người qua ngôn ngữ, luật lệ, tổ chức. Nó diễn tả cộng cảm qua các hình thức của sinh hoạt văn hóa, vân vân.

Nếu hiểu biện chứng trong một mạch văn như vậy, thì khi nói về biện chứng siêu việt, chúng ta thử hỏi có phải người Việt cũng suy tư, và sống theo phương thế biện chứng mà chúng tôi nhắc trên? Hay họ có một lối biện chứng, và siêu việt khác biệt? Nói cách khác, trọng tâm của đoạn này phải làm sáng tỏ tính chất siêu việt và tổng hợp: người Việt siêu việt như thế nào, tổng hợp ra sao? Có phải họ tổng hợp gần giống như quan niệm biện chứng của Hegel hay của Marx? Hay là họ siêu việt theo lối biệt-tụ-thăng, gần giống như biện chứng của Teilhard de Chardin? Chúng tôi không phủ nhận, song cũng không hoàn toàn chấp nhận những lối hiểu như vậy trong Việt triết. Như đã thú nhận, tuy bị ảnh hưởng của Plato, Hegel và Popper, chúng tôi không nghĩ, và không thể mù quáng áp dụng lối biện chứng của họ để nghiên cứu Việt triết. Bởi lẽ rất đơn giản, phương pháp siêu việt biện chứng phải là một phương pháp của Việt, giống y hệt như mạch máu phải nằm trong thân thể của chính mình vậy. Chính vì vậy mà khi dùng từ ngữ, hay lối trình bày của họ, mục đích chỉ để làm sáng tỏ phương pháp của Việt triết mà thôi.

Trước khi phân tích phương thế tổng hợp và siêu việt của người Việt, có lẽ cần phải minh xác vài điểm về sự tương quan giữa biện chứng và thế sinh Việt.

(1) Trước hết, người Việt coi biện chứng siêu việt như chính là sinh hoạt thường nhật của họ, chứ không chỉ là một phương pháp thuần lý thuyết. Thực vậy, người Việt đã áp dụng biện chứng và tổng hợp ngay trước cả Plato, chứ đừng nói tới Hegel và Marx. Lối chọn lựa và tổng hợp được hướng dẫn bởi nhiều mục đích, xếp theo thứ tự của sinh tồn, phát triển và hưởng thụ.

(2) Thứ tới, biện chứng của người Việt không hoàn toàn nội tại và hạn hẹp chỉ nằm trong thế giới hiện tại, song tương quan với thế giới trước và sau. Hiện sinh không thể tách rời khỏi vãng sinh và lai sinh; hiện thế được xác định bởi vãng thế và lai thế. Thế nên, trong biện chứng, hình nhi thượng và hình nhi hạ hợp thành một thế sinh. Cá nhân và xã hội hợp thành một toàn thể. Tương tự, chính vì tự bản chất khai hiện, nên thế giới của người Việt không đóng kín. Nó dễ dàng hòa hợp với các thế giới khác. Song tuy hòa hợp, nó vẫn không đánh mất bản thể. Ngược lại, nó phong phú hơn nhờ vào chính những bản chất của mình như khai hiện, tương quan, năng động…

(3) Tiếp theo, đó là biện chứng không chỉ là một phương pháp, song cũng là lối sống, lối suy tư, nghệ thuật biến hóa. Chính vì vậy mà phương pháp không thể tách rời thế sinh. Nó cũng không thể áp dụng vào các thế sinh khác một cách dễ dàng.

3.2.2. Tổng Hợp Biện Chứng

Nếu biện chứng không thể tách biệt khỏi thế sinh, thì chúng ta phải trở lại câu hỏi then chốt của phương pháp luận: người Việt tổng hợp như thế nào? Và thế nào là tổng hợp biện chứng, hay siêu việt?

Ðược hướng dẫn bởi những mục đích thực tiễn theo một thứ tự (1) mục đích sống còn, (2) mục đích thăng hóa, phát triển, tiến bộ và (3) mục đích hưởng thụ, người Việt tư duy theo một thứ tự đại khái như sau:

(1) Thứ nhất, họ đặt trọng tâm cũa suy tư vào vấn nạn sống còn của họ, của tộc, của “nước”, của “nhà.” Và do đó, họ đi kiếm những vấn nạn uy hiếp sự sống còn của mình. Ðối với họ, khám phá ra kẻ thù, hiểu kẻ thù là bước đầu tiên. Tiếp tới, dùng phương thế nào, vũ khí gì để đánh bại kẻ thù, đó là bước thứ hai. Ðể chiến thắng mà không tổn hại, họ dung hợp những phương thế của kẻ thù với phương thế của họ, dung hợp tình cảm với vũ lực, dung hợp thiên nhiên với sức lực của con người, đây là bước thứ ba. Nếu nhìn theo biện chứng, ta thấy chính đề (thesis) đi tìm vấn nạn khác với chính đề trong biện chứng của Hegel và Marx xác định chủ thể, hay thế giới hiện tại. Trong phản đề (anti-thesis), người Việt tìm phương thế chống lại luận đề (anti-thesis); và trong hợp đề (synthesis), chúng ta thấy người Việt dung nạp những cái hay của kẻ thù với ưu điểm của mình.

(2) Thứ tới, họ áp dụng cùng một phương pháp biện chứng vào trong công cuộc kiến quốc, và cả vào trong lãnh vực văn hóa. Chính vì thế, và theo một mạch văn như vậy, chúng ta có thể nhìn vào phương pháp biện chứng tổng hợp theo một quá trình:

Chính đề: Xác định vấn đề

Phản đề: Tìm phương thế giải quyết

Hợp đề: Giải đáp lý tưởng là phương pháp dung hòa (trung, hòa)

(3) Ðể dung hòa, họ phải tìm ra những cái hay có lợi cho sinh tồn, phát triển và hưởng thụ. Cái hay, cái lợi phải có những đặc tính: thích hợp với con người, với thế sinh (cộng tính); giúp con người phát triển hay vui thú (cộng cảm); không có những hậu quả bất lợi (công ích, công lợi). Nói cách khác, khi dung hòa, họ đã phải đánh giá, chọn lựa, và vất bỏ những điều bất lợi hay thừa thãi. Mà một sự chọn lựa như vậy dựa trên lối suy tư lý tính, tức theo thứ tự và tầm quan trọng của sinh tồn, phát triển và hưởng thụ. Ðây là một sự tổng hợp bằng cách chọn lựa và kết nạp những yếu tính theo lý tính. Chúng tôi gọi phương pháp này là tổng hợp biện chứng.

(4) Tuy nhiên, tổng hợp biện chứng vẫn chưa phải là siêu việt biện chứng. Bởi lẽ, trong nhiều trường hợp, chúng ta dễ dàng chấp nhận hợp đề như một tổng đề tối hậu. Và khi chấp nhận như vậy, chúng ta rất dễ dàng vấp ngã vào cái hố giáo điều, không thể tiến bộ được nữa. Ðây cũng là một lý do tại sao, cha ông chúng ta dẫm chân tại chỗ. Một khi coi hợp đề như là một chặng cuối cùng trong hành trình thế sinh, chúng ta đã phản việt tính.

Nhận thức được sự khiếm khuyết của tổng hợp biện chứng, chúng tôi thiết nghĩ, siêu việt biện chứng không dừng lại ở bất cứ hợp đề nào, song coi hợp đề này như là một chính đề khác tiếp tục phát triển. Lẽ tất nhiên, Hegel và Marx cũng đã nhìn quá trình biện chứng như vậy. Song chính vì các vị quá chú trọng tới một lý tính tuyệt đối vượt khỏi không gian và thời gian, mà bỏ quên, hay không chú trọng tới bản chất cũng như động tính trong tương quan của con người xã hội. Và như vậy, họ đã dễ dàng nghiêng về một tổng hợp đề tuyệt đối như là cánh chung, hay như là một thiên đàng cuối cùng của nhân loại. Chúng tôi thiết nghĩ, biện chứng của người Việt phải nằm trong tương quan của con người, và chỉ qua tương quan này chúng ta mới nhận ra siêu việt biện chứng.

3.3. Tương Quan, Tương Quan Biện Chứng

Nếu lối suy tư của người Việt theo hệ thống tương quan, thì họ xây dựng tương quan như thế nào? Họ hiểu tương quan là gì?

Vấn nạn của con người không phải chỉ đến từ thế giới ngoại tại, mà quan trọng hơn, từ chính con người. Nói cách khác, vấn nạn của con người phát sinh từ hai tương quan: tương quan với thế giới ngoại tại (môi sinh), và với chính thế giới nội tại, mà chúng tôi gọi là thế sinh. Chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh đến sự tương quan, bởi lẽ nếu con người chỉ là một hòn đá, thì môi sinh đối với nó có thể có một tầm quan trọng nào đó, song nó không có thế sinh, bởi tự nó không thể có động tính tương quan với các hòn đá khác. Thế nên, chỉ khi con người, tự bản chất là tương quan và động tính, mới có thể có tương quan.

3.3.1. Tương Quan Thiên Nhiên và Tương Quan giữa Con Người

Tương quan với thiên nhiên thường mang tính cách thụ động. Trong một hoàn cảnh ác liệt, con người phải tìm cách ứng phó. Họ có thể trốn lánh; họ có thể tự bảo vệ, hay họ cũng có thể tìm cách khống chế những vấn nạn ngoại tại. Nói là thụ động, bởi vì con người không thể tạo ra các tương quan mới. Con người càng không thể thay đổi kết cấu (structure), hay cơ thể (organe) của con người, bởi lẽ chúng vốn tự nhiên (natural) như vậy. Thế nên, tương quan giữa thiên nhiên thường mang một sắc thái kết cấu (structural), và giữa con người với thiên nhiên thường có tính chất cơ thể (organical). Tính chất kết cấu và cơ thể này như là một môi trường (medium) có những quy luật (natural laws) mà con người phải theo để kiến cấu (construct) hệ thống tương quan. Hiểu tương quan theo nghĩa này, con người dễ dàng chấp nhận những quan niệm như định mệnh, thiên mệnh:

“Ðã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.”

Trong lối suy tư của Việt, chúng ta không nhận thấy tính chất kết cấu và cơ thể trên. Ngược lại, tương quan được xây dựng theo mô hình kiến cấu (constructive). Tương quan này có thể tăng hay giảm, đa hóa hay giản hóa, gần hay xa tùy theo mục đích cũng như những điều kiện như cộng tính, cộng cảm, cộng nguồn, cộng ngôn, vân vân.

Chính vì vậy mà, người Việt nhân hóa tương quan thiên nhiên, coi thiên nhiên như là một chủ thể và cùng lúc một khách thể. Nói cách khác, người Việt hiểu thiên nhiên theo tương quan của con người. Họ gọi Trời bằng ông, thân thiết gọi mặt trăng là chị, chửi quỷ là thằng, vân vân. Lối xưng hô nói lên sự tương quan gần hay xa, lợi hay hại, hữu tình hay vô tình… Nói cách khác, tương quan giữa con người với thiên nhiên cũng không khác biệt với con người cho lắm. Tương quan này xây dựng trên tình cảm, lợi ích theo thứ tự của bảng giá trị: sống còn, phát triển và hưởng thụ:

“Lạy Trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cầy
Lấy bát cơm đầy
Lấy cá rô to.”

3.3.2. Tương Quan trong Quá Trình Phát Sinh

Con người ý thức đuợc chính mình, ngay vào lúc hắn ý thức tha nhân. Nói đúng hơn, ý thức mình và tha nhân chính là ý thức ra được sự tương quan giửa hắn và tha nhân. Song ý thức tương quan bắt đầu với ý thức về sự sống còn của mình là nhờ vào người khác (hay cơ cấu khác). Ý thức này càng sâu đậm khi người khác rất thân cận, và khi mà người đó dành nhiều thời gian cho mình, và lẽ tất nhiên, khi sự sống còn của mình lệ thuộc vào nguời đó. Nói một cách hệ thống hơn, tương quan của con người phát sinh (hay được kiến cấu) khi:

(1) Chúng ta phát hiện nhu cầu, lợi ích, ý thích chung nơi tha nhân. Hay chỉ qua người khác mà chúng ta mới có thể thỏa mãn được nhu cầu, lợi ích hay ý thích hay ham thích.

(2) Tương quan này biến đổi tùy theo không gian (xa-gần), thời gian (lâu-ngắn), cũng như sự thay đổi (tăng, giảm) của lợi tức, của số lượng người tham dự.

(3) Tương quan được đánh giá bởi mục đích (đạt được hay không) theo thứ tự của sinh tồn, phát triển và hưởng thụ.

(4) Tương quan biến dạng nếu những mục đích biến đổi; biến mất nếu những mục đích trên tiêu tan; bị giảm độ nếu mục đích không cần thiết.

(5) Tương quan gia tăng hoặc giảm bớt, hay phát sinh ra những vấn nạn mới, đều do những điều kiện ngoại tại, hay bởi những tương quan khác: Thí dụ, ta thấy một cách rất rõ ràng trong câu ca dao :

“Có tài lo láo lo kiêu,
Con ngu thì lại lo sao kịp người.”

(6) Tương quan gắn chặt với thế sinh. Một khi thế sinh biến đổi, tương quan cũng biến đổi theo.

3.3.3. Những Vấn Nạn của Tương Quan

Từ những nhận định trên, chúng ta nhận ra những vấn nạn căn bản của con người đều phát sinh từ những vấn nạn của tương quan. Khi tương quan không thể giải quyết những vấn nạn căn bản như sinh tồn, con người hoặc phải từ bỏ thế sinh, hoặc phải tạo ra một thế sinh với những tương quan mới. Một khi thế sinh thay đổi, chúng ta dễ gặp phải khủng hoảng, rối loạn, hay vô hướng. Một khi tương quan xáo trộn, chúng ta cũng sẽ gặp phải những khó khăn tương tự. Một khi bất thình lình có những ý thích mới, ham muốn mới, mà cuộc sống trong tương quan cũ không thể thỏa mãn, chúng ta dễ bị bất mãn. Nói tóm lại, chúng ta khó có thể chối rằng, vấn nạn của con người hôm nay, chính là những vấn nạn trong tương quan;

“Kẻ thù ta đâu có ở người ngoài.
Nó nằm đây nằm ngay ở mỗi ai.”

hay từ sự thiếu tương quan, hoặc vì quá tương quan:

“Ở sao cho được lòng người,
Ở hẹp người cười, ở rộng người chê.
Cao chê ngỏng, thấp chê lùn,
. . . .
Béo trông béo trục béo tròn,
Gầy chê xương sống, sương sườn nhô ra.”

3.3.4. Phương Pháp của Tương Quan hay Siêu Việt Biện Chứng

Nhận ra được những vấn nạn trên, phương pháp của Việt triết bao gồm ba gia đoạn: giai đoạn thứ nhất truy nguyên vấn nạn; giai đoạn thứ hai đi tìm giải đáp, và giai đoạn thứ ba, phát triển phương pháp, giúp chúng ta tìm ra vấn nạn một cách dễ dàng và chính xác hơn, cũng như giải quyết chúng một cách đầy hiệu qủa.

– Trong giai đoạn thứ nhất, chúng ta có thể áp dụng toán số đo lường (1) độ sâu hay nông, (2) độ rộng hay hẹp, (3) quãng cách xa hay gần, (4) tình cảm thân hay nhạt, (5) thời gian lâu hay gần, để phán đoán sự tương giao bình thường, tốt đẹp hay khó khăn. Chúng ta cũng có thể áp dụng toán số để xác định mức độ thân mật hay nghịch thù, bằng cách lượng hóa mục đích (lợi ích, ý thích, ham thích) cũng như ngăn trở. Càng va chạm về vấn nạn sinh tồn, nghịch thù càng khủng khiếp… Càng có một kẻ thù chung, càng dễ thành bạn.

– Trong giai đoạn thứ hai, chúng ta phải đi tìm giải đáp. Một giải đáp tốt đẹp là giải đáp trung và dung, như dĩ hòa vi quý. Song trên nguyên tắc, ngay cả những giải đáp như vậy cũng có thể tính toán theo nguyên tắc quân bình (trung), và hợp với mọi người (dung). Sự quân bình có thể tính theo lượng, như trong trường hợp của những mối tương giao bình thường; song bắt buộc phải tính theo phẩm trong những tương giao thân mật, gần kề và sâu đậm. Tam cương, ngũ thường là những quy luật được tính theo phẩm, bởi vì tam cương nói lên ba mối tương giao quan trọng nhất, thân mật nhất, và gần kề cũng như trực tiếp liên quan tới sinh tồn, phát triển và hưởng thụ.

– Trong giai đoạn thứ ba, những phương thế của giai đoạn thứ hai phải được tiếp tục trắc nghiệm trong những thế sinh mới, khi thế sinh biến đổi, hay khi những ý thích mới xuất hiện. Một khi những phương thế đương áp dụng không còn thích hợp, hay không đạt được những kết quả lý tưởng, thì ta hoặc phải sửa đổi hoặc phải vất bỏ. Thí dụ, ngay cả tam cương ngũ thường cũng cần phải được duyệt lại. Ðạo trung quân không còn giá trị bởi vì thế sinh của chúng ta hôm nay không còn quân chủ; mà ngay cả chữ trung cũng không có cùng một nội dung như trong thế sinh cũ nữa.

Sự sửa đổi các phương thế cũ theo nguyên tắc của siêu việt, bao gồm vượt xa, vượt hơn, vượt mãi. Chính sự đòi hỏi phải tiếp tục siêu việt, không ngừng siêu việt theo nguyên lý vượt hơn, đã khiến người Việt có thể tồn tại sau cả ngàn năm bị Tầu đô hộ, gần một trăm năm bị Tây thống trị.

Ðể tạm kết nơi đây, chúng ta có thể tạm đưa ra một phương pháp của Việt triết mà chúng tôi gọi là siêu việt biện chứng, theo một quá trình như sau:

(1) Chính đề: Vấn nạn của con người không phải là con người, song chính là sự tương quan bất hòa. Thế nên,

“Kẻ thù ta, đâu có phải là người!
Giết người đi, thì ta ở với ai.”

(2) Phản đề: Nguyên nhân của sự bất hòa nằm trong chính con người thiếu tương quan. Mà sự thiếu tương quan do sự xung đột về quyền lợi, ý thích, tài, tình,danh vọng… tức những tư lợi hay công lợi liên quan trực tiếp hay gián tiếp tới sự sống còn, phát riển và hưởng thụ của con người.

(3) Hợp đề: Ðể giải quyết, chúng ta phải khôi phục tương quan, hay mở rộng tương quan. Mà mở rộng tương quan, chính là bản chất của Việt vậy.

Ðài Loan, Năm 2000
Thụy Sơn Trần Văn Ðoàn

Việt Triết Luận Tập (Quyển Thượng)
Chương III
Phản Tư Về Những Chiều Hướng Triết Học Hiện Ðại

Gs. Trần Văn Ðoàn

Tiền Ngôn

Trong chương này, chúng tôi tóm lược chiều hướng của các nền triết học hiện đại, mục đích không phải để giới thiệu, song để minh xác một cách gián tiếp sự hiện hữu của một nền Việt triết. Như chúng tôi sẽ trình bày sau đây, triết học không tự hạn hẹp vào một lối nhìn, một phương pháp hay một nền siêu hình, một nguyên lý nào đó. Triết học càng không đồng nghĩa với bất cứ ý hệ (ideology) nào; càng không nhắm bảo vệ một chế độ, một tổ chức, một truyền thống, một tập quyền, một tôn giáo hay một giá trị nào. Ngoài ra, công năng của triết học cũng không phải chỉ hạn hẹp vào một công năng cố định, dẫu rằng công năng ấy cao quý và tuyệt vời. Bởi lẽ, triết học không phải là một công cụ, càng không phải là một vũ khí, cũng không phải là một kiến thức khoa học chuyên biệt như toán học, y học… Vậy thì triết học là gì? Ðọc giả sẽ nhận ra một cách dễ dàng qua cách trình bày diễn biến của triết học trong lịch sử nhân loại ở phần này. Chúng tôi cố ý không đưa ra một định nghĩa, cũng không dựa theo bất cứ một bảng giá trị bất biến (Tây phương hay Ðông phương) để xét đoán triết học, bởi lẽ không có định nghĩa nào, cũng chẳng có bảng giá trị chi đầy đủ trọn vẹn. Chính vì thế, chương này chỉ trình bày những ưu và khuyết điểm của các nền triết học một cách khách quan mà thôi. Qua một cách trình bày như vậy, chúng tôi muốn xác định rằng bất cứ một định nghĩa hay một bảng giá trị nào gắn cho triết học, tự nó đã phản triết học. Ðây là một nguyên lý căn bản giúp chúng tôi phê bình nhãn quan bản vị, ý hệ, và công cụ về triết học mà chúng tôi nghĩ là chưa đủ, hay lệch lạc, hay bá đạo. Những nền triết học tự phong cho mình tính chất “tuyệt đối,” “trường cửu,” “khoa học,” thực ra chỉ phản ảnh bản chất bá đạo nguy hiểm này. Chúng độc tôn, độc vị, độc quyền và độc tài thống trị (một cách phản triết học) tất cả mọi nền triết học cá biệt. Chúng biến thành các nền ý hệ mạo danh triết lý, tự thổi phồng lên hàng minh triết. Cũng dựa vào nguyên lý “phê phạm thuần tuý” này, chúng tôi xác quyết tính chất khai phóng (Karl Popper), tự mạc khải (Martin Heidegger), tự thăng tiến (Karl Jaspers), siêu việt (Thomas Aquinas, Teilhard de Chardin), tiến về hoàn thiện (Jacques Maritain) nhưng luôn nhân bản và vị nhân (Khổng Tử) của triết học. Ðồng thời chúng tôi cũng thâm tín công nhận rằng triết học không thể tách biệt khỏi thế sinh (Lebenswelt, Life-world) như Edmund Husserl và Ludwig Wittgenstein đã xác tín. Triết học phản ảnh, phản tỉnh và thúc đẩy khiến thế sinh biến đổi và thăng hoá. Chỉ trong một mạch văn như vậy, chúng tôi xác quyết sự hiện hữu của một nền Việt triết.

Chương này xác định một cách giản lược lại ý nghĩa cũng như công năng của triết học. Chúng tôi trình bày ý nghĩa và công năng của triết học trong hai phần chính: (1) phần thứ nhất vạch ra những hạn chế, hay sai lệch, hay cực đoan về ý nghĩa và công năng của triết học; và (2) phần thứ hai lược trình các chiều hướng của triết học hiện đại. Chúng tôi sẽ trình bày các chiều hướng trên không theo thứ tự xuất hiện trong lịch sử, song theo công năng của triết học.

1. Triết Học : Ý Nghĩa và Công Năng

1.1. Hành Trình Triết Học – Tùng Tây đáo Tầu nhập Việt

Theo truyền thống triết học Tây phương từ Aristotle qua Kinh Viện tới cận đại, suy tư một cách mạch lạc và sáng sủa là một đức tính tối thiểu của người học triết học. Thế nên trong bất cứ một tự điển triết học nào, trong bất cứ một tập sách nào có tính chất khái niệm về triết học, tác giả thường phải đưa ra một định nghĩa (definition) về triết học. Song le, có lẽ chúng ta chưa bao giờ thấy có một định nghĩa chung, hay hoàn toàn giống nhau. Ðặc biệt hơn cả, đó là, bất cứ triết gia nào, theo đúng nghĩa của triết gia, cũng có một lối nhìn khác biệt về triết học. Và do đó, ông định nghĩa triết học thường khác với những người đi trước. Ðể chứng minh xác thực tính và hữu hiệu tính của triết học của mình, ông bắt buộc phải phát minh một phương pháp mới. Ðây cũng là lý do tại sao các triết gia cận đại và hiện đại thường đưa ra những định nghĩa cũng như khởi xướng các phương pháp triết học mới.

Ngược lại, trong truyền thống của Ðông phương, nhất là của Ðạo gia, người ta họa hiếm mới thấy một giải thích (theo mạch văn của định nghĩa) về triết học. Người ta cũng chẳng mấy để ý tới phương pháp luận. Chúng ta có lẽ sẽ ngạc nhiên và nghi vấn: Nếu triết học là một môn khoa học chắc chắn như Descartes cũng như Kant đòi buộc, và nghiêm túc như Edmund Husserl chủ trương, tại sao không thể có một định nghĩa chung; càng không thể có các mệnh đề chắc chắn, cũng như các nguyên lý, định lý, định đề như thấy trong toán học? Tại sao mỗi người đều có những lối nhìn khác biệt về triết học? Và tại sao không thể có một phương pháp nhất quán trong triết học?

Nếu nhìn vào các nền triết học Ðông phương, nhất là triết học Trung Hoa và Việt Nam, chúng ta hoặc may hoạ mắn mới thấy một vài lời bàn về triết học, đừng nói đến một định nghĩa. Lẽ dĩ nhiên, như chúng tôi đã nhắc phớt qua, từ ngữ triết học quá mới mẻ đối với người Việt, và ngay cả người Tầu. Chính vì thế, một ý niệm về Việt triết có vẻ là lạ sao đó. Khi người Nhật vào thời Minh Trị Thiên Hoàng dịch tiếng philosophia qua tiếng của họ, thì người Trung Hoa vẫn chưa có một khái niệm rõ rệt về triết học. Những tân nho như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Nghiêm Phục… hoàn toàn dựa theo Nhật ngữ. Trước họ, các cựu nho cho rằng tất cả mọi nền học vấn ngoại lai là Tây học hay Thiên học. Chúng ta phải đợi đến thế kỷ 20, mới thấy có một quan niệm rõ ràng về nền triết học Trung Hoa. Bộ Trung Quốc Triết Học Sử Ðại Cương của Hồ Thích xuất hiện năm 1918, trong khi bộ Trung Quốc Triết Học Sử của Phùng Hữu Lan xuất hiện vào năm 1931. Song chỉ có Hồ Thích mới đưa ra một định nghĩa về triết học. Ðáng tiếc thay, họ Hồ cũng chỉ sao y bản chính định nghĩa triết học của triết gia người Mỹ, ông John Dewey, một người tiêu biểu của triết phái thực dụng (pragmatism). Dewey coi triết học như là một công cụ giúp ta tìm kiếm những nguyên nhân căn bản của nhân sinh, và tìm cách giải quyết những vấn nạn đó. Ông định nghĩa triết học như một lý thuyết về sự phê bình đi tìm nguyên nhân; và giá trị tối cao của nó là sự tiếp tục đi tìm kiếm công cụ để phê bình tất cả mọi giá trị gì thấy trong kinh nghiệm của cuộc sống con người. Như chúng tôi sẽ nhận định trong phần tới, một định nghĩa như vậy không sai, song thiếu sót. Bởi lẽ triết học không chỉ có tính cách công cụ (instrumentality) như kỹ thuật. Triết học tự nó đã là một sự khôn ngoan (sofia) và là một mục đích mà con người đeo đuổi (như Socrates đã nhận định,) tuy chưa hẳn là một mục đích tối hậu. Có lẽ ý thức được sự thiếu sót của Hồ Thích, Phùng Hữu Lan không giám đưa ra một định nghĩa chi về triết học. Trong bộ Trung Quốc Triết Học Sử, ông vòng vo tam quốc giải thích sự khác biệt giữa đông tây, với mục đích biện minh cho bộ triết sử của ông. Song trong tập A Short History of Chinese Philosophy, ông hiểu triết học như tôn giáo, và một cách đặc biệt, như Nho và Ðạo học. Bởi lẽ Nho học và Ðạo học đều đặt cuộc sống con người làm trung tâm của suy tư. Ông viết: “Về phần tôi, cái mà tôi gọi là triết học phải là sự tư duy có hệ thống và phản tỉnh về cuộc sống.”

1.2. Vạn Sự Khởi Ðầu… Sai!

Từ hai định nghĩa triết học của hai người đại biểu của giới triết học Trung Hoa vào đầu thế kỷ 20, chúng ta thấy quả thật quá nhiều thiếu sót. Nếu họ Hồ giản lược triết học vào một vai trò công cụ, thì họ Phùng lại đồng hoá triết học với một hành vi tư duy (speculative thinking). Như Lão Tư Quang nhận xét khá đúng, chính vì bị ảnh hưởng của một vài triết gia như John Dewey, Thomas Huxley (trường hợp Hồ Thích), hoặc hai trường phái tân Plato và Tân thực nghiệm (trường hợp Phùng Hữu Lan), mà lại không thấu hiểu tất cả quá trình phát sinh của triết học, cũng như nguồn gốc của quan niệm triết học, nên hai họ Hồ và Phùng đã làm triết học Trung Hoa lạc đường.

Tương tự, chúng ta cũng có thể nói, ngay từ lúc phôi thai, vì bị ảnh hưởng của triết học Pháp, và của Marx quá trầm trọng, mà giới trí thức Việt đã coi thường, vất bỏ hay hiểu nhầm Việt triết. Ngay vào lúc bắt đầu tiếp cận, đa số các giáo sư Triết dựa theo định nghĩa triết học của André Lalande. Tập Danh Từ Triết Học do một nhóm Giáo sư Triết tại Trung Học và Từ Ðiển Triết Học do Trần Văn Hiến Minh biên soạn, trên thực tế dịch “một cách rộng rãi” các từ ngữ triết học Tây phương của Lalande như thấy trong phần chọn chữ, định nghĩa và phân loại triết học. Lẽ dĩ nhiên, khi thêm các danh từ triết đông, tác giả họ Trần đã công khai công nhận lối suy tư Á đông cũng là một loại triết học. Một số học giả tự học như Dương Quảng Hàm, Trần Trọng Kim dựa theo Tự điển Larousse bình dân và hiểu triết học như là “cái học về nguyên lý (principes) và nguyên nhân (causes) hay là những thống kê về những tổng niệm (notion générales) của tất cả các sự vật, cốt để định rõ cái nghĩa của nhân sinh ở đời và cái địa vị của người ở trong tạo hoá.” Tuy vậy, mặc dù Trần quân ý thức một cách rõ ràng là Nho giáo không hoàn toàn phù hợp với định nghĩa trên, tiên sinh vẫn nhắm mắt coi Nho giáo như là một nền triết học. Riêng Trần Ðức Thảo định nghĩa triết học theo quan niệm của Marx, coi triết học chỉ là một sản phẩm thượng tầng, phản ảnh hạ tầng xã hội, như thấy trong tập Triết Học Ði Về Ðâu? và đặc biệt trong tập luận án Phénoménologie et matérialisme dialectique, một tập sách đã gây được một tiếng vang trong giới triết học Pháp vào thập niên 1950s. Kim Ðịnh trong Những Dị Biệt Giữa Hai Nền Triết Lý Ðông Tây, hiểu triết học như lý học. Ðặc biệt hơn, Lương tiên sinh phân biệt triết học khỏi triết lý, và triết lý khỏi minh triết. Tiên sinh xếp loại triết học đông phương vào phạm trù minh triết. Lối nhìn của Lương thị phần nhiều bị ảnh hưởng của Phùng Hữu Lan, mà họ Phùng lại hiểu triết học một cách rất hạn hẹp, hay, nói theo họ Lão là, chưa thấu triệt triết học Âu Mỹ, nên chúng tôi ít nhắc tới trong bài này. Riêng về Việt triết, thì chưa có một định nghĩa nào, trừ những nhận xét rất khoáng đại như là một nền quốc học hay đồng nghĩa với Việt nho, hay là chủ nghĩa ái quốc, hay là cốt lõi của đạo học, hay là ý hệ quốc gia, vân vân. Riêng chúng tôi đã tạm đề nghị một định nghĩa về Việt triết như thấy trong chương thứ nhất của Việt Triết Luận Tập. Nói tóm lại, chúng ta nhận thấy một sự thiết yếu của công việc xác định ý nghĩa của triết học. Song cùng lúc, chúng ta cũng ý thức được sự khiếm khuyết của bất cứ một định nghĩa nào. Vậy thì, chúng tôi không lập lại các định nghĩa triết học. Như đã nói trên, chúng tôi cố ý không đưa ra một định nghĩa về triết học nơi đây. Ngược lại, chúng tôi sẽ trình bày hai lối nhìn về triết học: lối nhìn phủ định, và lối nhìn xác định. Lối nhìn phủ định nhắm xoá bỏ những hiểu nhầm, hay sai lầm bóp méo triết học; trong khi lối nhìn xác định hay tích cực nhắm tìm ra những đặc tính phổ quát và bất biến của triết học.

1.3. Sai Một Li Ði Một Dặm

Nhà bác học Aristotle từng nhận xét “Sự sai lệch (từ) chân lý tuy rất nhỏ vào lúc đầu, sẽ lớn rộng cả ngàn lần về sau.” Tương tự, thánh Thomas Aquinas, theo Aristotle, cũng nói rằng những lỗi lầm nho nhỏ vào lúc khởi đầu sẽ đưa tới những hậu quả nguy hiểm vào lúc kết thúc. Theo chân các vị, chúng tôi nghĩ là, để hiểu triết học, chúng ta có lẽ nên bắt đầu với công việc vạch ra những “sai lầm”, “lệch lạc” nho nhỏ về triết học. Những lỗi đã khiến nhiều người lầm tưởng triết học đồng nghĩa với ý hệ, tôn giáo, hay giản hoá triết học thành một nền tri thức, một hệ thống luân lý, một phương pháp cố định, hay một công cụ, một kỹ thuật suy tư, vân vân.

– Thứ nhất, Triết học không tự hạn hẹp vào một công năng nhất định. Ngay từ thời Hy Lạp, khi các triết gia cho rằng triết học là sự yêu quý, và truy tầm sự khôn ngoan, các vị đã không hạn hẹp triết học vào một công năng cố định, hay bất biến. Yêu khôn ngoan bằng cách nào, hay khôn ngoan là gì? Không ai có thể xác định. Trong truyền thống triết học Tây phương, mỗi người hiểu khôn ngoan một cách khác biệt. Socrates đồng nghĩa khôn ngoan với chân lý; Plato hiểu khôn ngoan như là một lý niệm bất biến và phổ quát. Aristotle hiểu khôn ngoan theo ba nghĩa, một tri thức chân thật (episteme), một nền kiến thức thực hành (praxis), và một sự khôn ngoan thực tiễn (pronesis). Các triết gia Kitô giáo đồng hóa khôn ngoan với chính Thượng Ðế. Ðối với họ, Thượng Ðế là cội nguồn của sự khôn ngoan. Ngài là Sapientia sapientiarum. Lẽ tất nhiên, một khi coi con người là một hữu thể tự chủ, các triết gia thời Ánh Sáng coi khôn ngoan như là đặc sản của lý trí, chứ không phải của Thượng Ðế. Tương tự, các nhà tư tưởng Trung Hoa coi sự khôn ngoan như là “minh minh đức,” hay là “Vạn vật chi mẫu.” hay là “chí tri,” hay là “trung dung chi đạo”, hay là “nội thánh ngoại vương,” hay là tâm đạo nơi các tư tưởng gia người Việt (Nguyễn Trãi, Nguyễn Du). Nếu nhìn vào những lối hiểu trên, chúng ta thấy rằng, hầu như tất cả mọi đại tư tưởng gia không nhất quán về ý nghĩa của khôn ngoan.

Tương tự, khi bàn đến phương pháp đạt tới sự khôn ngoan, các ngài cũng không nhất thiết đồng ý. Người thì đòi buộc ta phải biết toán học (Plato); người thì đòi những người học phải thông thạo biện chứng (Plato, Aristotle, Hegel, Marx); người thì lại bắt chúng ta phải theo trực giác (Descartes, Bergson, Blondel). Lại có những vị đòi hỏi chúng ta phải tin, phải yêu mới có thể đạt tới sự khôn ngoan (thánh Bonaventura với châm ngôn “Credo ut intelligam” và Blaise Pascal với tâm đạo.) Ngược lại, cũng có cả trường phái chủ trương kinh nghiệm, hay thực nghiệm, hay thí nghiệm mới là những phương thế tốt đẹp bảo đảm một tri thức chân thật (từ Francis Bacon, tới John Locke, David Hume). Vào thế kỷ hai mươi, sự phân ly về phương pháp càng phức tạp hơn. Ngoài các phương pháp lâu đời như phân tích, tổng hợp, diễn nghĩa, quy nạp, vân vân, rất nhiều trường phái mới như hiện tượng luận (phenomenology), kết cấu luận (structuralism), thực tại luận (realism), thực dụng luận (pragmatism), hệ phả học (genealogy), thông diễn pháp (hermeneutics), vân vân, xuất hiện không ngừng. Trong các truyền thống Nho gia, Ðạo gia, và Phật giáo, chúng ta cũng thấy các vị áp dụng các phương thế khác nhau, từ “tu thân”, tới “tu tâm”; từ “thuận kỳ tự nhiên”, tới “hiệp thông quỷ thần”, từ “thiên nhân hợp nhất”, tới “cùng kỳ lý”, từ “cách vật chí tri”, tới “trực giác”. Thế nên chúng tôi đồng ý với Michel Foucault và Francois Lyotard, những người chủ trương một lối suy tư hậu hiện đại (postmodern), đó là không có một phương thế chi tự đủ để bảo đảm có thể đạt tới cũng như chứng minh sự khôn ngoan. Nói theo kiểu đạo học: “Ðạo khả đạo, phi thường đạo. Danh khả danh, phi thường danh.”

Nếu chúng ta không thể xác định khôn ngoan, cũng không thể có một phương thế duy nhất để đạt tới và chứng minh khôn ngoan, thì bắt buộc phải chấp nhận mệnh đề là triết học không thể tự hạn chế vào một công năng nào nhất định hay cố định nào.

– Thứ hai, Triết học không phải là Ý hệ, hay Tôn giáo, hay Giáo điều, mặc dù trong tôn giáo có triết học; mặc dù bất cứ ý hệ nào, lúc phát xuất đều là suy tư triết học. Nói cách khác, triết học có thể biến thành giáo điều, ý hệ, hay tôn giáo nếu nền triết học này biến thành công cụ bảo vệ tổ chức; nếu nó được cơ cấu hoá, được tôn thờ; và nếu tư tưởng triết học của người lãnh đạo gắn liền với chính sự lãnh đạo tạo nên quyền uy. Chính vì cùng chung một nguồn gốc, mà đa số triết gia đã không phân biệt nổi sự khác biệt giữa ý hệ và triết học. Nhất là những người chủ trương triết lý “thực hành,” “nhập thế,” hay coi triết học như là một công cụ, và đồng nghĩa sự khôn ngoan với “tài năng,” “khả năng,” “quyền hành,” vân vân. Socrates đã từng cảnh cáo lối nhìn trên. Cả hơn hai ngàn năm sau, Bacon cũng đã phân tích nguy cơ của lối nhìn mà ông gọi là ý hệ (ý thức hệ, hay ý hệ hình thái). Song cái bã quyền hành cũng như nhãn quan thiển cận coi triết học như là một công cụ để đạt tới quyền uy đã quyến dũ làm triết gia quáng mắt, để rồi họ biến đổi triết học thành ý hệ phục vụ chế độ (như thấy trong nơi Nho gia). Lý thuyết lý hình biến thành chủ thuyết Plato với ảo vọng “cộng hòa.” Ðạo nhân do Khổng Tử chủ trương hoá thân thành Ðạo Nho thống trị tất cả mạch huyết của Trung Hoa; Lý thuyết khoa học về xã hội của Marx, trước hết bị Lenin rồi đến Stalin, và sau cùng tới Mao Trạch Ðông cải biến thành một chủ thuyết xã hội và cộng sản với cái ảo mộng “chuyên chính,” và một “thiên đường tại thế.” Vậy, để giúp người đọc có một cái nhìn trung thực về triết học, chúng tôi xin vạch ra một số dị biệt giữa triết học và ý hệ như sau:

Nếu sự khôn ngoan không đồng nghĩa với bất cứ một hình thức của kiến thức hay một loại tri thức nào, và nếu triết học coi sự khôn ngoan như một sự phát triển kiến thức, và nếu sự phát huy trí năng luôn trong tình trạng vô định, thì ý hệ lại cả quyết một cách giáo điều rằng, chỉ có một loại tri thức nào đó, và gạt bỏ tất cả các nền tri thức khác. Ý hệ cho rằng, chỉ có nền tri thức duy nhất này mới “chân thật,” “khoa học,” “phổ quát,” và “hữu hiệu.” Mà một nền ý hệ như vậy thường hay đồng nhất với tư tưởng của một người có quyền uy tuyệt đối, một tập đoàn lãnh đạo, hay một tôn giáo.

Nếu triết học tự bản chất luôn thăng tiến, thì ngược lại, ý hệ tự tuyên xưng là chung cực của lịch sử, là tột đỉnh của trí tuệ. Và như thế, ý hệ từ chối không nhìn nhận tự do tính của con người cũng như thăng tiến tính của trí năng.

Nếu triết học là một quá trình phản tỉnh không ngừng về thế giới, con người, và vạn vật; và nếu triết gia luôn phải phản tư về chính chủ thể, về chính tri thức, thì ý hệ lại giáo điều yêu sách bắt buộc thế giới, con người phải “suy tư” theo cái mẫu do ý hệ đặt ra. Những hình thức lý luận nhất nguyên, hay nhị nguyên phản ảnh lối suy tư ý hệ này.

Nếu triết học hoàn toàn thoát ly khỏi quyền uy, thì ý hệ gắn liền với cơ cấu của quyền uy. Lý do là triết học không bao giờ tự khoe mình là một phương thế hữu hiệu nhất, hay một tri thức tuyệt đối và bắt những người khác phải theo. Ngược lại, bất cứ một ý hệ nào cũng rất xác tín về “sự chân thật tuyệt đối,” về “hiệu lực toàn năng,” cũng như “sứ mệnh” rao truyền, bảo vệ và phát huy chân lý của mình.

Ðiểm quan trọng nhất, đó là triết học tự nó đã là mục đích. Khôn ngoan không phải là công cụ, càng không phải là kỹ thuật. Chính vì vậy, triết học đồng nghĩa với sự yêu khôn ngoan (philo-sophia). Triết học không lấy hay coi sự khôn ngoan như một công cụ để đạt tới những mục đích khác như phúc, lộc, thọ, phú, quý hay ngay cả nhân, lễ, nghĩa, trí, tín… như thấy trong ý hệ Nho giáo. Ngược lại, ý hệ chỉ là một công cụ nhắm bảo vệ quyền uy, lợi tức (như thấy trong chủ nghĩa giai cấp, đảng phái, chủng tộc), hay cao quý hơn, sự sinh tồn, phát triển, tiến bộ của con người.

– Thứ ba, Triết học không có một đối tượng cố định, một phương pháp bất biến, một thế sinh bất dịch, và một mục đích vĩnh cửu. Bởi lẽ, nếu sự khôn ngoan không thể bị xác định, thì lẽ tất nhiên, mục đích của triết học cũng không thể bị xác định. Ngược lại, bất cứ một ý hệ nào cũng phải có một hay nhiều mục đích rõ ràng, thường được hiểu hay xếp theo một thứ tự tùy theo giá trị, bắt đầu với sự sống còn của sinh mệnh, sự sống còn của những phương thế, tổ chức… liên quan trực tiếp tới sinh mệnh; và tiếp tục cho với những nhu yếu, đòi hỏi, ý thích, lợi ích… làm thăng hoá, hay càng bảo đảm cuộc sống. Sau cùng, một khi đã tạm thời giải quyết những vấn nạn trên, ý hệ cũng nhắm tới những cái mà Marx gọi là thượng tầng kiến trúc, như tôn giáo, thẩm mỹ, xã giao, vân vân. Hiểu như vậy, chủ thuyết tự kỷ, chủ nghĩa gia đình, chủ nghĩa ái quốc, và ngay cả các ý hệ như thuyết khoái lạc, hưởng thụ, hiện sinh đều nói lên việc con người chủ trương, đánh giá cũng như chọn lựa mục đích khác nhau mà thôi.

– Thứ tư, Triết học không phải là kỹ khoa (technology). Khi thảo luận triết học, khi chứng minh mệnh đề, khi thuyết phục người nghe… chúng ta cần phương pháp, cũng như kỹ thuật để có thể đạt tới mục đích một cách dễ dàng và chắc chắn hơn. Song phương pháp triết học tự nó chỉ là một mục đích thứ yếu. Nó không phải là mục đích tối hậu. Chỉ từ thời Descartes, Bacon chúng ta mới bắt đầu thấy sự phát triển của “kỹ thuật” tức phương pháp triết học. Vì quá chú trọng tới phương pháp, mà nền triết học cận đại đồng hoá sự khám phá ra nhiều phương pháp mới lạ với sự phát hiện những nền triết học mới. Trên thực tế, Bacon, Descartes, Locke, Hegel tuy là cha đẻ của các phương pháp tân tiến như phân tích, thực nghiệm, kinh nghiệm và biện chứng; song những khám phá mới lạ giúp nhân loại nhiều hơn phải quy công về những triết gia như Rousseau, Hobbes, Montesquieu, Kant và Marx, bởi vì chính những vị sau mới thực sự ảnh hưởng tới chính trị, kinh tế và làm xã hội cải tiến, biến chúng thành những xã hội hoàn bị hơn. Nói như vậy, chúng tôi muốn nhắc nhở độc giả là, tuy rất quan trọng, phương pháp luận vẫn chỉ là một bộ phận của tri thức luận, và tri thức luận cũng chỉ là một chi nhánh của triết học. Mà tri thức luận, cho rằng có hoàn bị chăng nữa, vẫn không thể tự nó biến đổi thế sinh. Và như thế, lẽ tất nhiên là kỹ thuật không thể đại diện, đừng nói là có thể thay thế triết học. Vào thế kỷ 20 và trong tương lai, vì chỉ nhìn thấy những ảnh hưởng thiển cận của kỹ thuật (phương pháp), nên nhân loại đã tôn thờ kỹ thuật, biến nó thành một ý hệ; và coi nó như một mục đích tối hậu cho nhân sinh. Chủ thuyết duy khoa học, thời đại kỹ khoa là những ý hệ mới cho nhân loại, và nhất là cho những nước chậm tiến, đang phát triển như Việt Nam. Ý hệ kỹ khoa này nhắm tước đoạt ngôi báu của Thượng Ðế, và nắm vận mệnh nhân loại trong tay nó.

2. Các Chiều Hướng Triết Học Hiện Ðại

Vậy thì, triết học là gì? Một câu hỏi mà cho đến nay không có ai có thể trả lời một cách viên mãn. Như chúng tôi đã cố ý tránh không định nghĩa triết học, không phải vì lười biếng, mà vì ý thức được là bất cứ một định nghĩa nào cũng vẫn còn thiếu sót. Thế nên, trong đoạn này, chúng tôi xin phép chỉ đưa ra những lối nhìn khác nhau dựa trên đặc tính và công năng của triết học mà thôi.

2.1. Vũ Trụ Học hay Triết Học Tự Nhiên (cosmology, natural philosophy)

Triết học luôn khởi đầu với những câu hỏi về cội nguồn của con người, của thế giới họ sống, về định mệnh cũng như lai sinh (future life). Vào thời Hạ (2183-1752 B.C. ?) chúng ta đã thấy xuất hiện những suy tư về vũ trụ, về luật tự nhiên, về động lực thúc đẩy, cải biến vũ trụ và con người. Vào đời Thương (1751-1112 B.C.), những tư tưởng trên bắt đầu được ghi chép một cách hỗn tạp trên những bia đá, da súc vật, hay trúc lứa. Chúng ta phải đợi tới thời nhà Châu (1111-249 B.C.), những quan niệm này mới được cô đọng, học tập và ảnh hưởng tới triết học Trung Hoa. Lối nhìn về vũ trụ này cũng ảnh hưởng tới giới trí thức Việt. Và phần bị ảnh hưởng của Ðổng Trọng Thư và của Lão Trương, các nho gia Việt thường gắn liền vũ trụ học với chiêm tinh, bói toán về định mệnh con người. Nguyễn Bỉnh Khiêm có lẽ là người nổi bật nhất đại diện phái triết học này. Trong thế giới Hy Lạp, chúng ta cũng thấy có một lối suy tư như vậy vào thời Thales (624-518 B.C.) với các trường phái vùng Ionia, Milo và những người theo Pythagoras. Các triết gia truy nguyên nguồn gốc của vũ trụ, định luật của biến hoá, và cái đạo lý uyên nguyên của vũ trụ. Cái lý, hay đạo này biến hoá tứ nước tới lửa, từ khí tới vô định, từ vô định tới “tứ tượng” (kim, mộc, thủy, hỏa), và sau cùng tới thời Plato thì đạo lý uyên nguyên này chính là lý hình (eidos). Song tuy bị Socrates lôi từ trên thượng tầng khí quản trở về mặt đất, lối suy tư vũ trụ quan này vẫn tiếp tục cho tới nay, biến thành triết học tự nhiên, hay triết học khoa học. Theo quan điểm của trường phái triết học tự nhiên này, tất cả vũ trụ và ngay cả con người đều theo cùng một quy luật như nhau, đó là luật tự nhiên. Do đó, trọng điểm của triết học là phải làm thế nào khám phá ra quy luật của vũ trụ này. Các lý thuyết như cơ khí luận (mechanism), cơ cấu luận (structuralism), cơ thể luận (organism), tiến hóa (evolutionism)… là những lý thuyết đại biểu cho khuynh hướng triết học khoa học ngày nay. Như chúng tôi sẽ trình bày trong chương sau về bản thể và bản chất của Việt triết, vũ trụ quan của người Việt không thể tách rời khỏi nhân sinh quan, do đó họ theo một luận lý ngược lại với vũ trụ luận của Hy Lạp. Theo văn hoá Hy La, thì “thiên sao vật vậy;” song nếu theo Việt triết, thì phải là “nhân sao vật vậy.” Trong một mạch văn như thế, chúng ta có thể hiểu các nhân thoại như Nữ Oa “đội đá vá trời,” Lạc Long Quân – Âu Cơ đẻ “trăm trứng,” Bành Tổ, Hoàng Ðế; hay các thần thoại như Thần Kim Qui, Phù Ðổng Thiên Vương, Chử Ðồng Tử… tất cả đều nói lên một vũ trụ quan, cũng như một nhân sinh quan của Việt triết.

2.2. Hữu Thể Học (ontology)

Thứ nhất, triết học là một sự tự khai mở của chính hữu thể. Nói cách khác, triết học là hữu thể học (ontology). Socrates đã làm một cuộc cách mạng tư tưởng khi ông lôi triết học từ trời xuống, trả lại cho con người. Từ đây, triết học không chỉ còn là một nền vũ trụ học (cosmology), song là một cuộc hành trình lịch sử truy nguyên về câu hỏi quan trọng nhất, tức về chính định mệnh của con người. Aristotle phát triển quan điểm này qua câu hỏi về chính hữu thể. Ðối với nhà bác học vĩ đại này, triết học không chỉ truy nguyên những căn nguyên tối hậu, mà quan trọng hơn, phải chú trọng đến chính hữu thể tự thân, cũng như con người thực hành trên con đường hướng về mục đích tối hậu tức Thiện (agaton). Ðối với triết học Kitô giáo, hữu thể đồng nghĩa với chính cội nguồn của vận mệnh cũng như định mệnh con người. Chính vì vậy, (thánh) Thomas Aquinas cũng như đa số các triết gia Kitô giáo hiểu Thượng Ðế như là Hữu thể tự tại và tối thượng (Summum Ens và Ens in se, hay Ens qua Ens). Ðối với đa số các triết gia hiện đại sau Heidegger, hữu thể học đồng nghĩa với một môn học về bản tính tất yếu cũng như các biến dạng và động tính của hữu thể (Sein, esse). Một môn học như thế xem ra có vẻ xa lạ với lối suy tư đông phương. Tuy nhiên nếu chúng ta hiểu hữu thể học như môn học về sinh mệnh trong diễn trình của sinh sinh bất tử (triết học của Dịch), biến hoá của sinh mệnh trong chu kỳ nhân sinh (triết lý của Phật), như một môn học về vai trò của con người giữa con người (Nho học), cũng như những ước vọng sâu xa của nhân loại (Ðạo học) hay của chính chủ thể (Trương Tử), thì chúng ta cũng có thể nói triết học Ðông phương cũng có một nền hữu thể học, tuy rằng nó chưa bao giờ tự tuyên xưng là một nền “khoa học về hữu thể tự thân” (the science of being qua being, être en tant qu’être) như thấy trong truyền thống triết học Tây phương.

2.3. Nhận Thức Luận (cognitive sciences)

Triết học nhắm tới một mục đích bất biến, đó chính là chân lý. Ðể có thể nhận ra, chứng minh, cũng như áp dụng chân lý, triết học đòi chủ thể phải tự phản tỉnh về chính chủ thể, về những kiến thức tiên thiên (a priori) về khách thể và về thế giới hay môi trường (medium) trong đó khách thể hiện diện, xuất hiện hay biến hoá, và về chính những điều kiện của chân lý. Nói cách khác triết học đồng nghĩa với tri thức luận (epistemology), phê phạm luận (criteriology) và kiến thức luận (gnoseology); nói chung, chúng tôi gom tất cả ba loại tri thức vào một danh từ chung đó là nhận thức luận (cognitive sciences). Như là một tri thức luận, triết học truy vấn về khả năng nhận thức của chủ thể, về bản chất của sự vật, về luật phát hiện, biến hoá của sự vật, cũng như về mối tương quan giữa chủ thể và khách thể. Như là một phê phạm luận, triết học phản tư về tất cả các điều kiện ngoại tại cũng như nội tại ảnh hưởng đến sự phán đoán của chủ thể, đến sự xuất hiện cũng như biến hoá của khách thể (sự vật). Như là một nhận thức luận, triết học đánh giá tri thức qua việc áp dụng tri thức vào trong chính thế giới mà chúng ta đang sống, và sẽ sống.

Trong một mạch văn như trên, triết học đông phương, trừ triết học Ấn Ðộ, quả là thiếu sót. Nói theo Phùng Hữu Lan, Trần Trọng Kim và Kim Ðịnh, thì nền nhận thức luận của triết đông không theo con đường tri thức luận và phê phạm luận. Triết gia đông phương trọng trực giác (intuition), cảm thông và họ nhận thức con người, vạn vật qua một phương thế như vậy. Theo sự hiểu biết thiển cận của chúng tôi, thì lối suy tư của họ gần gũi hơn với lý thuyết giác năng (noology) của Plato và Aristotle, với tâm tư (cor percevens) của thánh Augustin, tâm thông (unio mystica) của Ðại sư Eckhart và thánh nữ Theresa (thành Avilla), và tâm luận (la raison du coeur) của Blaise Pascal.

2.4. Triết Học và Khoa Học

Thứ ba, triết học truy nguyên vấn nạn, và đi tìm giải đáp một cách nguyên lý (thực dụng luận, phương pháp luận). Song để nhận ra được vấn nạn, cũng như để khám phá ra giải đáp hữu hiệu, triết học trước hết phải là một tri thức chính xác (exact), phổ quát (universal) và tất yếu (necessary). Nói cách khác, triết học phải là một môn khoa học tương tự như toán học. Nơi đây, vai trò của triết học bao gồm: (1) nhận thức, xắp xếp các dữ kiện (kinh nghiệm); (2) hệ thống, và (3) đưa ra giả thuyết (tri thức), để rồi (4) chứng minh xác thực tính, phổ quát tính và tất yếu tính của tri thức đó. Không cần phải nói, triết học cận đại (modern philosophy) được khởi xướng bởi những nhà khoa học – Bacon, Descartes là những nhà toán học, hay vật lý học – và gây ra một ảnh hưởng sâu rộng, đến độ gần như bá chủ võ đài triết học. Tính chất bá đạo đồng hóa triết học với triết học khoa học, tri thức với phương pháp khoa học được giới triết gia khoa học như Bertrand Russell, Alfred North Whitehead, Ludwig Wittgenstein, Kurt Gòdel phát triển dưới danh nghĩa của một nền triết học phân tích (analytic philosophy). Các triết gia tại các đại học thời danh ở Mỹ và Anh phát triển triết học phân tích cho đến cao độ với những bộ môn luận lý và triết học ngôn ngữ.

Nếu hiểu triết học như một nền khoa học chắc chắn, và trong mạch nguồn của triết học phân tích, triết đông bị gạt bỏ không được nhận là một nền triết học. Thực vậy, ngay cả những lối suy tư tương đối chặt chẽ của Công Tôn Long, hay trong luận lý của Nargajuna, hay của trường phái lý học của Vương Dương Minh, chúng ta cũng không thấy một phương thế khoa học như chúng tôi đã diễn tả ở đoạn trên. Ðây cũng có thể là một nguyên nhân giải thích sự lạc hậu trong lãnh vực khoa học của Trung Hoa và Ấn Ðộ. Song ngược lại, chúng ta cũng có thể nói, chính vì sự tiến bộ chậm chạp trong lãnh vực khoa học mà sau thời vàng son của Xuân Thu (722-481 B.C.), triết học đông phương đã không có chi đặc sắc. Song cho rằng đông phương không có khoa học là một lối nhìn hoàn toàn sai lầm, xuất phát từ sự hiểu sai hay hiểu khoa học một cách hạn hẹp.

Song, nếu triết học đồng nghĩa với khoa học; hoặc nếu triết học chỉ là con sen của khoa học, thì triết học tự đánh mất lý do hiện hữu của mình. Và bi thảm hơn, như chính các nhà khoa học đã từng cảnh cáo, không có triết học như một tấm gương phản ảnh, khoa học sẽ mù quáng rơi vào hố của tự diệt. Vậy thì, triết học giữ vai trò gì trong một thế giới khoa học ngày nay? Như chúng tôi đã nhắc phớt qua, triết học là một sự phản tỉnh về chính khoa học, về phương pháp của khoa học, về mục đích và ý nghĩa của nó. Và để xác định vai trò, ý nghĩa cũng như giá trị của khoa học, triết học bắt buộc phải thảo luận về lý do hiện hữu của khoa học, tức về chính thế giới cũng như những nhu cầu, vấn nạn… của con người. Chỉ trong mạch văn này mà những nhà khoa học vĩ đại như Newton, Leibmiz, (Henri) Poincaré, và Einstein đã có thể tự hào là triết gia.

2.5. Triết Học và Ngôn Ngữ

Ðể hiểu thế sinh, để nắm vững những vấn nạn, và để đánh giá trị, con người phải suy tư về cách biểu tả thế sinh, vấn nạn, giá trị; đó chính là lý do của sự hiện hữu của một nền triết học ngôn ngữ. Nói cách khác, để có thể phản tư, triết học cần phương tiện (phương thế) cũng như đối tượng để phản tư. Một trong những phương tiện đó, chính là ngôn ngữ. Thực thế, nếu không có ngôn ngữ, nếu không dựa vào thế sinh, triết học sẽ bất lực. Chính vì vậy, với Wittgenstein, triết học phải là một môn suy tư chắc chắn, đó chính là luận lý. Mà luận lý không thể tự hư vô, song được kiến cấu theo mô hình của ngôn ngữ. Nói tóm lại, để hiểu triết học, phải hiểu ngôn ngữ. Do vậy, ngôn ngữ chính là đối tượng của triết học. Nó đại biểu và đồng hóa với chính cái chủ thể đương tư duy. Cái nhìn của Wittgenstein được rất nhiều triết gia chấp nhận. Do đó, chúng ta có thể nói, triết học thế kỷ 20 đã hướng về ngôn ngữ, coi nó như là chìa khoá mở toang cánh cửa để phát hiện những bí mật huyền nhiệm của vũ trụ và con người. Song cũng chính vì tầm quan trọng của ngôn ngữ mà các triết gia ngôn ngữ học đi quá đà, cho rằng tất cả mọi vấn đề của triết học chỉ là những vấn đề của ngôn ngữ. Phải thực tâm mà nói, vai trò của ngôn ngữ rất quan trọng. Nó phản ảnh lối suy tư, hình thái, tâm linh cũng như cơ cấu của con người và xã hội một cách trung thực hơn. Một các gián tiếp, nó chứng minh rằng, lối suy tư dựa trên mô hình của khoa học tự nhiên không vững chãi. Và như thế, triết học ngôn ngữ có tham vọng thay thế triết học khoa học trong khoa học xã hội và nhân văn.

Trong triết đông, không phải chúng ta không để ý đến ngôn ngữ. Thuyết chính danh của Nho học, ngôn ngữ như là biểu tượng trong triết học Trương Tử, và ngay cả lối chơi chữ trong văn chương Việt đều là một “loại” triết học ngôn ngữ. Song phải thực tâm công nhận, các triết gia đông phương vẫn chưa chú trọng đến lãnh vực này cho đủ. Riêng tại Việt Nam gần đây, những tác phẩm về triết học ngôn ngữ vẫn còn quá ít ỏi, có thể nói gần như vắng bóng.

2.6. Triết học và Ý nghĩa Cuộc Sống

Nếu triết học phải quan tâm đến ngôn ngữ, mà nếu ngôn ngữ cũng chỉ là một công cụ của nhân sinh, vậy thì tại sao không thể nói được, triết học là môn học về chính nhân sinh? Từ Khổng Tử, Lão Tử cho tới giới nho gia tại Việt Nam, triết học là môn học truy tầm ý nghĩa của nhân sinh, và hoàn tất lý tưởng đó. Khi Khổng Tử coi con người quân tử như “kỳ hành kỷ dã cung, kỳ sự thượng dã kính, kỳ dưỡng dân dã huệ, kỳ sử dân dã nghĩa.” Khi những người theo ngài đều chấp nhận nhân nghĩa lễ trí tín như là những đức tính làm con người xứng đáng là con người, họ đã coi triết học là môn học về nhân sinh, về sự sống, và về giá trị của con người. Trong Việt triết, chủ thuyết nhân bản, cũng như khái niệm về ý nghĩa của cuộc sống càng được nhấn mạnh một cách đặc biệt. Những triết gia quan trọng nhất, từ Nguyễn Trãi tới Nguyễn Công Trứ, từ Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông tới Nguyễn Du, từ thời Nguyên Nho tới các nhà nho gần đây như Cao Bá Quát… tất cả đều chú trọng đến vấn đề nhân sinh, ý nghĩa cuộc đời và cách sống làm người. Trong triết học Tây phương, không phải họ không chú ý tới ý nghĩa cuộc đời, song thường ý nghĩa cuộc đời bị gắn liền với những lý tưởng như chân, thiện, mỹ hay thánh. Socrates trọng chân, trong khi Aristotle trọng cả chân, thiện lẫn mỹ. Sau thời thuyết Tân Plato, và bị ảnh hưởng của Kitô giáo, người ta coi thánh như cội nguồn của chân, thiện, mỹ. Lối nhìn trên rất đúng, song lại quá lý tưởng cho đến độ thiếu thực tế, và do đó không thể thực hiện. Chúng ta phải đợi đến thời kỳ Phục Hưng (Renaissance), phần nào giá trị của con người được định lại theo chính cuộc sống của họ. Khi thi hào Alghieri Dante cho nhân vật chính của ông chọn lựa con người, từ chối thế giới thần linh, cả thiên đàng lẫn hỏa ngục; khi những nhà nghệ sỹ giám nói lên cái đẹp của thân xác, của thế giới cảm quan… họ đã làm một cuộc cách mạng bắt chúng ta phải suy tư ý nghĩa của cuộc sống không theo bảng giá trị của chân, thiện, thánh, song theo mỹ cảm. Lẽ tất nhiên, một lối triết học như thế đã gây ra một nền triết học nhân sinh, mà con đẻ của nó, triết học hiện sinh (existentialism) đã đi quá xa. Một khi những người như Jean-Paul Sartre, Albert Camus… chỉ nhìn triết học theo ý nghĩa của cuộc sống hiện thời, hiện thế; và một khi họ từ khước tất cả mọi lý tưởng cao đẹp, thì cuộc sống biến thành một hiện sinh vô nghĩa. Triết học biến thành một triết học của phi lý (camus), của vô nghĩa (Sartre), của một bi hài kịch (Ortega y Gasset). Song nếu coi ý nghĩa cuộc đời như là hữu thể tự thân (Heidegger), hay như là Ðấng Siêu Việt (Karl Jaspers), hay là một huyền nhiệm (Mystère de l’être theo Gabriel Marcel), triết học hiện sinh chỉ lập lại qua ngôn ngữ hiện đại những luận đề của Chân, Thiện, Mỹ và Thánh mà Soren Kierkegaard đã tuyệt đối hóa, hay Friedrich Nietzsche đã hư vô hoá.

2.7. Triết học, Chân Lý và Luận Lý

Một trọng điểm khác mà triết học luôn đeo đuổi, đó là câu hỏi về chân lý: chân lý là gì? Làm thế nào để chứng minh chân lý? Làm sao để có được chân lý? và các câu hỏi tương tự. Triết học Tây phương, từ Socrates và nhất là sau Descartes và Kant, gần như bỏ quá nhiều thì giờ và nhân lực để phát triển các phương thế và phương pháp để đạt, để chứng minh, và để phát triển chân lý. Luận lý (logic) là một trong những phương thế được chú trọng đến nhiều nhất. Từ biện chứng trong Plato, tới luận lý hình thức (tam đoạn luận) của Aristotle. Từ những phát triển về những quy luật của luận lý hình thức trong triết học của Ockham và Duns Scotus cho tới Descartes, và từ Descartes cho tới nay, chúng ta thấy luận lý tiến bộ rất xa. Song sự tiến bộ này nhờ vào sự khám phá ra bản chất của luận lý chính là toán học. Từ đây, các kỹ thuật và các phương pháp lần lượt được phát hiện, hoàn toàn dựa theo toán học. Chúng ta phải đợi tới thời Russell và nhất là Wittgenstein, mới thấy một quan niệm mới xuất hiện. Ðó là sự việc Russell đảo lộn quan niệm của Descartes, coi luận lý mới là nền tảng của toán học. Wittgenstein đi xa hơn nữa, cho ngôn ngữ mới chính là nền tảng của luận lý và toán học. Nói cách khác, để chứng minh chân lý, chúng ta phải bắt đầu từ ngôn ngữ chứ không phải toán học hay khoa học tự nhiên. Vào năm 1931 Kurt Gòdel làm một cuộc cách mạng cực đoan hơn nữa. Ông chứng minh toán học, và luận lý không phải là tuyệt đối. Bất cứ một mệnh đề toán học nào, cho dù vững đủ nhất, cũng không thể đưa ra một chân lý toàn vẹn. Sau Gòdel, các nhà toán học và luận lý học phải chấp nhận là phương pháp định lý (axiomatic method) tự nó đã có những hạn chế nội tại và liên hoàn, mặc dù những giới hạn này có thể chuyển biến vào trong các hệ thống khác. Như vậy, để chứng minh chân lý, con người phải làm một cuộc cách mạng kiểu Copernig, đảo ngược lối nhìn về chân lý: chân lý có phải đồng nghĩa với duy nhất, độc nhất, đồng tính, đồng thể hay không? Hay là chân lý cũng vô định và vô hạn (apeiron) như Anaximander (610-546 B.C.) từng nhận xét? Hay là chân lý đúng là “vô thường đạo” theo quan niệm của Lão Tử?

2.8. Triết học và Lịch Sử

Theo Hegel, triết học còn nhắm vào một mục đích xa hơn, và cao quý hơn. Ðó là, giống như thiên văn và vật lý, triết học phải mở toang cánh cửa huyền bí của vũ trụ và nhân linh để “mặc khải” cho con người. Giống như Newton, người đã từng xác định được luật của trái đất, Hegel có tham vọng muốn khám phá ra cái định luật của con người, mà theo đó con người phát hiện ra sao, phát triển như thế nào, và làm thế nào đạt tới cùng đích. Hegel khám phá ra một đinh luật, mà triết gia vĩ đại này gọi là cái luật của tinh thần từng biểu hiện trong thế giới hiện tượng. Nói cách khác, triết học như là một luận lý của lịch sử nhân loại giúp chúng ta phát hiện tinh thần tuyệt đối. Bản thể của triết học chính là lý tính và là động lực, trong khi tinh thần tuyệt đối mới là cùng đích. Một lối lịch sử duy linh như vậy, lẽ tất nhiên không giải thích được những dữ kiện cụ thể và thế giới thực tiễn của vạn vật và con người. Charles Darwin chứng minh ngược lại, lịch sử của con người không phải là duy linh sử, và cái luận lý giải thích sự tiến hóa của con người không theo nguyên lý của lý tính, song qua sự chọn lựa – nhiều khi bất ngờ, không theo một luật lệ nào (selection by accident,) – và bằng phương thế đấu tranh để sống (struggle for life). Tương tự Marx cũng nhận thấy Hegel đi lộn đường. Hay nói cho rõ hơn, Hegel đảo lộn cái luận lý, và ngó gà ra quạ, nhận đinh sai lầm về bản chất của lịch sử: bản chất của lịch sử không phải là lý tính, song chính là cái động lực làm con người sinh tồn và phát triển, đó chính là lao động. Song tuy cho rằng Hegel đảo điên trật tự, Marx vẫn chấp nhận triết học lịch sử của Hegel. Ðối với nhà đại học giả Marx, lịch sử phải tiến về một cùng đích, đó là một xã hội thực tế song tuyệt đối, và cái động tính chính là lao động. Luận lý của lịch sử, giống như Hegel, là một quá trình biện chứng. Ðưa ra ba người đại biểu, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến một điều, đó là triết học có thể nói lên được lịch sử của con người, và ngược lại, trong bất cứ nền lịch sử nào của con người cũng có một hay nhiều nền triết học. Như vậy, chúng ta có thể quả quyết mà không sợ sai, đó là trong lịch sử của Việt tộc, của Việt Nam, chắc hẳn phải có những nguyên lý, nguyên tắc (hay đinh luật), trật tự, lý tưởng, cùng đích… giúp chúng ta sống còn trong cuộc đấu tranh hàng ngàn năm, và giúp chúng ta tổ chức cũng như phát triển. Vậy thì, chúng ta cần phải đào sâu vào trong lịch sử để tìm ra những luật, trật tự, nguyên lý, cùng đích chung của người Việt và nước Việt. Nói như Hegel, chúng ta phải khám phá ra tinh thần Việt (Việt linh), ra lối suy tư, lối sống, lối hành động (Việt lý)… trong Việt sử, Việt ngữ, Việt hoá, Việt văn…

2.9. Triết Học và Xã Hội

Một số triết gia có lẽ quá ngây thơ, cho rằng triết học chỉ là những suy tư trừu tượng, khó hiểu. Và để chứng minh mình là triết gia, họ phải nặn óc viết ra những câu văn mà không ai hiểu. Hình như triết học hoàn toàn tách biệt xã hội, con người và cả với thế giới mà triết gia đương sống. Một lối nhìn như vậy về triết học hoàn toàn sai lầm và tai hại. Thực ra, bất cứ nền triết học nào, tự bản chất, đều là triết lý xã hội. Nho đạo thực ra là những suy tư về xã hội, và những nguyên tắc đạo lý nhắm giải quyết những vấn nạn của con người, đặc biệt những vấn nạn thời Xuân Thu. Khổng Tử không thích trừu tượng, bởi lẽ ngài nhận ra sự cấp bách của vấn đề con người xã hội. Thế nên sự việc ngài chú trọng tới giáo dục, không phải vì một lý do nào khác ngoài việc giải quyết vấn nạn nhân sinh. Lẽ tất nhiên, ngày hôm nay, chúng ta không thể chối bỏ được sự kiện là, triết học nói chung đều là triết lý xã hội, nhất là sau thời của Rousseau và Montesquieu. Với ảnh hưởng của Marx, bất cứ triết học nào tách biệt khỏi con người xã hội chỉ là một nền triết học “tư biện,” “tư sản” và “ý hệ.”

Hoặc là chúng ta không hẳn đồng ý với nhà bác học cực đoan này. Song một điểm mà chúng ta bắt buộc phải chia sẻ với Marx, đó là nếu linh hồn của triết học là con người siêu việt, thì yếu tính của triết học phải là con người xã hội. Hiểu theo nghĩa này, chúng ta trở lại Việt triết. Chúng tôi mạn nghĩ, Việt triết mang tích cách tư biện thì ít song xã hội tính thì nhiều. Lý do rất dễ hiểu, đó là lịch sử của cuộc chiến đấu sống còn; và phương thế tồn tại không thể ỷ lai vào vũ lực như những người xâm lăng từ phương Bắc, hay phương Tây, song vào thiên thời, địa lợi và nhất là nhân hòa. Tư tưởng của Trần Hưng Ðạo, của Nguyễn Trãi và cả của Nguyễn Huệ đều tập trung vào mục đích sinh tồn, và phương thế hay chiến lược của các ngài đều dựa theo nguyên lý thiên thời địa lợi nhân hòa này. Tương tự, những nền triết học dân gian thấy trong phong tục, tập quán từ phong thủy, địa lý, tới y học và kiến trúc cũng dựa trên nguyên lý thiên thời địa lợi và nhân hòa này. Chúng ta có thể nói mà không sợ quá đáng, đó là, nền triết lý tam tài của người Việt, trước hết, là một nền triết học xã hội, và sau đó mới là một nền siêu hình. Lối suy tư này đi ngược lại với kiểu suy tư của truyền thống Hy-La và Tây phương hiện đại.

2.10. Triết Học, Văn Hoá, Nghệ Thuật

Chúng ta cũng biết là triết học không thể tách biệt khỏi văn hoá, và nhất là nghệ thuật. Không phải vô cớ mà Kant muốn xây dựng một nền triết học thẩm mỹ. Plato cũng không phải không có lý khi triết gia cho cảnh vực cao nhất của tư biện là cảnh vực của thẩm mỹ (kalos). Hegel xác định vai trò của thẩm mỹ như là một sự biểu hiện của lý tính. Lý do mà các nhà đại triết gia này chú ý tới nghệ thuật và văn hóa, chính bởi vì nghệ thuật tự nó là một hành vi sáng tạo. Nói cách khác, nghệ thuật là một hành động triết học, truy nguyên chân lý, và sáng tạo thế giới. Song mặc dù nghệ thuật và văn hóa luôn được nhắc tới, chúng chỉ được coi như một bộ môn triết học vào thế kỷ 19, đặc biệt trong tác phẩm của Wilhelm Dilthey. Tuy vậy, các triết gia văn hóa vẫn chưa hẳn chú trọng đến các nền văn hoá khác. Mà nếu có để ý đến, họ vẫn quá tin một cách mù quáng vào nền văn hóa Tây phương. Chỉ có một số rất ít người nhận ra sự mù quáng vào văn hoá Tây phương này mà thôi. Oswald Spengler chắc hẳn không hoàn toàn đúng khi ông tiên đoán sự suy sụp của nền văn hoá Tây phương, song lối nhìn của ông đã làm thức tỉnh các nhà học giả Á châu, và khiến người Tây phương chú ý tới các nền văn hóa khác. Vào những năm gần đây, khi những con rồng Á châu trỗi dậy, người ta càng chú trọng nền văn hoá Á châu. Thế nên, Fukujama, một học giả Nhật tại Harvard, tuy có lẽ chỉ lập lại cùng một luận điệu như Spengler, nhưng đã gây được một tiếng vang đáng kể. Thực ra, không phải Spengler, nhưng là các nhà nhân chủng và khảo cổ học có lẽ có công hơn cả khi họ khám phá ra rằng những nền văn hoá mà người Âu cho là man di mọi rợ, thực ra chẳng có man dã hay nguyên sơ. Lối suy tư của họ cũng lý luận (logical) không kém chúng ta. Lối suy tư và tổ chức của họ rất chính xác và chắc chắn, rập theo một mẫu giống như toán học; ngôn ngữ của họ theo một cấu kết rất có lý; và văn hoá của họ cao sang. Nói tóm lại, văn hoá Á châu cũng như các nền văn hoá ngoài Âu châu đã phục hồi phần nào giá trị mà họ phải có.

Lẽ tất nhiên, chúng tôi không đồng ý với thái độ kênh kiệu của Tây phương, song cũng không thể chia sẻ sự bi quan của họ về chính văn hoá của mình. Bởi lẽ, văn hoá không thể tách biệt khỏi thế sinh. Văn hoá là kết tinh của sức sống, lối sống, tinh thần sống… của tộc, của giống, của nòi. Nếu hiểu như vậy, triết Ðông có thể nói mà không sợ bị cười, là một nền triết học văn hoá. Nó nói lên sức sống, đạo sống, và, đạo dưỡng sinh, phát sinh và trường sinh. Trong nền thẩm mỹ của Ðạo học chúng ta thấy nghệ thuật sáng tạo được coi như là một nền minh triết. Nó biểu tượng cho văn hoá phát sinh và trường sinh. Với Khổng Tử, ngài chú trọng đến lối sống, đạo sống. Nền văn hoá Nho này biểu tả một quá trình của con người đương sống, tìm cách sống và giữ gìn sự sống. Ðó là văn hoá xây dựng trên đạo nhân. Văn hoá Việt bao gồm cả Nho đạo, Ðạo học và Phật đạo. Vậy thì Việt triết là một nền triết học bao gồm các đạo trên, cũng như những đạo cá biệt của mình. Nó được diễn đạt và phát hiện qua các nền đạo giáo này và những lối sống đặc thù khác của dân Việt.

2.11. Khi Triết Học Làm Cách Mạng

Nếu Socrates đã từng chết để bảo vệ chân lý; nếu Plato đã từng bị bắt làm nô lệ chỉ vì ông muốn hoàn tất lý tưởng “cộng hoà”; nếu triết học của Aristotle đã từng ảnh hưởng Alexander Ðại Ðế trong giấc mộng đế quốc, thì chúng ta phải nói, triết học luôn gắn liền với phương thế trị quốc bình thiên hạ. Nếu Khổng Tử đề nghị tu thân, thì Tuân Tử lại đề nghị kiêm ái như là một phương thế để trị dân. Nếu Hàn Phi ca tụng luật pháp thì Mạnh Tử lại đề nghị thân dân. Song nói một cách chung, các lý thuyết triết học của Ðông và Tây có một đôi chút khác biệt: đó là, triết đông chú trọng đến hành chánh, bảo vệ và hoàn thiện con người và xã hội, song triết Tây lại chú trọng đến vai trò phê bình, cách mạng và tiên tri. Chính vì vậy mà các nền triết học Ðông phương dễ biến thành ý hệ, và các triết gia của họ thường là những người nắm quyền, nhất là từ thời Tống trở về sau. Trong đoạn này, chúng tôi muốn nói đến vai trò tiên tri, và cách mạng của triết học. Lẽ tất nhiên, chúng tôi không hoàn toàn phủ nhận công năng của triết học như là một công cụ hành chánh, điều hành, giữ trật tự. Song chúng tôi nhận định rằng, nếu chỉ có như vậy, triết học sẽ mất lý do tồn tại, và biến thành một nền ý hệ, hay một hệ thống pháp luật và đạo đức. Sự khác biệt giữa triết học và triết lý thực hành nằm ở điểm triết học luôn phản tỉnh về chính mình, về thế giới, về bất cứ một hệ thống, kết cấu hay cơ cấu nào… trong khi triết lý thực hành chỉ chú trọng đến khía cạnh thực dụng. Vậy thì, bất cứ một nền triết học thuần tuý nào cũng phải giữ vai trò tiên tri, và cách mạng. Ðó là một triết học đi trước dẫn đường, chứ không phải một ý hệ, tức một triết lý đi sau nhắm giải thích, và củng cố quyền lực. Ðể được như vậy, theo Marx, triết học phải có hai yếu tố: triết học là một sự phê bình liên tục tình trạng hiện tại phi lý, thiếu thực tế, sai lầm, vô hiệu quả, vân vân; triết học cũng là một sự đòi buộc cải đổi xã hội một cách toàn diện.

Trong Việt triết, tuy hầu như tất cả các tư tưởng đều vòng quanh hai công năng: bảo vệ dân tộc, và phát huy ý nghĩa của cuộc sống; chúng ta hầu như không thấy một cách rõ rệt một nền triết học gọi là cách mạng. Mặc dù trong tư tưởng của Cao Bá Quát, Nguyễn Trường Tộ, chúng ta nhận thấy khá nhiều phê bình, và đề nghị đổi mới, song triết học của họ không mang tính chất tiên tri hay phê phạm theo đúng nghĩa. Ngay cả những phê bình của những nhà Tây học như nhóm Tự Lực Văn Ðoàn cũng chưa nói lên được tính chất tiên tri và cách mạng của triết học. Họ chỉ dựa vào một bảng giá trị (tây phương), để phê bình bảng giá trị cũ, nhưng không thể đưa ra nguyên lý hướng dẫn phê bình, cải tổ xã hội hay phát triển tri thức. Ngược lại, họ mù quáng chạy theo những bảng giá trị mới, hoàn toàn ngoại lai. Một thái độ như vậy tự biểu lộ sự bất lực của họ trong suy tư, và như thế, đi ngược lại với bản chất của triết học. Nó nói lên thái độ ấu trĩ của nền triết học bị Voltaire, Rousseau, Herder, Lessing, Mendessohn từng phê bình.

2.12. Khi Triết Học Phục Vụ: Công Cụ Tính

Những triết gia phái thực dụng (pragmatism) cho rằng, triết học chỉ có giá trị, nếu nó phát sinh ra giá trị thực dụng. Chúng tôi không hẳn phản đối, song cần phải minh định nơi đây về công năng của triết học. Trong đoạn trên, chúng tôi cố ý phân biệt triết học thuần tuý ra khỏi triết lý áp dụng (applied philosophy). Nơi đây, chúng tôi xin được nói thêm. Triết học thuần tuý tự nó đã là mục đích của nghiên cứu. Nó không thể tách rời khỏi sự khôn ngoan, bởi vì bản thể của triết học chính là sự khôn ngoan. Ngược lại, triết lý áp dụng mang thêm tính chất công cụ. Nó được chú ý nhờ tính chất thực dụng của mình. Nó được quý trọng hay bị bỏ rơi cũng tuỳ theo kết quả của tính chất công cụ mà thôi. Hiểu theo nghĩa này, nền triết học hiện đại thực ra chỉ là các nền triết lý áp dụng. Các triết gia dùng triết học để hiểu con người, xã hội. Các triết gia phát minh các phương pháp triết học để chứng minh chân lý; để xây dựng một quan niệm công bằng; để không sai lầm khi suy tư, khi tranh luận…  Nói tóm lại, triết học bị hạ cấp xuống thành phương pháp luận, thành môn luận lý (logic), thành biện chứng pháp. Những người có công nhất với sự phát triển công cụ tính của triết lý lẽ tất nhiên không có ai hơn Descartes và Locke. Hai ông đã đưa công cụ tính lên hàng triết học; hay nói cách khác, hai ông đã hạ cấp siêu hình học xuống hàng tri thức luận, và tri thức luận lại bị giản lược vào công cụ tính, tức phương pháp luận.

Thực vậy, triết học ngày nay không còn phân biệt và cũng không được phép phân biệt khỏi triết lý thực hành. Bởi vì bất cứ một tri thức (savoir), hay nhận thức nào (connaissance) cũng bắt buộc phải được tái dựng (reconstructed) trên nền tảng của thế sinh. Tách rời khỏi thế sinh, triết học, hay tri thức thuần nhất sẽ tự đánh mất cái giá trị hiện hữu của nó. Song không phải vì thế mà chúng ta có quyền giản lược triết học vào trong công cụ tính của nó. Bởi lẽ, như một công cụ tính, triết học không còn là mục đích, song chỉ là phương thế. Và như là một phương thế, hay thủ đoạn, triết học tự đánh mất chính tư duy; mà tư duy mới chính là bản thể của triết học. Ðây là một lý do mà Heidegger đã phê bình cả hai nền triết học tư biện (speculative) từ Plato cho tới Nietzsche và ý hệ kỹ khoa một cách dữ dội, khi ông đổ tội hai nền triết học này đã rơi vào cái hố thẳm của bất tư, đánh mất khả năng suy nghĩ. Sự bất lực càng rõ ràng hơn khi triết học tự đồng hoá mình với công cụ tính. Chúng tôi không quá bi quan như ông. Bởi lẽ, một nền triết học thuần tuý không thể có, y hệt như một nền tri thức thuần tuý không thể hiện hữu. Triết học và triết lý gắn chặt với nhau. Nếu triết học đòi tự phản tỉnh, thì triết lý là một phản tỉnh về triết học trong thế sinh, trong xã hội con người, trong sinh hoạt, trong tương quan… của con người. Ðể phản tỉnh, để nhận thức, để phê phạm, để đánh giá trị, triết học bắt buộc phải dùng chính nguyên lý triết học, tức chính sự khôn ngoan. Vậy thì, chúng ta không thể chối bỏ công cụ tính của triết học được. Song chúng ta cũng không được phép coi công cụ tính như là triết học trong toàn thể tính của nó.

2.13. Triết Học và Tôn Giáo

Sau cùng, triết học không phải là một tri thức tuyệt đối, càng không phải là Ðấng Tuyệt Ðối. Nói theo Karl Jaspers, triết học cũng là một sự thao thức về chính định mệnh, về tuyệt đối, về hư vô. Song triết học tôn giáo không phải là tôn giáo, bởi lẽ chân lý trong triết học có thể chứng minh và thực nghiệm, song trong tôn giáo, chỉ có thể cảm nghiệm. Bất cứ chứng minh nào về huyền nhiệm, về thế giới thần linh, về cảm nghiệm tôn giáo cũng không thể phổ quát hoá. Nếu áp dụng phương pháp khoa học, hay luận lý triết học vào tôn giáo, chúng ta rất dễ dàng thất vọng. Song tuy không thể chứng minh theo khoa học, chúng ta cũng không thể gạt bỏ được tôn giáo. Nơi đây, chúng tôi chỉ xin nhấn mạnh một điểm, đó là tuy tôn giáo không phải là triết học, song le trong bất cứ tôn giáo nào cũng có những triết lý, hay đạo lý. Chính những triết lý, hay đạo lý này là trọng tâm của triết học tôn giáo. Vậy thì, chúng ta có thể nói là triết học tôn giáo là một sự truy nguyên đạo lý bằng phương pháp triết học. Sự tương quan giữa triết học và tôn giáo giống như sự tương quan giữa triết học và khoa học. Triết học là một phương thế làm chúng ta phát hiện ý nghĩa của tôn giáo một cách minh bạch hiển nhiên. Hiểu theo nghĩa này, triết học tôn giáo là một môn triết học phổ quát và quan trọng của Ðông phương, và của Việt Nam. Chúng ta có thể nói mà không sợ quá đáng, đó là Việt triết tự bản chất là một môn triết học tôn giáo, tông giáo và ý hệ. Chính vì vậy mà nhiệm vụ của chúng ta là dùng lối suy tư, phê bình và phương pháp triết học để làm tôn giáo càng sáng tỏ, hay càng dễ hiểu, càng có hiệu quả hơn và nhất là để chúng ta có thể nhận ra sự khác biệt giữa nền tôn giáo chân thật, và tôn giáo ý hệ. Nơi đây, chúng ta cần phải giải thích qua về tính chất của tôn giáo Việt. Theo quan điểm riêng tư của chúng tôi, tôn giáo Việt bao gồm ba đặc tính: (1) đó là một tông giáo; (2) đó là một đạo lý (luân lý và đạo đức); và (3) đó là một ý hệ. Là một tông giáo, tôn giáo Việt được xây trên cái đạo (giáo huấn) của tổ tông nối lại cho con cháu bao gồm (a) giữ gìn và phát triển dòng giống, (b) giữ gìn quy tắc, gia phả để “tề gia”, giữ đạo cương thường, và (3) niềm tin vào sự hiện diện trong tinh anh của tổ tiên. Do đó, cúng bái tổ tiên, giỗ ông bà, cha mẹ hay trọng ruột thịt (một giọt máu đào hơn ao nước lã) nói lên cái đạo tổ tông này. Là một đạo lý, tôn giáo Việt là một hệ thống của luân lý và đạo đức gia đình. Giử lề giữ nếp, hiếu cha thảo mẹ, kính anh nhường em… là những quy tắc của tôn giáo Việt. Là một ý hệ, tôn giáo Việt tự đồng hóa với tư tưởng, lối sống, nền đạo đức, và tổ chức chính trị của đất nước và nhà nước, hay quốc gia, tức nước và nhà. Thế nên tôn thờ tổ Hùng Vương, cúng bái Thánh Gióng, thờ lạy Hai Bà Trưng, hoặc tôn vinh vị anh hùng cứu nước Trần Hưng Ðạo lên bậc Thánh nhân, kính trọng liệt sỹ, vân vân, tất cả nói lên một nền ý hệ, tức chủ nghĩa ái quốc với cái bảng giá trị của nó.

Tạm Kết

Trong chương này, chúng tôi đã trình bày triết học không theo một khuôn mẫu cố định, cũng không hề đưa ra một định nghĩa nào về triết học. Như độc giả đã nhận ra, chương này chỉ có một mục đích, đó là chứng minh một cách gián tiếp khả thể của một nền Việt triết. Chúng tôi áp dụng chiến thuật vừa phê bình, vừa xác định. Thứ nhất, qua việc phê bình những sai lầm về triết học, chúng tôi muốn nói đến sự việc triết học không bị hạn hẹp vào một lối nhìn, một cách suy tư, hay một cuộc sống cố định. Và như thế, cái nhãn quan hạn hẹp bản vị, ý hệ cũng như tâm lý tự cao tự đại thiếu thẩm quyền, thiếu lý do để gạt bỏ những nền triết học khác với quan điểm của họ. Thứ tới, qua việc xác định các chiều hướng triết học, chúng ta có thể nhận ra chỗ đứng, cũng như khuynh hướng của Việt triết. Nếu triết học không tự hạn hẹp vào bất cứ một lãnh vực nào; nếu sự khôn ngoan luôn luôn biến hóa, và biểu hiện trong tất cả mọi sinh họat của nhân sinh, thì bất cứ một nền triết học nào cũng là những suy tư, biểu hiện, hay hoàn thành sự khôn ngoan ấy. Trong một mạch văn như vậy, chúng ta có thể xác quyết là Việt triết là sự biểu hiện, sự hoàn thành và sự hiện diện của tính khôn ngoan của người Việt. Nói một cách chung, Việt triết là một nền triết học nhân sinh do người Việt, cho người Việt và qua người Việt. Trong chương sau, chúng tôi sẽ tiến thêm một bước, phân tích bản chất cũng như đặc tính của Việt triết. Qua cách này, chúng ta có thể chứng minh một cách khách quan sự hiện hữu của một nền Việt triết.

Tân Trúc, Ðài Loan, Tết Canh Thìn 2000
Thụy Sơn Trần Văn Ðoàn

Việt Triết Luận Tập (Quyển Thượng)
Chương II
Việt Nam Văn Hoá Chi Ðạo
Dự Thảo Chương Trình Nghiên Cứu Việt Triết

Gs. Trần Văn Ðoàn

“Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”

1. Vong Thân và Quê Hương

Chúng ta từng kiêu hãnh về một nền văn hoá Việt. Thế nhưng, khi được hỏi đến, hoặc khi được yêu cầu trình bày văn hoá của mình cho người ngoại quốc, chúng ta thường lúng ta lúng túng, không thể trả lời; hay nếu có thể, thì cũng chỉ một cách hàm hồ. Phải thực tâm mà xét, chúng ta mới cảm nghiệm, chứ chưa hoàn toàn ý thức, đừng nói là có một nền kiến thức sâu rộng về chính nền văn hoá của mình. Sự nghèo nàn về văn hoá hiển hiện ra khi chúng ta giao tiếp với các nền văn hoá khác: ngoài ngôn ngữ, bộ áo dài “Lemur”(!), chiếc nón Huế, bát bún bò Huế, đĩa chả Sài Gòn, tô phở Hà Nội, hũ nước mắm Phú Quốc, chúng ta còn có chi để “mang trống đi đấm nước người?”

Cái bần cùng bi đát khố rách áo ôm về tư tưởng càng hiển nhiên hơn trong lãnh vực triết lý. Cho đến nay, ngay chính các nhà “trí thức” nước nhà cũng không dám công nhận có một nền Việt triết; đừng nói đến một nền triết lý có tầm mức quốc tế. Trên lãnh vực quốc tế, họ khiêm nhượng coi văn hoá Việt chỉ là sự nhai lại những luồng tư tưởng của Hoa Ấn, mặc dù trong những câu chuyện thường nhật, họ luôn kiêu hãnh về thiên tài ngoại ngữ, nói tiếng Tây “như Tây”, nói tiếng Mỹ “hay hơn Mỹ,” và nói tiếng Nga, “ngay cả mấy thằng Nga cũng khiếp!” của họ.

Sự tự cao tự đại “cống hỉ méc xì ta biết cả” cũng như tự ti mặc cảm “ông nghè ông cống cũng nằm co” này phản ảnh một sự thực: chúng ta thiếu ý thức, hay vô ý thức về chính mình. Với một não trạng mâu thuẫn như thế, chúng ta có thể hiểu được tình trạng “voi đẻ ra chuột” trong Việt triết. Thử hỏi, nếu thiếu tự thức, nếu không có một nền triết lý chủ đạo, chúng ta có thể tự vỗ ngực dám hát vang lên: “Việt Nam trên đường tương lai, lửa thiêng soi toàn thế giới” hay không? Một khi chúng ta thiếu khả năng không trình bày nổi tinh thần, hồn túy, ngọn gốc, cốt lõi của mình, hỏi rằng chúng ta còn có thể tự cao tự đại nữa không? Hay là chúng ta phải chấp nhận thảm kịch:

“Bốn ngàn năm, ta vẫn là ta!
Từ trong hang đá chui ra.
Vươn vai mấy cái rồi ta chui vào!”

Các bạn cũng như tôi sẽ dễ nhận ra cái hậu quả tất yếu là, như một người “vô sản,” “vô gia cư,” tuy “đói rã miệng” vậy mà chúng ta vẫn vừa toác miệng bai bải “em chả, em chả” như cậu ấm con mụ phó Ðoan, vừa ngửa tay xin bất cứ một lý thuyết nào một cách rất ư là “chuyên chính.” Chúng ta ngấu nghiến bất cứ một ý hệ, hay tôn giáo nào, thường với một cách vô ý thức cũng “một cách rất chính đáng và hợp lý.” Dưới thời đô hộ của Tầu, các “đại nho” của chúng ta nhai đi nhai lại kinh, sử, thi… của phương Bắc, như con trâu ngoan ngoãn dễ thương của Trần Tiêu. Trí thức của họ nhét đầy cái học vị chương, những vần thơ trống rỗng, tính chất phong kiến, lối tổ chức chính trị phủ bại của người Hán, người nhà Ðường, người nhà Minh, và người Mãn Thanh. Ðể rồi họ hãnh diện “Văn như Siêu Quát vô tiền Hán; Thi đáo Tùng Thư thất thịnh Ðường.” Tới thời Pháp thuộc, giới trí thức của chúng ta chỉ còn ước vọng làm thầy phán, quan đốc, ông tham để “tối sâm banh, sáng sữa bò.” Bây giờ trâu đổi ra bò, song vẫn là loại sinh vật nhai lại. Những con bò biết nói nhai lại những vần thơ của Lamartine, Beaudelaire, Rilke; hót như vẹt những câu sáo ngữ của Victor Hugo; và phun ra hàng lọat văn chương, thơ phú “phú lãng sa” đầy mùi bơ sữa. Ðây là điểm cao nhất của trí tuệ của những người “an nam mít” như Nguyễn Văn Vĩnh; đó là “vinh dự tối cao” cho những người ngọng nghệu tiếng Việt như Trần Văn Ðôn cũng như những kẻ từng “hãnh diện” học trường Tây, trường đầm, và “kiêu hãnh” về tài năng “nói tiếng tây hay hơn tiếng Việt” của họ. Và đây đúng là sự tủi nhục cho người trí thức Việt:

“Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt,
Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng.”

Vào những thế kỷ gần đây, chúng ta cũng không “tiến bộ” được bao, khi giới trí thức ào ạt chay theo văn hóa Hoa Kỳ, hay văn hoá “xã hội chủ nghĩa,” coi chúng như là điểm tụ “cao nhất của nhân loại.” Bây giờ chúng ta “giỏi” vì thông thạo tiếng Mỹ, Nga, Tầu… hơn tiếng mẹ đẻ. Bây giờ chúng ta “khôn,” vì thuộc lòng lịch sử, địa lý của Mỹ, của Nga, của Tàu, và quên bẵng lịch sử của mình, cũng chẳng biết mảnh đất chữ S nằm ở đâu. Hồi xưa cha ông chúng ta thuộc lòng Tứ Thư, Ngũ Kinh; thì hôm nay chúng ta cũng nằm lòng Hữu Thể và Hư Vô, Tư Bản Luận… Nói tóm lại, cái thước đo lường trí tuệ không còn là chữ Nôm, lịch sử Việt, hay văn hoá Việt, mà là những tiếng líu lo, sì sồ khó hiểu, lạ tai; những tư tưởng lạ hoắc, những trang thư mục kê khai hằng hà sa số các sách ngoại ngữ… trong khi viết về những vấn đề của Việt Nam. Những nguồn liệu sử học về Việt học từ Ba Lê, Ðông Kinh, Bắc Kinh, Yale, Harvard, Michigan, hay Thư Viện Quốc Hội Mỹ có giá trị “gấp bội” những bài học sống động của người Việt trong xã hội của mình.

Trong một tâm thức “tha hoá” như vậy, triết lý được “nhập cảng” một cách ồn ào vào Việt Nam. Những làn gió “hiện sinh” của Jean Paul Sartre, Albert Camus, Martin Heidegger, Friedrich Nietzsche; những mốt tư tưởng “tân thời lạ đời” của Francois Sagan, Simone de Beauvoir; những tâm tư “siêu việt” của Sri Aurobindo, Sarvepalli Radhakrishnan, Daisetz Teitaro Suzuki… thấm nhập vào não trạng của giới trí thức Sài Gòn để rồi sản xuất ra hàng loạt “triết gia” với những tác phẩm “sâu thẳm” như Hố Thẳm Tư Tưởng, Mặt Trời Không Bao Giờ Mọc… những “kiệt tác” mà ngay các chuyên gia triết học nặn óc cũng không thể hiểu. Tương tự như các nhà trí thức tại Thượng Hải và Bắc Kinh, chúng ta cũng tôn thờ Mao Trạch-Ðông, Ivan Vladimir Lenin, Josif Stalin như là những tư tưởng “vĩ đại” nhất của nhân loại, mà các “đại thi hào” được lệnh thờ lạy hơn cha hơn mẹ họ. Khi đã khá mệt mỏi với những câu thơ văn trống rỗng, chúng ta lại đổ sô vào những tư tưởng “sâu xa” khác, với những đại luận về các kinh điển Bhagavad-gita, Upanisad, Veda, Sutra, vân vân, với những câu sao lại Phạm ngữ, Pali mà ngay những người viết cũng chép sai vì không hiểu, và không phân biệt nổi. Chúng ta hành hương tân Tây Trúc, song quên rằng chúng ta vẫn còn tha hương cầu thực. Chúng ta vẫn chưa nhận ra được giá trị căn bản của quê, của hương, và chúng ta giống như người dị hương của Camus, tự cảm thấy lạc loài trong chính lòng đất của mình. Ðến bao giờ chúng ta mới thấm nhuần được câu ca dao sâu sắc “Ta về ta tắm ao ta; Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn?” Ðến bao giờ chúng ta mới thấm thía được câu kết luận rất ư là triết lý “Phú ông xin đổi nắm sôi, Bờm cười” mà chúng ta từng thuộc lòng từ thời thơ ấu?

Không cần phải nói, chúng ta đã nhận ra, đây là một tình trạng tha hóa, càng ngày càng vong thân, đánh mất hẳn tự thức của tộc, của dòng, của giống. Y hệt như tai họa rơi vào bãi cát lầy, chúng ta (bao gồm tác giả bài viết này) đương sa lầy lún chìm xuống vực sâu của thất thức (tức mất ý thức, khác với vô thức và vô vi của Lão Trương, và của Thiền đạo), trong khi vẫn ảo tưởng là chúng ta như “con chim phượng hoàng thoát khỏi tro bụi, bay bổng vào trong bầu rời sáng lạn.”

2. Bản Chất của Văn Hoá

Chúng ta biết, văn hoá không được “tạo dựng” trong một ngày, hay do một người, hay bởi một triều đại. Chúng ta cũng ý thức được rằng văn hoá không chỉ biểu tượng một thời đại, một lịch sử; càng không chỉ đại diện một thế hệ, một chế độ, hay một ý hệ, hay bất cứ một tôn giáo nào. Văn hoá là sự kết tinh (crystallization), chọn lọc (selection), và tụ thăng (Aufhebung) của các thế sinh, được lưu truyền (tradited) và cải biến (transformed). Do đó, văn hoá tự biểu lộ trong, qua, và bởi tất cả mọi sinh hoạt của con người, từ nghệ thuật tới khoa học, từ kinh tế tới chính trị, từ kỹ thuật tới tư duy. Như là một sự kết tinh, văn hoá nói lên cộng thể của dân tộc. Như là sự chọn lọc, văn hoá tự hình thành qua phương thế sống, qua lối luận lý chung, qua những quy luật đạo đức, qua trật tự được cộng đồng chấp nhận và tuân theo. Như là một tụ thăng, văn hoá phản ảnh sự thăng tiến, tổng hợp và thích hợp của thế sinh hiện tại với những thế sinh ngoại tại, mới mẻ, đương và sẽ tới.

Hiểu theo nghĩa này, văn hoá Việt của chúng ta biểu tả cái cộng thể (common structure) của xã hội Việt; nói lên cộng tính (common nature) của dân Việt; diễn đạt cộng cảm (common sense) của người Việt; và phản ảnh lối cộng lý (common reasoning) tức lối suy tư, luận lý chung của chúng ta, trong khi đi tìm công ích, công lợi (common interests) của dân tộc. Cộng thể, cộng tính, cộng cảm, cộng lý và công lợi này lẽ dĩ nhiên mang tính chất phổ quát nơi người Việt; và như thế tách biệt khỏi đặc tính của các dân tộc khác.

Nhưng nói như thế, chúng ta rất có thể vấp vào cái lỗi “bế môn toả cảng” của cha ông chúng ta, với nhãn quan thiển cận và cái tâm hẹp hòi của con ếch ngồi dưới đáy giếng luận thiên hạ sự. Chúng ta có lẽ chưa nhận ra rằng văn hoá của chúng ta cũng có những tính chất chung của nhân loại, rằng chính nhờ vào sự giao tiếp với các thế sinh khác, mà văn hoá Việt mới viễn việt (transcendence), mới tụ thăng biến thành phong phú. Một cách cụ thể, chính vì giao tiếp với văn hoá Hoa-Ấn, với nền văn minh Âu-Mỹ và với các tôn giáo trên thế giới, đặc biệt là Phật giáo và Kitô giáo, mà văn hoá Việt mang một tính chất vừa đa tạp, vừa tổng hợp của giá trị của các nền văn hoá và văn minh trên. Thế nên, chúng ta phải công nhận là văn hoá Việt bao gồm hai phần chính, và một phần phụ: phần chính thứ nhất mang tính chất cá biệt chỉ thấy nơi dân Việt; phần chính thứ hai, chung với mọi dân tộc, mọi văn hoá; trong khi phần phụ là những tổng hợp gần đây về tổ chức, giáo dục, vân vân. Bộ phận cá biệt của văn hoá Việt thấy trong cách sống, trong ngôn ngữ, phong tục, trong nghệ thuật, luân thường đạo lý, và trong tôn giáo. Bộ phận chung cho toàn nhân loại liên quan tới tri thức, phương pháp, kỹ thuật, kinh tế, y học, vân vân. Phần phụ thuộc dễ dàng biến dạng, thay đổi, trong khi phần chính chỉ có thể biến đổi trong một thời gian lâu dài, và không dễ dàng gì. Phần chính bảo tồn Việt tính, song phần phụ tiếp thu đặc tính của các nền văn hoá khác mà nhờ vào Việt tính chúng ta Việt hoá.

Trong mạch văn này, chúng ta cũng phải chấp nhận là, bất cứ nền văn hoá nào đều tự hình thành trong một quá trình lâu dài bằng cách tổng hợp một cách biện chứng (dialectical transcendence) các kinh nghiệm đương sống với những kinh nghiệm đã sống (truyền thống). Hành động tổng hợp biện chứng này được hướng dẫn bởi một niềm hy vọng có thể giải quyết được khát vọng và ước vọng của con người trong tương lai. Tổng hợp biện chứng cụ thể trong việc con người sửa kinh nghiệm, làm giầu kinh nghiệm, hệ thống kinh nghiệm, và thăng hoá chúng thành bảng giá trị nhân sinh, để có thể giải quyết hay tránh những vấn nạn đã từng xẩy ra trước, và có thể sẽ phát hiện về sau. Một tiến trình như vậy chính là lịch trình hình thành văn hoá theo đúng nghĩa nhân văn hoá thành. Nói cách khác, chính qua sự sửa đổi tự đời này tới đời khác, mà chúng ta càng ngày càng tốt, càng đẹp, càng thật, và càng nhân hơn. Cái tốt (thiện), cái đẹp (mỹ), cái thật (chân, tri thức) và cái nhân (đạo thánh nhân, quân tử)) của mỗi thế sinh là những biểu tượng của nền văn hoá của thế sinh này. Trong một mạch văn trên, chỉ khi nhận ra được cái chân, thiện, mỹ và đạo thánh nhân trong thế sinh của người Việt, chúng ta mới có thể tự nhận ra giá trị cao quý của nền văn hoá của mình, cũng như nhìn ra giá trị nơi các nền văn hoá khác. Nói tóm lại, nếu mỗi nền văn hoá là một sự biểu hiện của một thế sinh của một dân tộc, và bất cứ nền văn hoá nào cũng sinh động một cách biện chứng và siêu việt qua những quá trình lịch sử (processes of history), thì lịch trình này luôn được cái đạo, hay con đường chỉ cho chúng ta cội nguồn, hiện thế cũng như tương lai của chúng ta vậy. Ðó chính là cái đạo, hay tinh thần, của lịch sử Việt tộc vậy (the logic of Viet-history).

3. Việt Triết

Cái đạo, hay con đường, hay tinh thần của Việt tộc này chính là Việt triết. Triết học do đó là một môn học suy tầm bản chất của văn hoá; là một hệ thống của những đặc tính của dân tộc; và là phản tỉnh về cả tiến trình hình thành của văn hoá; cũng như một lối tư duy cho tới cội nguồn về những vấn nạn, và những nguyên lý để giải quyết chúng. Hiểu như vậy, Việt triết là một sự đeo đuổi sự khôn ngoan (filo-sofia) của Việt tộc và của nhân loại theo đúng nguyên nghĩa của triết học tự thời Thales. Và hơn thế nữa, Việt triết là sự truy nguyên, cũng như truy tầm những giải đáp tối hậu cho những vấn nạn của người Việt và của nhân loại. Do đó, nó không tách biệt khỏi truyền thống triết lý Ðông phương coi triết lý như sự học quan trọng nhắm đến “tu thân, tề gia, trị quốc và bình thiên hạ” như thấy trong Ðại học.

Việt triết do vậy bao gồm nhiều lãnh vực trực tiếp hay gián tiếp liên quan tới thế sinh Việt, tới cội nguồn của người Việt, tới tinh thần Việt, tới lối tư duy của dân Việt, tới cách biểu hiện chung của họ, tới những cảm sầu, thẩm mỹ, cách sống, cách hưởng thụ… của họ. Lẽ dĩ nhiên, Việt triết đặc biệt chú ý tới những vấn nạn mà chúng ta đã, đang, và sẽ gặp trong tương lai; cũng như sự nỗ lực truy tầm nguyên lý, nguyên tắc và phương thế để giải quyết chúng. Nói một cách khác, Việt triết bao gồm Việt linh (Viet-spirit), Việt đạo (Viet-logos), Việt lý (Viet-logic), Việt thế hay thế sinh Việt (Viet-world, Viet-life-world), Việt hồn (Viet-soul), Việt văn (Viet-literature), Việt kỹ (Viet-technique), Việt cảm (Viet-sense), Việt tính (Viet-nature, hay, the transcendence-force of the Viet), vân vân.

Hiểu Việt triết như thế, chúng ta sẽ nhận ra một cách dễ dàng sự tương quan bất khả phân ly của triết học và văn hoá. Và như vậy, nhiệm vụ của bất cứ nhà văn hóa nào cũng gồm tóm trong những trọng điểm sau: (1) truy nguyên, khai quật, (2) diễn đạt, và (3) phát triển văn hoá. Tiếp theo, chúng tôi xin mạn phép đi sâu hơn một chút vào những lãnh vực trên.

4. Truy Nguyên Văn Hóa

Trong tác phẩm Việt Lý Tố Nguyên, Kim Ðịnh tự đặt ra một chương trình xây dựng Việt triết. Theo tiên sinh, công việc cấp bách nhất vẫn là công việc truy tầm cái đạo lý uyên nguyên của Việt tộc thấy trong văn hoá cổ của chúng ta như nhân thoại, thần thoại. Cái đạo lý uyên nguyên này chính là Việt hồn mà chúng ta “đã đánh mất” từ thời Bắc thuộc, mà cho tới nay vẫn chưa tìm lại được. Không hẳn đồng ý với Lương tiên sinh, chúng tôi thiết nghĩ, Việt hồn cũng như Việt đạo chưa bao giờ mất. Chúng bị biến hoá, biến dạng, và bị dồn ép vào trong chiều sâu tâm linh của con người Việt mà thôi. Một khi chúng ta có thể phá đổ các điều kiện ngoại tại và nội tại khiến Việt linh dị hoá, hay tự khép kín, hay bị đè nén, Việt hồn, Việt đạo sẽ tái hiện. Ðây là một luận đề chúng tôi áp dụng từ triết học của hai đại triết gia Nietzsche và Heidegger. Ðây cũng là một luận đề từng thấy trong tư tưởng của Karl Marx, khi nhà bác học này chủ trương một cuộc cách mạng thực tiễn phá bỏ tất cả mọi điều kiện khiến con người bị tha hóa (objectified), dị hóa (alienated) và vật hóa (reified). Và đây cũng là một luận đề mà nhà phân tâm học Sigmund Freud đề xướng. Theo các nhà bác học trên, bản chất chân thực của con người, tức nhân tính, chỉ có thể tái lập hay tái hiện nếu những điều kiện phi nhân bị loại bỏ. Theo một phương thức như họ, chúng tôi thiết nghĩ, khai quật văn hóa Việt đòi phải truy nguyên Việt linh; nhưng để có thể khai quật Việt linh, chúng ta trước hết phải tìm ra nguyên nhân, các điều kiện cũng như lối suy tư gây trở ngại khiến chúng ta không thể phát hiện Việt linh. Và quan trọng hơn nữa, chúng ta phải đi tìm kiếm những giải đáp cho những vấn nạn, những giải đáp thấy trong thế sinh của chúng ta (Việt thế), qua lối suy tư của người Việt (Việt lý), và phát tự tâm tình của mình (Việt cảm) cũng như tác động bởi chính ý lực của dân Việt (Việt hồn).

Ôn Cố

Thoạt tiên, công cuộc phát quật Việt linh đã được nhiều nhân sỹ ý thức tới. Phong trào trở về nguồn đương được các học giả tại hải ngoại như Vũ Ðình Trác (Việt Nho), Nguyễn Tự Cường (Việt Phật), các học giả tại Việt Nam tại Viện Hán Nôm, Viện Sử Học, và Viện Triết Học, và một số giáo sư tại hai đại học quốc gia Hà Nội và Sài Gòn (Trần Ðình Hượu, Phan Ðại Doãn, Trần Ngọc Thêm) phát động, xúc tiến một cách rất khả quan. Chỉ có một điều đáng tiếc là chúng ta bắt đầu quá muộn, và chạy lạch bạch theo các học giả ngoại quốc. Sự khám phá trống đồng tại Ðông Sơn, Hòa Bình; sự tìm hiểu nguồn gốc của Việt tộc, cũng như sự truy tầm lịch trình phát hiện của ngữ học Việt, cũng như của các sắc tộc khác; sự việc đi vào chiều sâu của các huyền thoại và nhân thoại, tất cả đều rất quan trọng, đã được các học giả ngoại quốc, nhất là Pháp, nghiên cứu và đi một bước khá xa trước chúng ta. Không ai có thể hoài nghi chúng là những chất liệu rất quan trọng giúp chúng ta truy tìm Việt linh, Việt lý, Việt đạo… Song điểm đáng nói là, những kết quả khảo cổ, nhân chủng trên vẫn chỉ là những giả thuyết, những bước dò dẫm. Do đó, chúng ta bắt buộc phải tiếp tục khuyến khích các nhà khoa học xã hội và nhân văn phát triển và đào sâu vào những lãnh vực như khảo cổ, ngữ học, lịch sử, văn hoá… Bởi vì, nếu thiếu những chất liệu trung thực, công việc suy tư, giải thích sẽ lệch lạc, và chắc chắn sẽ ảnh hương tới sự phát triển của văn hoá Việt.

Ôn Cố Nhi Tri Tân

Một điểm quan trọng mà chúng ta thường ít chú ý, đó là công việc truy nguyên không phải chỉ là sự hoài cổ, hay hạn hẹp vào việc tăng thêm sự hiểu biết về cái quá khứ của mình. Nếu truy nguyên chỉ có một mục đích duy nhất là biết về mình, một sự hiểu biết như vậy không mang lại lợi ích là bao. Cái lợi nhỏ bé và hạn hẹp trong bốn bức tường của học viện không giúp chúng ta biết được những kiến thức mới lạ, nhất là những kiến thức trực tiếp với cuộc sống hiện đại. Song để có thể biết những điều mới, công cuộc ôn cố bắt buộc phải được tiến hành theo một phương pháp và hệ thống khoa học. Trước hết, chúng ta phải xác định mục đích của công việc ôn cố không phải chỉ hoài cổ, hay để biết cái chi mới lạ. Mục đích quan trọng nhất của ôn cố là tìm ra những vấn nạn “trường cửu” của dân Việt; là để học hỏi cách giải quyết vấn đề của cha ông chúng ta; để sửa đổi kiến thức cũng như phương pháp cũ hầu có thể đáp ứng, giải quyết những vấn nạn đương thời và cả mai sau. Thứ tới, phương pháp ôn cố không chỉ đào bới, nhưng còn phân tích, hệ thống hoá, và nhất là tìm ra luật tương quan giữa tri thức và cuộc sống, giữa những vấn nạn trong quá khứ và những vấn nạn hiện nay, giữa cách thế giải quyết vấn đề của cha ông chúng ta và phương thế hiện đại. Nói cách khác, để có thể giải quyết vấn đề một cách hiệu lực, chúng ta phải biết, cũng như cải tiến phương cách cũ.

Ôn Cố, Tri Tân, Tri Hành Hiệp Nhất

Nói như vậy, ôn cố không thể tri tân, mà tri tân cũng không thể “tri hành hiệp nhất” nếu chúng ta thiếu mục tiêu và phương thế khoa học. Nói một cách khác, công cuộc truy nguyên chỉ có ý nghĩa chính đáng bởi vì nó là một công việc thiết yếu trong giai đoạn đầu của tiến trình xây dựng và phát triển văn hoá nước nhà. Giai đoạn tiếp theo của ôn cố, tri tân chính là tri hành. Mà để tri hành, chúng ta không thể dừng lại ở công việc ôn cố, mà còn phải xúc tiến nghiên cứu xã hội và con người hiện đại với tất cả những vấn nạn từ kinh tế, tới tôn giáo, từ khoa học tới chính trị, từ triết học tới đạo đức, từ tâm lý tới nghệ thuật, vân vân. Chỉ có như thế, chúng ta mới có thể “ngóc đầu lên” hát bài “quê hương ngạo nghễ;” chúng ta mới hy vọng “Việt Nam quê hương đất nước sáng ngời.”

5. Diễn Tả Văn Hoá

Trong phần này, chúng tôi xin được bàn một cách ngắn gọn. Thay vào đi sâu vào nội dung của các lối diễn tả văn hoá, chúng tôi chỉ phớt qua vài điểm của phương pháp diễn đạt, và đưa ra một vài đề nghị cụ thể.

Thứ nhất, diễn đạt văn hoá đòi hỏi một phương pháp giải thích đứng đắn, có tính cách khách quan, cũng như hợp lý. Tiếp đến, chúng ta phải chuyển nghĩa để những người khác ngôn ngữ, xã hội, tập tục, hay ngay giữa người Việt song khác thời đại… có thể hiểu, thấm nhập; và sau cùng, chúng ta phải quảng diễn vào trong chính thế sinh của chúng ta. Nói một cách khác, diễn tả văn hoá Việt bao gồm ba phần chính: giải thích (bao gồm diễn tả (ars explanandi) và diễn đạt, (ars explicandi), chuyển nghĩa (ars interpretandi) và thông diễn (hermeneutics theo nghĩa của Heidegger và Gadamer). Nơi đây chúng tôi chỉ xin nói tóm tắt phuơng pháp thông diễn theo hai triết gia Heidegger và Hans-Georg Gadamer mà thôi.

Có những văn bản (texte) mà một lối giải thích thông thường dựa theo ngữ học, lịch sử, khảo cổ (exegesis) không thể phát huy công năng được. Thí dụ những đoạn văn mâu thuẫn, tối tăm và thiếu cả lịch sử thực chứng như thấy trong Ðạo Ðức Kinh. Ðể hiểu văn bản này, Gadamer theo Heidegger đề nghị: (1) phát hiện những điều tác giả muốn nói mà không dám nói (tương tự như thuyết phân tâm (psycho-analysis) và tâm bệnh (psycho-pathology) của Sigmund Freud). Ðây là phép thông diễn chiều sâu (deep hermeneutics), khơi quật tiềm thức đưa lên bình diện của ý thức. (2) Dựa vào văn bản để tiến xa hơn, đi tìm ra những ý nghĩa mới. Ðây là phép thông diễn sáng tạo (creative hermeneutics) mà Heidegger đặc biệt phát triển.

Theo lối thông diễn, chúng tôi thiết nghĩ, diễn đạt văn hoá không chỉ theo lối sử học, khảo cổ và ngữ học mà thôi, mà còn phải tiếp tục phát hiện những bí ẩn, cũng như tiếp nối công việc sáng tạo của tiền nhân để lại.

6. Phát Triển Văn Hoá

Như chúng tôi đã nhận mạnh trong phần trên, công việc truy nguyên không được phép dừng lại ở công dụng thông tin, hay ôn cố, hay tri tân, mà còn ở việc khám phá ra những vấn nạn mới, và tìm ra những phương thế để giải quyết chúng. Ðể có thể đạt tới mục đích này, chúng ta có lẽ phải trải qua những giai đoạn, áp dụng những phương pháp cá biệt vào những công việc như sau:

6.1. Công Việc Tổng Hợp

Công việc tổng hợp đòi hỏi những điều kiện căn bản như: (1) một sự am tường về cả hai nền văn hóa Ðông Tây, nhất là về nền văn hoá Việt; (2) một hay những phương pháp khoa học, có thể phát hiện cái đạo (hay luận lý, hay luật, logic) giữa các dữ kiện, giữa những lối suy tư cá biệt của các thời đại, của các đạo giáo, giữa các lối giải quyết khác biệt của các dân tộc; (3) có một viễn tượng sâu xa về vận mệnh của dân tộc và của nhân loại.

Những điều kiện trên là những điều kiện căn bản, nhưng tiếc thay, ít có ai có thể hội đủ chúng. Tuy rằng Khổng Tử, Aristotle, Thomas Aquinas tương đối thành công, song chúng ta đừng quên rằng, một tổng hợp vào thời đại của họ dễ dàng hơn thời chúng ta rất nhiều. Các đại triết gia này không cần am tường các nền văn hoá Ðông Tây, càng không cần phải chú ý đến những lý thuyết khoa học tiến bộ như vào thời đại của chúng ta. Những đại tài như Hegel, Max Weber đã từng thất bại, không phải vì trí óc họ thua kém các tiền nhân, song vì thời đại của họ đòi hỏi quán thông mọi sự, mọi ngôn ngữ, mọi nền văn hoá mà không ai có thể có đủ. Ý thức được những khó khăn của thời đại hiện thời, chúng tôi thiết nghĩ rằng, bất cứ một tổng hợp nào cũng chỉ có thể mang tính chất tạm thời, hay một giả thuyết mà thôi. Song cho dù tạm thời, hay chỉ là một giả thuyết, chúng ta cũng cần phải có sự cộng tác của rất nhiều chuyên gia, học giả trong mọi lãnh vực, đặc biệt sử học, khảo cổ học, tâm lý học, ngữ học, kinh tế học cũng như văn học. Nói cách khác, để có thể tổng hợp, chúng ta cần phải phân công, học hỏi và thảo luận. “Một con én không làm lên mùa xuân” không chỉ là một câu phương ngôn, mà còn là bài học quý báu cho bất cứ ai muốn xây dựng nền văn hoá, nhất là triết học nước nhà. Nhận định như thế, chúng tôi thiết nghĩ, công việc tổng hợp đòi hỏi một cộng hoạt (team work) của các chuyên gia liên quan tới Việt triết.

6.2. Công Việc Quảng Bá

Trong một thế giới bao la, nhất là khi người Việt của chúng ta rải rắc khắp tứ phương thiên hạ, công việc nghiên cứu không thể hạn hẹp hay khép kín. Chúng ta càng không được phép ngơ ngà vai trò của viễn thông. Do đó, cùng một lúc với việc phát động phong trào nghiên cứu, chúng ta cũng nên phát động công việc quảng bá. Làm sao để cho mọi người nhìn ra vai trò quan trọng của văn hoá chiều sâu; làm sao để cho thế giới biết đến con người Việt, tư tưởng Việt, nghệ thuật Việt, vân vân. Làm sao để mỗi người Việt có thể hãnh diện về văn hoá của mình.

Ðể được như vậy, công việc dịch thuật các tác phẩm về văn hoá Việt sang ngoại ngữ cũng quan trọng không kém công việc trước tác bằng ngoại ngữ. Tiếc thay, về phương diện triết học và tôn giáo, chỉ thấy người ngoại quốc, nhưng ít thấy người Việt chúng ta viết. Như chúng tôi đã nhận định, mặc dù sách của họ có vẻ đồ sộ, hàn lâm, song đại đa số viết về Việt Nam từ nhãn quan, hay từ một ý hệ nào đó của họ. Lẽ đương nhiên, không phải chúng ta không có nhân tài, hay chưa hội đủ khả năng viết bằng ngoại ngữ. Chúng ta có khả năng, song chỉ không được khuyến khích mà thôi. Có lẽ, một phần vì cái thói quen ghen tương vặt nơi giới trí thức nhà, một phần vì tự ty mặc cảm, hoặc quá tự tôn, chúng ta không coi trọng người Việt của mình. Bụt nhà không thiêng là vậy.

Thêm vào công việc giới thiệu tư tưởng Việt cho cộng đồng hàn lâm thế giới, chúng ta cũng cần phải kiểm nghiệm (test, verify) những lý thuyết của chúng ta. Ði vào trong quỹ đạo thế giới là một tiến trình bắt buộc nếu muốn có tiến bộ. Tổ chức các hội nghị (conferences), hội thảo (symposia), hội học (seminars) hay hội đối (colloquia) có tính chất quốc tế về Việt học (Việt triết, tôn giáo Việt, nghệ thuật Việt…) với mục đích không chỉ giới thiệu, quảng bá, mà còn học hỏi cũng như kiểm nghiệm những lý thuyết của chúng ta.

7. Những Ðề Nghị Cụ Thể

Ý thức được tính chất bao la của biển học; nhận thức được những khó khăn, cũng như hữu hạn tính của mỗi người, chúng tôi thiết nghĩ, chỉ có thể đạt được mục đích nếu chúng ta biết ngồi chung, góp sức nghiên cứu những lãnh vực liên quan tới văn hoá dân tộc.

Tiến sỹ Vũ Ðình Trác từng nghĩ rằng, khai quật văn hoá Việt phải bắt đầu với công việc đào bới kho tàng Việt nho, bao gồm kinh bộ, tử bộ, thi bộ và văn bộ. Do đó, tiên sinh đề nghị những điểm sau:

– Chuẩn bị cho các luận án triết học Việt Nam ra đời, “bằng cách hướng dẫn cho các thế hệ đang lên trở về với văn hoá dân tộc và dấn thân vào con đường phục hồi, khai thác và phát huy văn hoá đặc trưng của chúng ta”.

– “Tìm tòi và thu góp những tài liệu về văn hoá Việt Nam đã bị mất mát” trong quá khứ.

– Thành lập nhóm học giả đủ khả năng hướng dẫn các luận án về Việt Nam, cách riêng Việt triết.

– Dịch thuật, xuất bản các tác phẩm về Việt học từ Việt ngữ sang các ngoại ngữ khác, cũng như các tác phẩm ngoại ngữ có giá trị sang Việt ngữ.

Chúng tôi nhất trí với Hán Chương tiên sinh, và đi xa hơn, đề nghị một cách cụ thể như sau:

Trong một tình trạng khó khăn hiện tại, cả từ phía quốc nội lẫn quốc ngoại, cả về vấn đề nhân lực lẫn tài lực, cả về sự tranh chấp ý hệ lẫn lịch sử hiềm khích chính trị, tôn giáo…, chúng ta khó có thể trông đợi một Viện Nghiên Cứu Việt Nam (Academia Vietnamica) tại hải ngoại giống như Académie Francaise (Hàn Lâm Viện Pháp), hay đại quy mô như Viện Nghiên Cứu Trung Ương Trung Hoa (Academia Sinica), Viện Nghiên Cứu Ðức Quốc (Max-Planck Institut), Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Gia Pháp, Viện Nghiên Cứu Khoa Học, và Viện Nghiên Cứu Khoa Học Xã Hội tại các nước theo hệ thống của Nga và Trung Hoa, vân vân… Thế nên, chúng ta không thể chờ đợi, mà phải bắt tay ngay vào công việc xây dựng Việt học cũng như phát triển nền văn hoá Việt của chúng ta. Ðể hiệu nghiệm hoá công việc nghiên cứu theo tinh thần khách quan và khoa học, không bị các lực lượng chính trị hay tôn giáo chi phối, chúng ta nên thành lập các nhóm, hay tổ nghiên cứu về những lãnh vực mà chúng ta chuyên môn. Trong tương lai, các tổ nghiên cứu có thể cộng tác và tiến hành thiết lập viện nghiên cứu. Như chúng tôi biết, không kể về những lãnh vực khoa học, chúng ta có khá đủ nhân tài. Lẽ dĩ nhiên, trong lãnh vực khoa học xã hội và nhân văn, có lẽ trong nước chúng ta có nhiều nhân tài hơn. Tuy thế, những học giả thuộc các đại học trước 1975 vẫn có thể đóng góp những kiến thức quý báu của họ, bằng cách tham gia các tổ nghiên cứu tại hải ngoại và công bố kết qủa của công trình nghiên cứu mà quý vị đeo đuổi bao năm. Vì không chuyên về khoa học, và ở trong phạm vi cũng như tri thức hạn hẹp của chúng tôi, người viết xin đề nghị thành lập các tổ nghiên cứu và phiên dịch liên quan tới khoa học nhân văn. Về các lãnh vực khoa học xã hội, và khoa học tự nhiên, chúng tôi ước mong được các chuyên gia góp ý kiến.

7.1. Thành lập các Tổ Nghiên Cứu

– Việt Nho
– Tôn Giáo Việt (ngoài các tôn giáo chính, đạo Ông Bà, đạo Dân Gian, đạo Cao Ðài, Hòa Hảo…)
– Ngữ học Việt
– Nghệ thuật Việt
– Khoa học, Kỹ thuật Việt
– Việt sử
– Việt văn (văn chương bác học, văn chương bình dân…)
– Luân lý, Ðạo đức, Luật pháp, vân vân.

7.2. Thành lập các Tổ Phiên Dịch

Công việc phiên dịch rất quan trọng, không những cung cấp cho chúng ta những tri thức, dữ kiện, tài liệu mới, hay cũ (mà chúng ta chưa biết), mà còn như một động lực thúc đẩy ép buộc chúng ta phải cạnh tranh với các dân tộc, quốc gia khác. “Biết người, biết ta” không chỉ để “trăm trận trăm thắng”, mà quan trọng hơn, là để quốc gia, dân tộc có thể sống còn. Trong quá khứ, chúng ta không mấy chú ý tới việc phiên dịch vì có lẽ chưa nhận ra tầm quan trọng của nó. Chúng ta chắc không chú ý tới sự kiện nước Nhật, họ đã đánh bại hạm đội của Nga (1905) chỉ sau công cuộc canh tân quãng 50 năm. Họ xâm lược Trung Hoa, chiếm được cả vùng Ðại Á, không phải vì “thiên tài xâm lăng”, song vì họ có một kiến thức sâu rộng về các nước khác, qua công việc phiên dịch. Chúng ta có thể nói không quá “ngoa,” là chưa thấy một nước nào chú trọng tới phiên dịch hơn Nhật.

Chính vì ít chú trọng đến phiên dịch, chúng ta không có chương trình phiên dịch, hay hệ thống phiên dịch. Thế nên, mỗi người dịch mỗi ngả, mạnh ai ai chạy. Lại nữa, các tác phẩm kinh điển không mấy ai dám dịch, vì khó, và không dễ tiêu thụ. Mà nếu có dịch thì cũng không đến nơi đến chốn. Ða số đổ sô dịch những tập sách “ba xu” dễ làm tiền, hay theo mốt. Nhận thức như thế, chúng tôi đề nghị, chúng ta nên lấy giờ rảnh tập trung vào công việc phiên dịch các kinh điển.

– Kinh Ðiển Việt Các tác phẩm của các danh sỹ như Trần Nhân Tông, Vạn Hạnh, Nguyễn Trãi, Lê Quý Ðôn, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, vân vân, từ Hán, hay Nôm sang Việt ngữ.

– Kinh Ðiển Tây phương (Hy Lạp, Trung cổ, Cận đại, Hiện đại). Thí dụ: Republics, Timaios… của Plato, Metaphysics, Nichomachean Ethics của Aristotle, De Civitate Dei của Augustin, Summa contra Gentiles, Summa theologica của Thomas Aquinas, cũng như các tác phẩm của Descartes, Locke, Hume, Berkeley, Leibniz, Pascal, Spinoza, Kant, Hegel, Fichte, Schelling, Nietzsche, Kierkegaard… Hiện đại như Heidegger, Wittgenstein, Gadamer, Habermas, Popper, Rawls, Rahner, Foucault, vân vân.

– Kinh Ðiển Ðông phương (Trung Hoa, Ấn Ðộ, Nhật…) Thí dụ: Các tác phẩm quan trọng của Trung Hoa (một số tác phẩm từ thời Lương Khải Siêu, Khương Hữu Vi tới nay), Ấn Ðộ (Các kinh Gita, Veda…), Nhật, vân vân.

7.3. Thành Lập Nhà Xuất Bản

Công việc thành lập một nhà xuất bản chuyên in các sách nghiên cứu thường rất khó khăn, vì không có tính chất thương mại. Ða số các nhà xuất bản nghiên cứu được các đại học, hay các cơ quan quốc gia, quốc tế tài trợ mới có thể sống. Do đó, nhà xuất bản nghiên cứu cần phải được sự hổ trợ của những Mạnh Thường Quân tha thiết với văn hoá Việt, và được sự cộng tác của các học giả Việt tại cả quốc nội lẫn quốc ngoại.

7.4. Thành Lập Viện Nghiên Cứu

Việc thành lập viện nghiên cứu chỉ có thể khi chúng ta đã có các tổ nghiên cứu. Trong giai đoạn hiện đại, khi mà chúng ta chưa có Hàn Lâm Viện, cũng chưa có Viện Nghiên Cứu Trung Ương, các viện nghiên cứu có thể quy tụ nhiều tổ nghiên cứu, phát huy công năng, cũng như cổ võ nhân tài, và gây dựng một thế hệ trẻ tiếp nối công việc nghiên cứu và giáo dục này. Các viện nghiên cứu có thể do các tôn giáo, các đoàn thể quy tụ, triệu tập và điều hành. Ðiểm quan trọng đáng phải để ý, đó là chúng ta không được phép lơ là nghiên cứu và tinh thần khoa học. Một khi không có tính cách khách quan, thái độ khoa học, nhãn quan khoan rộng và tâm tình khoan dung, cũng như tinh thần hợp tác, các viện nghiên cứu sẽ biến thành các “phe nhóm”, hay “công cụ” đi tấn công các nền văn hoá, tôn giáo, ý hệ khác biệt mà thôi.

Tạm Kết

Bài này nguyên là bản dự thảo đệ trình Ủy Ban Nghiên Cứu Việt Triết, không có ý cho xuất bản. Song thể theo lời yêu cầu của Tập san Ðịnh Hướng, chúng tôi cho phát biểu, phần để kêu gọi giới trí thức Việt tại hải ngoại, những người đương thao thức với tiền đồ dân tộc, thành lập các tổ nghiên cứu; phần để nói lên nhu cầu cũng như sự khó khăn của công việc nghiên cứu văn hoá Việt. Hôm nay, khi soạn lại để xuất bản, chúng tôi nhận thấy cần phải viết lại, tuy rằng quan niệm chính không thay đổi bao nhiêu. Ý thức được những thiếu sót hay sai lầm trong bài trước, cũng như sự cần thiết phải bổ túc một số dữ kiện, bài này không còn mang tính chất tuyên ngôn, song như một bản báo cáo khoa học về tình trạng nghiên cứu văn hoá, đặc biệt triết học, tại Việt Nam và tại hải ngoại. Bài này cũng ghi lại chặng đường đi tìm, và xây dựng Việt triết của người viết; mặc dù thành quả chẳng có bao nhiêu, nhưng mỗi một chặng giống như một viên gạch nhỏ bé lót đường in dấu vết bước chân dò dẫm của mình.

Ðại học Stockholm, Thụy Ðiển 10.11.1999
Thụy Sơn Trần Văn Ðoàn

Trở về mục lục

Việt Triết Luận Tập (Quyển Thượng)
Chương I – Phần Dẫn Nhập
Quá Trình Của Việt Triết

Giáo Sư Trần Văn Ðoàn

Việt Triết Luận Tập (I & II) bao gồm những bài thuyết trình liên quan tới triết học cách chung, và Việt triết cách riêng. Trong hai tập này, chúng tôi sửa chữa viết lại các bài đã từng phát biểu trong nhiều tập san như Dialectics, Philosophical Review, Vietnamologica, Ðịnh Hướng, The Asian Journal of Philosophy, Philosophy and the Future of Humanity, Tập san Khoa học Xã hội, và trong Proceedings của nhiều Hội nghị Quốc tế. Việt Triết Luận Tập, Thượng Tập gồm các tiểu luận, hay luận đề. Trong tất cả các tiểu luận trên, trừ bài “Việt Nam Văn Hoá chi Ðạo” có tính chất tuyên ngôn kêu gọi, nội dung của chúng đều tập trung vào những đề tài chuyên biệt như đạo dân chủ trong tư tưởng đông phương, tương lai của Việt triết, đặc tính của Việt nho, Ðạo đức học Ðông phương. Trong Việt Triết Luận Tập, Hạ Tập, chúng tôi đặc biệt chú trọng tới Việt Nho, bởi vì Việt Nho là bước khởi đầu của tiến trình biến hóa của Việt triết. Thế nên, hầu hết các luận văn tập trung vào sự biến hoá của Nho giáo, từ Hán nho, Tống nho, Minh nho tới Việt nho, và từ Việt nho cho tới Việt triết. Bài “Quan Niệm Sinh Tử trong Khổng Học” từng in trong Thời Ðiểm của Viện Triết Học và Tôn Giáo Việt Nam. Luận văn “Bản Chất Ý Hệ trong Việt Nho” sửa lại từ bài “Tinh Hoa Ý Thức Hệ của Việt Nho” in trong Tập San Khoa Học Xã Hội của Ðại Học Quốc Gia Việt Nam, Sài Gòn; trong khi các tiểu luận “Khổng Học tại Việt Nam,” “Kim Ðịnh và Việt Triết,” “Sự Khủng Hoảng Ðạo Ðức trong Tiến Trình Hiện Ðại Hoá,” vốn phát biểu bằng Anh ngữ, tất cả đều được chuyển qua Việt ngữ.

Chúng tôi tránh không tham luận các nền tư tưởng khác như Phật giáo, Ðạo giáo, Ðạo dân gian (tập tục cúng bái Tổ Tiên), hay có tính cách dân gian (hai đạo Cao Ðài và Hoà Hảo, đạo ông Dừa) trong Việt Triết Luận Tập. Không dám bàn đến bởi lẽ rất đơn giản: chúng tôi không chuyên về những nền tư tưởng trên. Tuy vậy, để tránh ngộ nhận, chúng tôi xin được khẳng định nơi đây là, tất cả các nền tư tưởng trên đều là những bộ phận, hay dữ liệu góp phần giúp Việt triết phát triển cũng như tinh hoa hoá.

Trong phần dẫn nhập này, để độc giả dễ dàng nhận ra quan điểm của người viết, chúng tôi xin được phép trình bày một cách đại cương các điểm sau: (1) tình trạng Việt triết vào thế kỷ thứ 20; (2) những ngộ nhận về triết học nói chung, và về Việt triết cách riêng; (3) bản chất và công năng của Việt triết; và (4) tương lai Việt triết.

1. Tình Trạng Việt Triết vào Thế Kỷ thứ 20

Ðối với đa số giới trí thức Việt, Việt triết là một danh từ xa lạ, có tính chất hoang đường của giả sử. Ðối với các cựu nho gia, Việt triết chẳng là gì khác hơn là chính Nho giáo. Và đối với những học giả bị ảnh hưởng của Phật giáo, Ðạo giáo, Việt triết chỉ là một phần của những đạo giáo này. Nói cách chung, Việt triết thường bị giản lược hoá thành một đặc tính của Tam giáo, hay bị đồng hoá với những quan niệm huyền bí trong dân gian, hay tệ hơn, với những quan niệm mê tín dị đoan.

Vào đầu thế kỷ 20, các nho gia như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Trần Trọng Kim, Phan Khôi mới bắt đầu làm quen với thuật ngữ của triết học qua các nho gia Trung Hoa như Lương Khải Siêu, Ðàm Tử Ðồng, Nghiêm Phục, vân vân, và gần hơn, với Tài Nguyên Phiệt, Hồ Thích, Trần Ðộc Tú, Lương Thấu Minh. Từ một khía cạnh khác, các nhà trí thức bị ảnh hưởng Tây học cũng bắt đầu làm quen với triết học Pháp, nhất là triết học của René Descartes, Blaise Pascal, Jean-Jacques Rousseau, Montesquieu, và gần hơn, Henri Bergson.

Chính vì triết học còn quá xa lạ, nên các nhà trí thức Việt không thể ý thức được một nền triết học Việt. Ðối với Trần Trọng Kim, triết học là một môn tri thức đặc sản của tây phương. Mặc dù nhận thấy triết học của Bergson rất gần giống tư tưởng nho học, họ Trần vẫn tin tưởng là Việt Nam chưa có triết học, bởi lẽ ngay cả nền nho học Việt cũng chỉ là Hán nho mà thôi. Phan Khôi cũng không đi xa hơn họ Trần bao nhiêu. Trong cuộc tranh luận với họ Trần, họ Phan ra sức biện hộ cho triết học Pháp, và gián tiếp phủ nhận tính chất nghiêm túc của nho học. Ðiểm đáng chú ý là nhị vị tiên sinh không hề đả động đến lối tư duy của người Việt. Trước hai cụ, các nhà chí sỹ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh cũng nghĩ như thế, khi các cụ hướng về Nhật (Y Ðằng Bác Văn) hay Tầu (Lương Khải Siêu) để tìm một lối đi cho Việt Nam. Hai chí sỹ vẫn chưa bỏ được niềm hy vọng vào sự tái sinh cái sức mạnh và uy phong của nho học.

Ngay cả vào những thập niên gần hơn, Việt triết hình như không được để ý tới. Khi Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn được chính thức thành lập, khoa triết học giữ một chỗ đứng khiêm tốn với những lớp về triết học Tây phương. Nhờ vào sự cố gắng của nhóm Tân nho, triết học Ðông phương mới len được chân vào giảng đường. Thế nhưng triết học Ðông phương cũng chỉ là triết học Trung Hoa, hay Ấn Ðộ. Một số tập san triết học vào thập niên 1965-1875 như Ðông Phương, Tư Tưởng tuy bàn nhiều tới văn hoá Việt, song chỉ có một số lượng rất ít ỏi về Việt triết. Thê thảm hơn, khoá trình tại đại học không nói chi tới Việt triết. Các vị giáo sư đa số chú dịch Tứ Thư, Ngũ Kinh, Lão, Trương, Hàn Phi Tử, hoặc Vương Dương Minh, Nhị Trình, hay giới thiệu nền triết Ấn như lớp triết học Ấn Ðộ nhập môn, vân vân. Về sau có thêm một vài khoá về Phật giáo Việt Nam. Nói chung, Việt triết gần như hoàn toàn vắng bóng. Tuy bị lơ là, triết học Ðông phương càng ngày càng thu hút được giới trí thức và sinh viên; và Việt triết bắt đầu hấp dẫn giới trẻ yêu nước, muốn tìm về nguồn gốc và niềm tự hào dân tộc. Mặc dù chương trình triết học Ðông phương được đưa vào trong lớp Tú Tài II, song, trừ Nguyễn Ðăng Thục và Lương Kim Ðịnh, các giáo sư triết học tại Ðại Học Văn Khoa vẫn chưa hoàn toàn nhận ra được vai trò của Việt triết. Nó vẫn còn bị quên lãng, nằm vất vưởng ngoài ngưỡng cửa của hàn lâm.

Tại miền Bắc, do hoàn cảnh, và bị ảnh hưởng của học thuyết của Karl Marx và Ivan I. Lenin, Việt triết không được tận lực khai thác, cho tới thập niên 1980, mới bắt đầu một số dự án có quy mô và hệ thống. Trước đó chỉ thấy xuất hiện một cách rải rác một số tác phẩm về Phan Bội Châu, Cao Bá Quát, Nguyễn Ðình Chiểu, như là những thành quả của Viện Triết Học tại Hà Nội. Chúng tôi không rõ có môn triết học Việt Nam tại Ðại Học Hà Nội hay không, song nếu có, thì cũng chỉ vào những năm gần đây mà thôi.

Khúc quanh quan trọng có lẽ xảy ra vào đầu thập niên 1990, với bộ Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam của Nguyễn Ðăng Thục, và hai bộ Lịch sử Phật Giáo Việt Nam và Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam do Viện Triết Học khởi xướng. Sau đó với loạt sách về tư tưởng Nho giáo của Nguyễn Tài Thư, Phan Ðại Doãn, Vũ Khiêu, Phan Ngọc, Trần Khuê, Nguyễn Khắc Viện; về tư tưởng Việt nói chung của Trần Ngọc Thêm, Ðỗ Thị Hoà Hới, Trần Văn Giàu; và về Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Hùng Hậu, Thích Minh Châu, Thích Minh Tuệ, vân vân. Sớm hơn một chút tại hải ngoại, chúng ta cũng thấy xuất hiện những tác phẩm của Vũ Ðình Trác như Triết Lý Chấp Sinh Nguyễn Công Trứ, Triết Lý Nhân Bản Nguyễn Du, và những tác phẩm của Kim Ðịnh về Việt triết. Nói cách chung, đây là một giai đoạn Việt triết bắt đầu được giới trí thức nghiên cứu nhiều hơn, và cũng được lưu ý, hay được chính phủ chấp nhận nồng nhiệt hơn. Trong giai đoạn này, chúng ta thấy ngoại trừ các tác phẩm của Kim Ðịnh, đa số các tác phẩm còn nằm trong phạm trù lịch sử có tính cách giới thiệu. Một nền Việt triết có hệ thống vẫn chưa xuất hiện.

Cũng trong giai đoạn này, ý thức được sự khẩn cấp của công việc hệ thống, và so sánh với các nền triết học khác, chúng tôi mạo hiểm thành lập Ủy Ban Nghiên Cứu Việt Triết với ba mục đích chính: (1) thúc đẩy chương trình nghiên cứu tư tưởng Việt; (2) dịch các kinh điển triết học sang Việt ngữ; và (3) đưa Việt triết vào trong quỹ đạo thế giới. Nói thì dễ, nhưng thực ra vô cùng khó khăn. Phần vì thiếu nhân lực, phần vì tài lực hoàn toàn không có; phần lại ở rải rắc quá xa, và bận bịu với công việc, những người trong Ủy Ban không thể ngồi làm việc chung, hay cộng tác chung trong một chương trình cố định. Tuy thế, họ cũng đã đạt được một số thành quả. Trên lãnh vực xuất bản, ngoài những tác phẩm của Kim Ðịnh và Vũ Ðình Trác, đã thấy xuất hiện những bài viết của Vũ Kim Chính, Trần Văn Ðoàn, Phan Ðình Cho, Trần Cao Tường về triết học, thần học suy tư từ tư tưởng Việt, và của Nguyễn Tự Cường về Phật giáo Việt Nam. Trên phương diện đưa Việt triết vào trong quỹ đạo thế giới, chúng tôi đã tương đối thành công với những cuộc hội thảo về tư tưởng Việt tại Anh, Mỹ, Nhật, Hương Cảng, và Ðài Loan, và đã gây ra được phần nào sự chú ý của học giả thế giới. Trong lãnh vực dịch thuật, chúng tôi cũng đã dịch xong nhiều tác phẩm, và sẽ cho ra mắt độc giả trong tương lai rất gần.

Nói cách chung, sự việc thành lập Ủy Ban Nghiên Cứu Việt Triết, và gần đây, Viện Nghiên Cứu Triết Học và Tôn Giáo Việt Nam với những dự án nghiên cứu về Việt triết, Việt thần, vân vân, là những cố gắng vượt khỏi sức lực của những người quá bận với miếng cơm manh áo, với bao nhiêu chương trình nghiên cứu khác như chúng tôi. Tuy vậy chúng tôi cảm thấy yên ủi khi thấy phong trào nghiên cứu Việt triết được nhiều nhân sỹ đáp ứng một cách rất nồng nhiệt. Tại quê hương, chúng ta đã thấy giới trí thức Hà Nội và Sài Gòn chú trọng nhiều hơn đến công việc khai quật Việt triết. Tại hải ngoại, ngoài Hội An Việt, chúng ta cũng thấy xuất hiện nhiều tập san nghiên cứu như Vietnamologica, tập san Triết Học, Thời Ðiểm, và nửa nghiên cứu, nửa nghị luận thông tin như Ðịnh Hướng, quy tụ các nhân sỹ tha thiết tới văn hoá, tư tưởng dân tộc. Ðây đúng là một dấu chỉ khiến chúng ta có can đảm giám hy vọng về một tương lai sáng sủa của Việt triết.

2. Những Ngộ Nhận

Trước hết, phần vì quá bị ảnh hưởng của triết học tây phương, hoặc của triết học đông phương, phần khác có lẽ do tự ti mặc cảm, nên chúng ta hoặc cho là mình không có một nền triết học cá biệt, hoặc nếu có, thì chỉ là vay mượn cóp nhặt: “Lời quê chắp nhặt dông dài,” mà mục đích thì thật là khiêm tốn: “Mua vui cũng được một vài trống canh.” Lối nhìn và thái độ tiêu cực trên thực ra là do chúng ta chưa hoàn toàn thấu triệt ý nghĩa cũng như công năng của triết học. Về một phương diện khác, lối nhìn này phản ảnh cái nhãn quan lệch lạc của văn hoá đông phương đồng hoá triết học với ý hệ (ideology).

– Thứ nhất, chúng ta nhầm lẫn triết học với tôn giáo, và ý hệ. Chúng ta cho rằng triết học không có chi khác biệt với tôn giáo, và tôn giáo hoàn toàn đồng nghĩa với tông giáo, rồi vào thời đại gần đây, triết học lại phải hiểu theo nghĩa của ý hệ. Thực ra, triết học không đồng nghĩa với tôn giáo, ý hệ. Triết học là một lối suy tư hệ thống, khoa học về những nguyên lý, nguyên tắc, cội nguồn… của những hiện tượng đương xảy ra để có thể đưa ra một tri thức khoa học (tri thức luận, luận lý học.) Triết học cũng là một nỗ lực đi tìm vấn nạn, và những giải đáp có tính chất nguyên tắc để có thể áp dụng giải quyết những vấn đề thực hành trong cuộc sống nhự đạo đức, pháp luật (đạo đức học, triết học xã hội, pháp luật). Ðàng khác, triết học còn là một sự truy tầm nền tảng căn nguyên của hiện tượng, của những quy luật, của cái mà chúng ta gọi là cánh chung, tuyệt đối (siêu hình học). Nói cách chung, triết học không hạn hẹp vào một môn học, một phương pháp, một trường phái. Triết học là một sự suy tư cho tới cội nguồn, tới cùng đích. Thế nên suy tư về mọi tri thức, mọi hành động, mọi tổ chức, vân vân, nói lên những nền triết học có vẻ cá biệt, song thực ra đều phát xuất từ cùng một nguyên lý đó là suy tư thấu triệt tới cùng đích. Triết học xã hội, triết học khoa học, triết lý sử học, đạo đức học, luận lý học, triết học tôn giáo, vân vân, tuy khác biệt về đối tượng, và phương pháp, song cùng một mục đích truy tầm nguyên lý, và cùng một thái độ thấu triệt.

– Thứ đến, chúng ta sai lầm cho rằng chỉ có một nền triết học vĩnh cửu (philosophia perennis), mà chúng ta phải học, bắt chước và tôn thờ, đó là nho giáo, triết học kinh viện, hay gần đây, triết học Tây phương, và chủ thuyết xã hội. Những nền triết học trên không phải thiếu giá trị, nhưng nói đúng hơn, giá trị của chúng bị hạn hẹp vào thời gian và không gian. Gán ghép cho chúng một giá trị tuyệt đối và phổ quát là một lối suy tư ý hệ, thiếu khoa học. Thực ra, như chúng tôi vừa nhắc tới, bất cứ một nền triết học nào, nếu có một mục đích khác, tất phải dùng một phương pháp khác biệt. Mà mỗi một xã hội, tuỳ theo điều kiện địa lý, lịch sử, nhân sinh, cũng như những vấn nạn xã hội, tất phải có những mục đích mà các xã hội khác. Nói cách khác, quan niệm cho rằng chỉ có một nền triết học duy nhất, một đạo duy tôn, một phương pháp duy uy là một quan niệm sai lầm, phát xuất từ những nguyên nhân phản triết học và khoa học. Hay nói đúng hơn, bất cứ tuyên xưng về một nền triết học vĩnh cửu nào cũng xuất phát từ những nguyên nhân phi triết học như quyền lực, lợi ích của giới lãnh đạo, vân vân. Câu nói “Ðạo khả đạo, phi thường đạo; danh khả danh, phi thường danh” của Lão Tử có lẽ nói lên một cách đứng đắn một phần nào thái độ của triết gia chống bất cứ một nền ý hệ nào.

– Thứ ba, triết học không thể tách rời khỏi thế sinh (Lebenswelt, life-world) của con người. Thế nên, mỗi nền triết học là một kết tinh của một thế giới mà chúng ta đã hay đương và sẽ sống; là một nỗ lực tìm nguyên tắc giải quyết những vấn nạn của thế giới đó; là một cố gắng diễn đạt thế giới đó một cách trung thực; và là một thao thức vượt khỏi chính thế sinh này. Sai lầm của Plato không phải do việc ông thiếu suy tư, hay thiếu lý luận, song trong sự kiện ông tách rời triết học khỏi thế giới sống để xây dựng một nền tri thức khoa học vĩnh cửu vượt khỏi không gian và thời gian. Tương tự, sự thiếu sót của Descartes không phải do việc ông bóp méo siêu hình học, song trong việc ông chủ trương phương pháp độc vị, cho phương pháp phân tích của toán học, và phương pháp trực giác của hình học là phương pháp duy nhất của triết học. Lỗi lầm chung của triết học cận đại không phải thiếu nghiêm chỉnh, song do sự việc nền triết học này tôn thờ chân lý, cho đó là mục đích duy nhất của triết học. Mà nền chân lý này phải mang tính chất “phổ quát” hay phổ biến, và “tất yếu”, hay tất nhiên. Ðó có nghĩa là, nền chân lý này không tuỳ thuộc vào thế sinh của chúng ta. Và tiếp theo đó, chỉ có một phương pháp khoa học duy nhất mới có thể chứng minh được chân lý. Mà phương pháp khoa học này cũng phải hoàn toàn tách biệt khỏi cuộc sống con người. Nói cách khác, triết học cận đại vấp vào hai lỗi lầm: hạn hẹp mục đích và đối tượng của triết học vào chân lý, cũng như tuyệt đối hoá phương pháp của lý tính. Những sai sót này không làm triết học thụt lùi, nhưng ngược lại, khiến triết học tinh vi hơn, nhất là trong những lãnh vực hệ thống và phương pháp. Chính nhờ sự tinh vi, và sự hiệu nghiệm của phương pháp trong công việc hiện đại hoá và lý tính hoá, nền triết học này tiêm chiếm ngôi vị độc tôn. Và khi chiếm được quyền tuyệt đối, triết học biến thành ý hệ. Như thế, tuy tinh vi, triết học tự nó đã đi vào con đường tự sát.

Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, khi mà đế quốc Âu châu thống trị Á châu, thì các nền triết học khác bị gạt bỏ ra ngoài. Hai nền triết học Trung Hoa và Ấn Ðộ bị hạ cấp biến thành một loại văn hoá man di hay mê tín thiếu khoa học, bởi vì chúng đã không giúp gì cho việc lý tính hoá, và kỹ nghệ hoá nơi các nước này. Giới tân học Trung Hoa như nhóm Hồ Thích, bị quáng gà bởi ánh sáng của khoa học, và nhất là mù quáng tin vào quyền uy tuyệt đối của nền văn minh cơ khí Âu Mỹ, đã từng coi Nho học như thành phần phản động, tôn giáo Á châu như là ung nhọt của xã hội. Giới tân học Việt cũng theo quan thầy Trung Hoa để khinh miệt cái học truyền thống “hủ nho,” “phong kiến,” “phản động” tại nước nhà. Chúng ta bây giờ có thể hiểu được lý do tại sao phần lớn giới trí thức Việt bị ảnh hưởng của Tây phương không giám nghĩ tới một nền Việt triết, hoặc nếu có nhắc tới, thì cũng chỉ coi nó là một thứ triết lý “rẻ tiền” trong lúc trà dư tửu hậu mà thôi. Bi đát hơn nữa đó là sự thiếu ý thức, và chưa đủ tự trọng của một số trí thức bị tây hay tầu hoá. Họ cho rằng, chỉ có đồ tầu, đồ tây mới đáng giá; chỉ khi nào sì sồ được “cống hỷ, méc xì,” thì “ta biết cả,” thì mới đáng được gọi là trí thức; chỉ có những ai “được dậy dỗ” trong trường tây trường đầm, được đi “du học” tại Âu, Mỹ, Tầu, mới sáng giá. Chính cái tâm lý nô lệ này có lẽ là một ngăn trở lớn nhất cho công việc đi tìm giá trị của dân Việt. Chính cái nhãn quan lệch lạc “tha hoá” này khiến chúng ta hướng ngoại, và tự quên cái giá trị cao quý của mình.

3. Bản Chất và Công Năng của Việt Triết

Nếu hiểu triết học theo đúng nghĩa nguyên thuỷ, thì chúng ta sẽ thấy là bất cứ một nền tri thức nào cũng đều phát sinh từ một cuộc sống nào đó. Mà cuộc sống nào cũng đều có nhiều mục đích đa tạp và mâu thuẫn, và những phương tiện để đạt tới những mục đích đó. Nói cách khác, nếu triết học xây trên cuộc sống, thì không phải mọi triết học đều có cùng một mục đích, và do đó không nhất thiết phải dùng cùng một phương pháp. Như vậy chúng ta phải chấp nhận rằng, triết học mang tính chất đa diện (nếu không dám nói là đa tạp,) y hệt như văn hoá. Và như vậy, sự hiện diện của Việt triết là lý lẽ tất nhiên. Bởi không lẽ có một thế sinh Việt, mà không có một nền văn hoá Việt; mà nếu có một nền văn hoá Việt, chẳng lẽ lại không có một nền Việt triết? Do đó, muốn thấu triệt Việt triết, chúng ta bắt buộc phải hiểu một cách thấu đáo thế sinh của dân Việt. Mà để có thể hiểu được dân Việt, chúng ta không thể không nghiên cứu mục đích (điều họ đeo đuổi, những vấn nạn mà họ đã gặp, đương gặp và sẽ gặp, những lý tưởng, vân vân), phương tiện mà họ khám phá, áp dụng, hay sửa đổi để giải quyết vấn đề, để truy tìm mục đích (phương pháp luận), cách biểu tả (ngôn ngữ, văn chương, nghệ thuật,) tâm tình cũng như lối suy tư (luận lý học), lối cấu tạo và điều hành xã hội (trật tự, kết cấu) cũng như khát vọng và hy vọng (tôn giáo, của họ). Chỉ khi nào chúng ta nắm vững những khía cạnh của thế sinh Việt, chúng ta mới có thể xác tín về một nền Việt triết.

Hiểu triết học như là một nền triết lý nhân sinh (philosophy of life), chúng ta có thể nói, Việt triết là một kết tinh của những mục đích chung của dân Việt; Việt triết phản tỉnh về những lối giải quyết vấn đề của dân Việt; Việt triết là nguyên lý hay tinh thần hướng dẫn và nối kết họ; Việt triết dùng những biểu tượng, ngôn ngữ và nghệ thuật chung diễn đạt tâm tình chung của dân tộc; và Việt triết là linh hồn của nước Việt. Nói như thế không sai, song có vẻ quá trệch thượng, và trống rỗng, bởi vì chúng ta sẽ hỏi, vậy thì Việt triết là cái gì? Làm sao chúng ta nhận ra nó? Và có thật là Việt triết bao gồm những công năng trên không?

Trong Việt Triết Luận Tập, chúng tôi cố gắng đi kiếm những giải đáp cho những câu hỏi trên. Và những giải đáp này chỉ có hiệu lực nếu chúng phản ảnh được cái cộng tính của dân Việt; nếu chúng xây trên cộng cảm của người dân; nếu chúng nói lên được tính chất cộng thông và trọng công lợi trong phương thế giải quyết. Nói cách khác, những quan niệm như Việt đạo, Việt linh, Việt hồn, Việt lý… biểu tả những đặc tính chung, khát vọng chung, mộng ước và lý tưởng chung, cũng như cách biểu tả, và phương thế giải quyết vấn đề thường thấy nơi dân Việt. Song, chúng tôi ý thức rằng, bất cứ một câu giải đáp nào cũng chỉ có tính cách giai đoạn, bởi lẽ thế sinh Việt luôn trong một quá trình biến đổi, thăng tiến một cách biện chứng (hay siêu việt biện chứng.) Và như thế, ngay cả nguyên lý sống cũng biến đổi, tuy một cách chậm chạp, và sâu xa nên ít khi nhận ra.

Trong phạm vi của phần dẫn nhập này, tác giả chỉ trình bày một cách giản lược bản chất và công năng của Việt triết như trên. Tuy vậy, nơi đây cần phải làm sáng tỏ một vài vấn đề, để độc giả có thể thấy ngay sự đặc thù của Việt triết. Như chúng tôi đã nói, Việt triết là kết tinh từ thế sinh Việt, là nguyên lý hướng dẫn con người Việt, là tinh thần biểu tả tâm linh Việt, vân vân. Khi nhấn mạnh đến tâm linh, tinh thần, thế sinh Việt, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến tính chất cá biệt, và phổ quát tương đối của Việt triết. Khác với triết học Hy lạp, và nhất là nền triết học cận đại từng có tham vọng xây dựng một nền tri thức đơn nhất, duy lý và độc tôn (còn gọi là khoa học thống hợp, unified science,) Việt triết không phải là một nền triết lý đặt trên một nền tảng siêu hình vượt khỏi không gian và thời gian Việt. Do đó, Việt triết không mang tính chất phổ quát và tất yếu cho toàn nhân loại. Nó chỉ mang lại ý nghĩa cho người Việt, và những sắc dân có một thế sinh tương tự. Thứ tới, Việt triết mang tính chất thực dụng, và không hoàn toàn chú trọng tới lý thuyết. Mang tính chất thực dụng bởi vì triết lý trước hết là một công cụ dùng để giải quyết những vấn nạn thực tiễn, liên hệ trực tiếp tới nhân sinh. Ðạo đức, quy luật (phong tục tập quán) là những phương tiện giải quyết những khó khăn xung đột phát xuất từ việc phân chia ruộng đất, gia tài, công lợi; từ những xung kích tình cảm và nhu cầu của đại gia đình, vân vân. Tương tự, tôn giáo dân gian cũng được hiểu theo một nghĩa thực dụng như trên. Sự liên hệ mật thiết giữa thần thánh và con người, y hệt như sự tương quan giữa con người, được xây dựng trên một luận lý thực dụng “có thực mới vực được đạo,” và một phạm trù tương quan “gần chùa gọi Bụt bằng ông.” Sau nữa, Việt triết, như là một nguyên lý sinh tồn, không thể theo nguyên lý đồng nhất, không mâu thuẫn, hay triệt tam từng được áp dụng trong triết học Tây phương. Việt triết phản ảnh lối sống tổng hợp: bất cứ lý thuyết gì, bất cứ phương thế nào, nếu giúp con người đạt tới mục đích sinh tồn, phát triển và tiến bộ đều có thể được chấp nhận. Ðây là một lý do tại sao tam giáo có thể “đồng nguyên;” đây cũng là một lý do giải thích sự phát sinh của các đạo phái Cao Ðài và Hoà Hảo, và nhiều tôn giáo tương tự.

4. Tương Lai Việt Triết

Ðiểm quan trọng mà chúng tôi nhấn mạnh nơi đây, đó là một sự tổng hợp của các phương thế, cũng như những quan điểm về cuộc sống (nhân sinh quan) không trên lý thuyết song chỉ có thể xẩy ra trong thực hành, và được hướng dẫn bởi ba mục đích căn bản của nhân sinh: sinh tồn, phát triển và tiến bộ. Như thế, sự tổng hợp này không theo một nguyên tắc, hay phương pháp cố định. Nó bị ảnh hưởng bởi những điều kiện ngoại tại cũng như nội tại. Những điều kiện ngoại tại như địa lý, thiên tai, kinh tế, ngoại xâm… có thể đã có sẵn tự lâu đời, cũng có thể bất chợt, thường làm đảo lộn lối suy tư, và nhất là cách sống của chúng ta. Tương tự, những điều kiện nội tại như sự biến đổi tình cảm, tri thức (với sự trưởng thành, với sự tiến bộ trong nền giáo dục), sự thay đổi của lối sống, vân vân, cũng ảnh hưởng một cách sâu đậm tới sự tổng hợp này. Nói một cách khác, tuy luôn luôn đặt sự sinh tồn, sự phát triển của cuộc sống, sự tiến bộ của con người làm mục đích, con người Việt hiểu sinh tồn, phát triển và tiến bộ theo nhiều nghĩa khác nhau, cũng như đánh giá vai trò, thứ tự của chúng không theo một nguyên tắc cố định. Trong thời loạn ly, bị xâm lược, chủ thuyết ái quốc được coi như là nền tảng, và phương pháp đấu tranh được coi như là một phương tiện hữu hiệu nhất (trung quân ái quốc). Trong thời hoà bình, tinh thần tương thân tương ái và lối sống hoà đồng (nhân ái, hoà hợp) lại thường được trọng vọng và nâng lên hàng đạo đức. Trong một thời đại hỗn mang, loạn thế, người Việt có thể áp dụng tất cả mọi biện pháp, cho dù đối nghịch, mâu thuẫn; cũng như có thể cùng một lúc theo nhiều lý thuyết hoàn toàn khác biệt. Trong khi thư nhàn, họ lại trọng văn chương, trọng nghệ thuật, trọng lối sống tao nhân mặc khách. Nói tóm lại, chúng ta có thể nói tuỳ theo những điều kiện ngoại tại và nội tại, người Việt thay đổi hay cấu tạo một thế sinh. Việt triết phản tỉnh, và biểu tả một thế sinh như vậy. Nói cách khác, nếu mỗi một thế sinh là một tổng hợp của một giai đoạn, và nếu mỗi nền triết học là biểu tả của giai đoạn này, thì không thể có một nền triết học vĩnh hằng kiểu toán học, hay thần học trung cổ.

Hiểu như vậy, sứ mạng của Việt triết không chỉ phản tỉnh những nền triết học trước, mà còn truy tìm những khó khăn của các thế sinh trước, và cùng với những khoa học khác, đi tìm những phương thế hữu hiệu, để có thể đưa ra những giải đáp xác đáng, hữu hiệu hơn. Một cách cụ thể, sứ mạng của Việt triết trong giai đoạn hiện đại bao gồm (1) phản tỉnh, truy tầm những vấn nạn của xã hội Việt; (2) phê bình để có thể phát hiện nguyên nhân căn bản của sự khó khăn, tính cách thụ động (inertia) của xã hội, cũng như những hình thái khiến người dân Việt không thể tự phát hiện những nan giải này; và (3) tìm những phương thế hữu hiệu lâu dài và quảng bác để giải quyết những vấn nạn đã, đương và sẽ xảy ra. Nói cách khác, các phương thế mà Việt triết đưa ra phải mang tính chất nguyên lý, chứ không chỉ thuần tuý công cụ mà thôi.

Việt triết do đó, để có một chỗ đứng trong lịch sử của dân Việt, và của nhân loại, phải hoàn thành những sứ mạng của dân Việt và của nhân loại. Thứ nhất, Việt triết phải tìm ra những cộng tính (cộng cảm, cộng thông, cộng đồng, công lợi, công ích…) của dân Việt, cũng như những vấn nạn căn bản của dân Việt và nước Việt (sự vong thân, tha hóa, vật hóa trong xã hội hiện đại; sự sống còn trong cuộc tranh đấu cho miếng cơm manh áo, cho sự độc lập của đất nước; sự khủng hoảng đập vỡ những cộng tính cũng như những giá trị của chúng, hư vô chủ nghĩa, vân vân). Thứ đến, Việt triết phải cộng tác với những khoa học khác để tìm ra (1) cách phát hiện và giải đáp vấn nạn; (2) cách thế biểu tả diễn đạt cộng tính, cộng cảm; (3) những bảng giá trị chung để bảo đảm sự sinh tồn, để phát triển, và tiến bộ. Tiếp theo, chỉ khi nào những giải pháp mà Việt triết đưa ra có thể giải quyết một cách thoả đáng – hay ít nhất, nguyên lý của nó không sai -, thì lúc bấy giờ Việt triết mới có thể được chấp nhận như Việt đạo. Tương tự, chỉ khi nào Việt triết có thể biểu tả được cái cộng tính, cái cộng cảm, và cộng thông, thì lúc bấy giờ mới có thể được chấp nhận như Việt hồn, Việt linh. Và lẽ dĩ nhiên, chỉ khi nào những bảng giá trị Việt triết đề nghị có tác dụng trong công việc bảo tồn và phát huy xã hội Việt, thì lúc ấy mới có thể được coi là căn bản của luân thường đạo lý cũng như pháp luật Việt. Sau cùng, Việt triết chỉ có thể có một chỗ đứng vững chãi trong cộng đồng của triết học thế giới, nếu nó, hay nếu các triết gia Việt có thể cống hiến cho nhân loại những nguyên lý, phương pháp hay những giải đáp hữu hiệu có tính cách phổ quát và lâu dài.

Trong tác phẩm Le Même et l’Autrui, giáo sư Vincent Descombes của Ðại Học Paris đã xác quyết về triết học Pháp như sau: “Triết học Pháp là một nền triết học được diễn đạt bằng Pháp ngữ, dẫu rằng triết học này bàn về tư tưởng Hy Lạp, La-tinh, Anh, hay Ðức.” Có lẽ nhiều người không hẳn hài lòng với lối đao to búa lớn, và cười mũi cái tội tham lam của Descombes. Song, chúng ta cũng nên thông cảm với ông, đừng nên “cười người hôm trước, hôm sau người cười”. Bởi lẽ, chúng ta cũng đồng bệnh đồng thuyền với họ: cái bệnh tự ti, và tự ngạo. Triết học Pháp hiện đương bị giới triết học Ðức, và giới triết học dùng Anh ngữ chấn áp. Ðiều mà Descombes hẳn ý thức rõ ràng và đau sót, đó là triết học Pháp hiện đại nếu không có những ông tổ người Ðức và Áo như Immanuel Kant, Georg F. W. Hegel, Karl Marx, Friedrich Nietzsche, Edmund Husserl, Martin Heidegger, Sigmund Freud, Ludwig Wittgenstein, sẽ chẳng còn gì ngoài những lời ba hoa rỗng tuếch. Chúng tôi cũng ý thức như thế. Nếu gạt bỏ tất cả mọi tư tưởng “ngoại lai” như Tam Giáo, Kitô giáo, và các nền triết học Âu Mỹ, – như một số trí thức quá khích chủ trương -, thì Việt triết có lẽ chỉ còn là một căn lều hoang mà thôi. Thế nên, chúng tôi chủ trương, chúng ta có lẽ cũng nên tham lam đôi chút, chấp nhận rằng bất cứ người Việt nào, cho dù dùng tiếng nước chi, hay viết về bất cứ nền triết học gì, cũng đương trên con đường xây dựng Việt triết. Và bất cứ ai, dùng ngôn ngữ gì viết về Việt triết, cũng góp công vào tòa nhà Việt triết. Hiểu như vậy, những công trình của Trần Ðức Thảo, Trần Thái Ðỉnh, Lê Tôn Nghiêm, Cao Văn Luận, Trần Văn Hiến Minh, Trần Văn Toàn, Phan Ðình Cho cũng như nhiều học giả tại Viện Triết Học Hà Nội và tại các đại học tại Việt Nam, tức những vị chuyên về triết học hay thần học, tôn giáo Tây phương, cũng có thể được chấp nhận như là những viên gạch đóng góp vào công việc xây dựng tòa nhà Việt triết. Tương tự, những công trình nghiên cứu về các tôn giáo, các ý hệ như Phật học, Ðạo học, Khổng học, Ðạo dân gian, Ðạo Cao Ðài, Ðạo Hoà Hảo cũng như các lý thuyết triết học Âu Mỹ cũng phải được công nhận như là những viên gạch, những mầu sắc tô điểm, làm ngôi nhà Việt triết càng vững chắc, càng hấp dẫn.

Trở về mục lục

Hawking: Ai tạo ra Chúa?

Phạm Việt Hưng

Gần đây tôi rất ngạc nhiên khi biết Stephen Hawing cũng hỏi câu hỏi “Ai tạo ra Chúa?” – một câu hỏi rất phi logic. Vì Hawking là một nhà khoa học có ảnh hưởng lớn, cả ảnh hưởng tích cực lẫn tiêu cực, nên cần phải có một câu trả lời quyết định, một lần và mãi mãi, cho câu hỏi đó.

Nguyên văn Stephen Hawking nói:

“Thật có lý khi hỏi ai hoặc cái gì đã tạo ra vũ trụ, nhưng nếu câu trả lời là Chúa thì câu hỏi chỉ đơn thuần được biến thành câu hỏi ai đã tạo ra Chúa”1It is reasonable to ask who or what created the universe, but if the answer is God, then the question has merely been deflected to that of who created God https://quotefancy.com/quote/909847/Stephen-Hawking-It-is-reasonable-to-ask-who-or-what-created-the-universe-but-if-the / https://www.azquotes.com/quote/1267071#.

Câu hỏi ấy giống hệt câu hỏi của một số độc giả trên trang PVHg’s Home, đại ý là “nếu Chúa sáng tạo ra mọi thứ thì ai sáng tạo ra Chúa?”. Câu hỏi này đã được trả lời trong 3 bài báo sau đây:

  • 19/09/2016 Who created the Creator? Ai tạo ra Đấng Sáng tạo?2https://viethungpham.com/2016/09/19/who-created-the-creator-ai-tao-ra-dang-sang-tao/
  • 19/02/2019 To ask again: Who created God? Lại hỏi: Ai tạo ra Chúa?3https://viethungpham.com/2019/02/19/ask-again-who-created-god-lai-hoi-ai-tao-ra-chua/
  • 20/02/2021 The Limit of Logic / Hạn chế của Logic 4https://viethungpham.com/2021/02/20/the-limit-of-logic-han-che-cua-logic/

Nhưng hôm nay câu hỏi “Ai tạo ra Chúa?” sẽ được thảo luận kỹ hơn, vì nó được nêu lên bởi một nhà khoa học lừng danh như Stephen Hawking. Để tránh hiểu lầm, xin nói rằng khái niệm “Chúa” ở đây ngụ ý “Đấng Sáng Tạo” của vũ tru. Điều thú vị là xoay quanh vấn đề Đấng Sáng Tạo, có “hai Hawking” với hai quan điểm trái ngược nhau. Một Hawking trẻ thấy cần có Chúa, và một Hawking cuối đời phủ nhận Chúa.

a1

Thông qua các tác phẩm của Stephen Hawking lúc ông con trẻ, có thể nhận thấy lập luận khoa học của ông bị chi phối bởi hai tư tưởng lớn sau đây:

i)  Tư tưởng cho rằng vũ trụ đã được thiết kế một cách hài hoà chính xác để sự sống và con người có thể tồn tại. Tư tưởng này được gọi là Nguyên lý Vị Nhân (Anthropic Principle) – vũ trụ có mục đích vì sự sống và con người. Nếu vũ trụ không có mục đích, nó sẽ hỗn loạn, vô trật tự và do đó sẽ không có sự sống.

ii)  Tư tưởng cho rằng vũ trụ ắt phải có khởi đầu, do đó ắt phải có chủ thể tạo ra sự khởi đầu đó. Có 2 bằng chứng lớn ủng hộ tư tưởng này: Một là Lý thuyết Big Bang, hệ quả tất yếu của Thuyết Tương đối Tổng quát của Albert Einstein. Hai là Định luật 2 của Nhiệt Động lực học.

Cả hai tư tưởng nói trên đều dẫn tới cùng một kết luận rằng vũ trụ ắt phải có Đấng Sáng Tạo. Bây giờ hãy xem chính Hawking biểu lộ tư tưởng của ông như thế nào. 

Nguyên lý Vị Nhân: Vũ trụ được thiết kế hài hoà vì con người

Tất cả chúng ta đều biết vũ trụ không hỗn loạn, mà có trật tự – vũ trụ vận hành theo những định luật xác định, đẹp đẽ, chứ không tuỳ tiện, vô trật tự. Tại sao vũ trụ không hỗn loạn mà có trật tự? Có 2 câu trả lời:

Một, mọi sự diễn ra đều là ngẫu nhiên, tự phát. Đây là câu trả lời của những người theo Chủ nghĩa Tự nhiên (Naturalism) – một hệ tư tưởng không chấp nhận bất kỳ cái gì siêu nhiên, siêu hình, không thể quan sát trực tiếp được.

Hai, mọi hiện tượng vũ trụ đều là kết quả của một bản thiết kế / một chương trình định trước. Đây là câu trả lời của những người tin vào Sáng Tạo Luận (Creationism) hoặc Lý thuyết Thiết kế Thông minh (Theory of Intelligent Design).

Stephen Hawking khi còn trẻ ngả theo câu trả lời thứ hai. Ông còn giải thích rõ cho chúng ta biết bản thiết kế ấy / chương trình ấy có mục đích “vì con người”: mọi điều kiện tự nhiên phải được chọn lựa một cách tinh vi sao cho sinh vật bao gồm con người có thể sinh sôi và phát triển. Tư tưởng này được gọi là Nguyên lý Vị Nhân, một nguyên lý vừa khoa học vừa nhân văn.

Đây, xin lắng nghe Hawking nói:

“Vũ trụ và các định luật vật lý dường như đã được thiết kế đặc biệt cho chúng ta. Nếu bất kỳ một tính chất nào trong khoảng 40 tính chất vật lý mà có sự khác biệt chút xíu thì sự sống như ta biết đã không thể tồn tại: Hoặc các nguyên tử sẽ không bền vững, hoặc chúng sẽ không kết hợp với nhau để thành các phân tử, hoặc các ngôi sao sẽ không tạo ra các nguyên tố nặng, hoặc vũ trụ sẽ bị sụp đổ trước khi sự sống có thể ra đời, v.v.”5The universe and the laws of physics seem to have been specifically designed for us. If any one of about 40 physical qualities had more than slightly different values, life as we know it could not exist: Either atoms would not be stable, or the wouldn’t combine into molecules, or the stars wouldn’t form the heavier elements, or the universe would collapse before life could develop, and so on… https://www.quotetab.com/quote/by-stephen-hawking/the-universe-and-the-laws-of-physics-seem-to-have-been-specifically-designed-for?source=law / https://www.inspiringquotes.us/author/1090-stephen-hawking/about-evolution / https://www.pinterest.com.au/pin/608056387163775625/

Nếu vũ trụ hỗn loạn thì sẽ không có khoa học, bởi sẽ không có con người để nghiên cứu khoa học. Mục đích của khoa học là khám phá ra các định luật của vũ trụ – những định luật mô tả trật tự và vẻ đẹp của vũ trụ. Điều này đã được chính Hawking nói rõ trong những cuộc phỏng vấn với Gregory Benford năm 2002 về Lỗ đen và Lý thuyết Trường thống nhất:

“Ấn tượng choáng ngợp là ấn tượng về trật tự (của vũ trụ). Càng khám phá nhiều về vũ trụ, chúng ta càng thấy nó bị chi phối bởi các quy luật hợp lý”. “Bạn vẫn còn câu hỏi: tại sao vũ trụ lại tồn tại? Nếu muốn, bạn có thể định nghĩa Chúa là câu trả lời cho câu hỏi đó”6The overwhelming impression is one of order. The more we discover about the universe, the more we find that it is governed by rational laws. You still have the question: why does the universe bother to exist? If you like, you can define God to be the answer to that question http://hyperphysics.phy-astr.gsu.edu/Nave-html/Faithpathh/hawking.html.

Trong tác phẩm nổi tiếng, “Lược sử Thời gian” (A Brief History of Time), xuất bản năm 1988, Hawking cũng chứng minh hùng hồn cho tư tưởng cho rằng vũ trụ đã được thiết kế để đảm bảo cho sự sống tồn tại:

“Thực tế đáng chú ý là giá trị của những con số này (những hằng số vật lý) dường như đã được điều chỉnh rất tinh vi để có thể tạo ra sự phát triển của sự sống … Ví dụ, nếu điện tích của electron chỉ khác một chút, các ngôi sao sẽ không thể đốt hydrogen và helium, nếu không thì chúng có thể đã không bùng nổ. Dường như rõ ràng là có tương đối ít phạm vi giá trị cho các hằng số vật lý để có thể cho phép phát triển bất kỳ dạng thức sống thông minh nào”7The remarkable fact is that the values of these numbers (i.e. the constants of physics) seem to have been very finely adjusted to make possible the development of life … For example, if the electric charge of the electron had been only slightly different, stars would have been unable to burn hydrogen and helium, or else they would not have exploded… It seems clear that there are relatively few ranges of values for the numbers (for the constants) that would allow for development of any form of intelligent life https://www.theguardian.com/commentisfree/andrewbrown/2009/jan/08/religion-atheism-longley-advertising

Cũng trong cuốn sách đó, Hawking nói cho chúng ta biết rằng Nguyên lý Vị nhân tác động ngay từ thủa khai sinh của vũ trụ. Ông nói:

“Trong mô hình big bang nóng, không có đủ thời gian trong vũ trụ sơ khai để nhiệt truyền từ vùng này sang vùng khác. Điều này có nghĩa là trạng thái ban đầu của vũ trụ phải có cùng một nhiệt độ ở mọi nơi để giải thích rằng nền vi sóng có cùng nhiệt độ theo mọi hướng chúng ta nhìn. Hơn nữa, tốc độ giãn nở ban đầu sẽ phải được lựa chọn rất chính xác để tốc độ giãn nở vẫn gần với tốc độ tới hạn cần thiết để tránh sụp đổ. Sẽ rất khó để giải thích tại sao vũ trụ cần phải khởi đầu theo cách này, ngoại trừ hành động của một vị Chúa có ý định tạo ra những sinh vật như chúng ta”8Wikipedia > Talk:Stephen Hawking/Archive 3 > Verdict on God? In the hot big bang model there was not enough time in the early universe for heat to have flowed from one region to another. This means that the initial state of the universe would have to have had exactly the same temperature everywhere to account for the fact that the microwave background has the same temperature in every direction we look. Moreover, the initial rate of expansion would have had to be to be chosen very precisely for the rate of expansion still to be close to the critical rate needed to avoid collapse. It would be very difficult to explain why the universe should have begun in this way, except as the act of a God who intended to create beings like us https://en.wikipedia.org/wiki/Talk%3AStephen_Hawking%2FArchive_3.

51SWYYvk+KL._AC_SY1000_

Tóm lại, sự hài hoà của vũ trụ, trật tự của vũ trụ, các định luật vật lý rất đẹp đẽ của vũ trụ nói lên Nguyên lý Vị Nhân: Vũ trụ không phải là một cỗ máy mù quáng, vũ trụ không hình thành một cách tuỳ tiện hỗn loạn, mà có một mục đích rõ ràng là vì con người. Để đảm bảo cho các sinh vật và con người có thể tồn tại, vũ trụ phải được thiết kế và lập trình một cách tinh vi! Nhà Thiết kế, hoặc Nhà Lập trình của Vũ trụ chính là Đấng Sáng tạo.

Kết luận: Chính Stephen Hawking, thông qua Nguyên lý Vị Nhân, đã chứng minh rõ ràng hơn ai hết rằng ắt phải có Đấng Sáng tạo như tác giả của các định luật vũ trụ, nhằm tạo ra một vũ trụ có trật tự hài hòa, đảm bảo cho sự sống tồn tại.

Vũ trụ ắt phải có khởi đầu

Trong cuốn “Định lý Gödel, Nền tảng của Khoa học hiện đại”, do NXB Tri Thức xuất bản năm 2019, trang 152, tôi đã viết:

“Lý thuyết Big Bang là hệ quả trực tiếp của Thuyết tương đối tổng quát nên Albert Einstein xứng đáng được coi là một trong những cha đẻ của lý thuyết này, mặc dù là cha đẻ “vô tình”. Điều “bất ngờ thú vị” là vị cha đẻ này đã bị “sốc” khi được biết hoá ra vũ trụ có một khởi đầu chứ không hằng hữu vĩnh cửu như ông tưởng. Quan niệm vũ trụ hằng hữu do Aristotle đề xướng từ thời cổ đại vẫn thống trị mãi cho đến trước khi Lý thuyết Big Bang ra đời. Những bộ óc vĩ đại như Newton, Einstein có thể khám phá ra những định luật khổng lồ của vũ trụ, nhưng chưa bao giờ dám tưởng tượng tới một vũ trụ có một lịch sử biến đổi. Vì thế, tư tưởng của Lemaître phải nói là rất táo bạo. Ngay cả khi đối diện với Einstein, Lemaître vẫn tự tin bảo vệ lập trường của mình để thuyết phục vị cha đẻ của Thuyết tương đối tổng quát rằng sự khởi đầu của vũ trụ là không thể tránh được. Kết luận mang tính cách mạng này một lần nữa đã được xác nhận bởi những công trình nghiên cứu độc lập của Stephen Hawking và Roger Penrose, hai trong số những nhà toán học và vật lý lý thuyết lỗi lạc nhất trong nửa sau thế kỷ 20. Nhiều lý thuyết khác cũng ủng hộ quan điểm vũ trụ ắt phải có khởi đầu. Theo Định luật 2 của nhiệt động lực học (Định luật Entropy), mọi hệ đóng đều có xu hướng tiến tới hỗn loạn và tan rã. Vũ trụ là một hệ đóng. Vậy nếu Vũ trụ là hằng hữu thì nó đã bị tan loãng từ lâu rồi”.

Quan điểm nói trên được rút ra từ nhiều tài liệu, bao gồm cuốn Lược sử Thời gian của Stephen Hawking. Trong cuốn này, Hawking nhiều lần nhắc đi nhắc lại rằng sự khởi đầu của vũ trụ là tất yếu, không thể tránh được, giống như Lemaître đã từng khẳng định với Einstein. Đây, Hawking viết:

“Roger Penrose và tôi đã chỉ ra rằng thuyết tương đối tổng quát của Einstein ngụ ý rằng vũ trụ ắt phải có một khởi đầu và có lẽ, một kết thúc”. (trang 36)

“Thuyết tương đối tổng quát của Einstein, riêng mình nó, đã dự đoán rằng không-thời gian đã khởi đầu từ điểm kỳ dị của big bang và sẽ đi tới kết thúc hoặc tại một điểm kỳ dị của một vụ co lớn (nếu toàn thể vũ trụ tái suy sụp) hoặc tại một điểm kỳ dị bên trong một lỗ đen (nếu một khu vực cục bộ, chẳng hạn như một ngôi sao, bị suy sụp)” (trang 121).

Năm 1996, trong một bài giảng nhan đề “Khởi đầu của Thời gian” (The Beginning of Time)9https://www.hawking.org.uk/in-words/lectures/the-beginning-of-time, Hawking thuyết giảng vấn đề này rõ ràng hơn:

“Mọi bằng chứng dường như chỉ ra rằng vũ trụ không hằng hữu, mà đã có một khởi đầu khoảng 15 tỷ năm trước. Có lẽ đây là khám phá phi thường nhất của vũ trụ học hiện đại. Do đó, thật tự nhiên khi tin rằng loài người, và có thể là cả vũ trụ, đã có một khởi đầu trong quá khứ khá gần đây. Tuy nhiên, nhiều người không hài lòng với ý kiến cho rằng vũ trụ có sự khởi đầu, vì nó dường như ám chỉ sự tồn tại của một đấng siêu nhiên, người đã tạo ra vũ trụ”.

Tiếp theo, Hawking chỉ ra rằng theo Định luật 2 của Nhiệt động lực học, vũ trụ ắt phải có khởi đầu. Đây, ông nói:

“Nhà vũ trụ học, Sir Arthur Eddington, từng nói, “Đừng lo lắng nếu lý thuyết của bạn không phù hợp với các quan sát, bởi vì các quan sát có thể sai”. Nhưng nếu lý thuyết của bạn không phù hợp với Định luật Thứ hai của Nhiệt động lực học, thì nó sẽ gặp rắc rối nghiêm trọng. Trên thực tế, lý thuyết cho rằng vũ trụ hằng hữu đang gặp khó khăn nghiêm trọng với Định luật Thứ hai của Nhiệt động lực học. Định luật thứ hai nói rằng sự vô trật tự luôn tăng theo thời gian. Giống như lập luận về sự tiến bộ của con người, nó chỉ ra rằng phải có một sự khởi đầu. Nếu không, vũ trụ sẽ rơi vào trạng thái hoàn toàn hỗn loạn vào lúc này, và mọi thứ sẽ ở cùng một nhiệt độ. Trong một vũ trụ vô hạn và vĩnh cửu, mọi đường ngắm sẽ kết thúc trên bề mặt của một ngôi sao. Điều này có nghĩa là bầu trời đêm sẽ sáng như bề mặt của Mặt trời. Cách duy nhất để tránh vấn đề này là nếu vì lý do nào đó, các ngôi sao không toả sáng trước một thời điểm nhất định”.

Tóm lại, sự khởi đầu của vũ trụ là một hệ luận tất yếu của khoa học. Vậy “ai” đã tạo ra sự khởi đầu đó, nếu không phải Đấng Sáng tạo? Đó là một lập luận logic không thể chối cãi được. Dù bạn thích hay không thích mô hình vũ trụ có khởi đầu, bạn khó có thể tranh cãi với lập luận của khoa học. Cụ thể là Lý thuyết Big Bang, do Georges Lemaître đề xướng, như một hệ quả trực tiếp của Thuyết Tương đối Tổng quát. Các công trình nghiên cứu sau này của Roger Penrose và Stephen Hawking cũng chứng minh sự khởi đầu tất yếu của vũ trụ. Einstein lúc đầu không thích mô hình của Lemaître, nhưng sau nhiều lần thảo luận với Lemaître, ông đã chấp nhận lý thuyết này, và bất ngờ thốt lên rằng “Đây là lời giải thích tuyệt vời và thoả đáng nhất về sự sáng tạo mà tôi từng được nghe”10Định lý Gödel, Nền tảng của Khoa học Nhận thức Hiện đại, của Phạm Việt Hưng, NXB Tri Thức 2019, trang 147..

Nếu có khởi đầu thì ắt phải có chủ thể tạo ra sự khởi đầu ấy, tức Đấng Sáng tạo. Vì thế, theo Hawking, rất khó để giải thích nguồn gốc của vũ trụ mà không thừa nhận vai trò của Chúa. Thật vậy, trong một cuộc phỏng vấn trên Đài Truyền hình ABC năm 1989, chính Hawking đã nói rất rõ:

“Rất khó thảo luận về sự khởi đầu của vũ trụ mà không đề cập đến khái niệm về Chúa. Công trình của tôi về nguồn gốc vũ trụ nằm ở đường ranh giới giữa khoa học và tôn giáo, nhưng tôi cố gắng đứng bên phía khoa học của đường ranh giới. Rất có thể Chúa tác động theo những cách không thể mô tả được bằng các định luật khoa học”11 It is difficult to discuss the beginning of the universe without mentioning the concept of God. My work on the origin of the universe is on the borderline between science and religion, but I try to stay on the scientific side of the border. It is quite possible that God acts in ways that cannot be described by scientific laws. http://hyperphysics.phy-astr.gsu.edu/Nave-html/Faithpathh/hawking.html.

Xin nhắc lại để nhấn mạnh: Rất khó nói về sự khởi đầu của vũ trụ mà không đề cập đến Chúa. Tư duy của Hawking cho đến thời điểm đó vẫn là tư duy truyền thống của khoa học – truyền thống cho rằng các định luật tự nhiên thể hiện ý Chúa. Truyền thống ấy lộ ra trong cuốn sách nổi tiếng của ông, Lược sử Thời gian, nhất là ở câu kết:  

“Tuy nhiên, nếu chúng ta khám phá được một lý thuyết hoàn chỉnh, thì rốt cuộc trên nguyên lý đại cương nó sẽ được mọi người hiểu, chứ không chỉ một ít các nhà khoa học hiểu. Rồi tất cả chúng ta, các nhà triết học, các nhà khoa học, và ngay cả những người bình thường, có thể tham gia vào cuộc thảo luận về câu hỏi tại sao chúng ta và vũ trụ tồn tại. Nếu chúng ta tìm được câu trả lời cho câu hỏi đó, đó sẽ là thắng lợi cuối cùng của lý trí con người – khi đó chúng ta sẽ hiểu được ý Chúa” (trang 185).  

Hóa ra Chúa, tức Đấng Sáng tạo, không chỉ là một nhu cầu của tôn giáo, mà còn là một nhu cầu thiết yếu của chính khoa học, bởi Stephen Hawking chưa bao giờ và không bao giờ là con người của Đức tin, ông là một con người hoàn toàn duy lý, một nhà khoa học vô thần.

a2

Trong những phần trước chúng ta đã thấy một Stephen Hawking trẻ trung, bằng lập luận khoa học thuyết phục, chứng minh rằng vũ trụ cần phải có Đấng Sáng tạo như một nguyên nhân cho sự khởi đầu không thể tránh được. Nhưng trong phần này, chúng ta sẽ thấy một Stephen Hawking về cuối đời ngả hẳn theo chủ nghĩa tự nhiên, tuyên bố thẳng thừng rằng vũ trụ có thể ra đời một cách tự phát mà không cần đến Chúa. Tư tưởng cuối đời của Hawking biểu lộ chủ yếu trong cuốn “Grand Design” (Thiết kế lớn), xuất bản năm 2010, khi ông 68 tuổi.

“Thiết kế Lớn” của Hawking phản lại Hawking trẻ

Thiết kế Lớn chứa đựng nhiều tư tưởng thú vị, trong đó có những tư tưởng rất đáng để chúng ta suy ngẫm, học hỏi, nhưng tiếc thay, những ý kiến liên quan đến nguồn gốc vũ trụ đã làm cho cuốn sách này trở thành một bước lùi về nhận thức trong cuộc đời nhà khoa học tài danh này. Điển hình là những ý kiến sau đây12Dẫn theo cuốn “Stephen Hawking & God” của John Lennox,:

Vũ trụ khởi đầu với big bang. Vụ nổ lớn này đơn giản là tuân thủ định luật tất yếu của vật lý. Vì có một định luật như luật hấp dẫn, vũ trụ có thể tự tạo ra nó từ hư không”.

Sự hình thành của vũ trụ tự phát là lý do để có một cái gì đó thay vì không có gì cả, lý do tại sao vũ trụ tồn tại, tại sao chúng ta tồn tại. Không cần phải cầu viện đến Chúa để châm ngòi nổ và đưa vũ trụ vào vận hành”.

Triết học đã chết. Nó không bắt kịp với sự phát triển của khoa học hiện đại, đặc biệt là vật lý. Do đó các nhà khoa học đã trở thành những người cầm đuốc trong công cuộc khám phá nhằm thoả mãn nhu cầu hiểu biết của chúng ta”.

Thiết tưởng không cần phải có học thức cao siêu, dường như bất cứ một người nào có nhận thức lành mạnh cũng đều có thể bác bỏ những ý kiến nói trên của Hawking, vì tính phi logic của nó lộ ra quá rõ ràng.

Chẳng hạn, một ý kiến trên trang Physics13https://physics.stackexchange.com/questions/13013/stephen-hawking-says-universe-can-create-itself-from-nothing-but-how-exactly phân tích rất sắc bén như sau:

Stephen Hawking nói trong cuốn sách mới nhất của ông, The Grand Design, rằng ‘Vì có một định luật như luật hấp dẫn, vũ trụ có thể và sẽ tự tạo ra nó từ hư không’. Đó chẳng phải là logic luẩn quẩn ư? Làm thế nào mà lực hấp dẫn tồn tại nếu không có vũ trụ? Và nếu không có lực hấp dẫn thì làm thế nào để nó có thể là lý do sáng tạo ra vũ trụ? Cũng vậy, nếu vũ trụ không tồn tại, làm thế nào để nó có thể tự tạo ra nó? Đối với tôi, câu nói đó thật vô nghĩa. Điều đó dường như quá vô lý và phi logic đến nỗi tôi chưa bao giờ nghe thấy những câu như thế ngay cả trong triết học. Dựa trên nền tảng nào mà Stephen Hawking tuyên bố như thế?”.

Thú vị hơn, tờ The Guardian của Anh ra ngày 02/09/2010 đã tổ chức một cuộc thăm dò ý kiến công chúng với câu hỏi sau đây14https://www.theguardian.com/commentisfree/belief/poll/2010/sep/02/religion-hawking:

Trong một cuốn sách mới, nhà vật lý nổi tiếng thế giới Stephen Hawking đã thay đổi lập trường trước đây của ông, một lập trường dường như chấp nhận một đấng sáng tạo thần thánh, để lập luận rằng vũ trụ là một công trình của vật lý, chứ không phải của Chúa. Bạn có đồng ý không?”.

Kết quả: 37% đồng ý và 63% không đồng ý!

Tất nhiên đa số không phải lúc nào cũng là chân lý. Nhưng trong trường hợp này, đa số nói lên chân lý, vì sai lầm về logic của Hawking quá rõ ràng.

Tuy nhiên, người lên tiếng phê phán và bác bỏ Hawking mạnh nhất là John Lennox, một Giáo sư toán học và Triết học Khoa học tại Đại học Oxford, tác giả cuốn sách “Stephen Hawking & God”, xuất bản năm 2011.

Ông mô tả phát biểu của Hawking là “ngạo mạn và kiêu căng”, “không phù hợp với những quy tắc cơ bản của phân tích logic”, “một thí dụ kinh điển về tính luẩn quẩn logic” …

Theo Lennox, Hawking tự mâu thuẫn, vì khi lực hấp dẫn hay định luật hấp dẫn đã tồn tại thì vũ trụ đâu phải là “hư không”? Tệ hơn nữa, khi nói “vũ trụ có thể tự tạo ra nó từ hư không” thực chất là thừa nhận sự tồn tại của vũ trụ để suy ra sự tồn tại của vũ trụ!

Ngày nay, với con mắt của Lý thuyết Thông tin, chúng ta có thể bổ sung cho ý kiến của John Lennox bằng cách nói rõ hơn rằng các định luật vũ trụ chính là các thông tin về vũ trụ. Theo Lý thuyết Thông tin, mọi thông tin đều xuất phát từ một nguồn trí tuệ thông minh. Vậy nếu thừa nhận có một định luật như luật hấp dẫn thì có nghĩa là thừa nhận đã có một thông tin vũ trụ, tức là thừa nhận sự hiện hữu của Nhà Lập trình của vũ trụ – chủ thể đã ban hành thông tin ấy! Nhà Lập trình ấy chính là Đấng Sáng tạo của vũ trụ. Điều này trái với ý kiến của chính Hawking rằng không cần phải viện đến Chúa để châm ngòi nổ và đưa vũ trụ vào vận hành.

Giáo sư John Lennox kết luận:

Tất cả những điều này cho thấy vô nghĩa vẫn là vô nghĩa, ngay cả khi chúng được nói ra bởi các nhà khoa học nổi tiếng thế giới. Điều che đậy tính phi logic của những tuyên bố như thế là ở chỗ chúng được nói ra bởi các nhà khoa học; và không có gì ngạc nhiên khi công chúng cho rằng đó là tuyên bố của những nhà khoa học có thẩm quyền. Vì thế điều quan trọng là phải chỉ ra rằng chúng không phải là tuyên bố của khoa học, và bất kỳ tuyên bố nào, cho dù được đưa ra bởi một nhà khoa học hay không, đều nên để ngỏ cho những phân tích logic. Uy tín và quyền hạn to lớn không che lấp được sai lầm về logic15Stephen Hawking and God > What this all goes to show is that nonsense remains nonsense, even when talked by world-famous scientists. What serves to obscure the illogicality of such statements is the fact that they are made by scientists; and the general public, not surprisingly, assumes that they are statements of science and takes them on authority. That is why it is important to point out that they are not statements of science, and any statement, whether made by a scientist or not, should be open to logical analysis. Immense prestige and authority does not compensate for faulty logic https://www.goodreads.com/work/quotes/15282665-god-and-stephen-hawking-whose-design-is-it-anyway#:~:text=%E2%80%9CWhat%20this%20all%20goes%20to,talked%20by%20world%2Dfamous%20scientists.&text=That%20is%20why%20it%20is,be%20open%20to%20logical%20analysis..

2

Thực ra, như chúng ta thấy qua thăm dò của tờ The Guardian, đa số công chúng rất tỉnh táo, họ không coi tuyên bố của Hawking là tuyên bố có thẩm quyền khoa học, đa số đã bác bỏ ý kiến của Hawking. Tại sao? Vì tính phi logic trong phát biểu của Hawking rõ đến nỗi bất kỳ ai có trí tuệ lành mạnh cũng có thể nhận thấy.

Trong số những công chúng ấy, chắc chắn có những người đã từng tin vào những lý thuyết của chính Hawking trước đây (Hawking trẻ) – những lý thuyết mô tả vẻ đẹp của một vũ trụ trật tự, hài hoà theo Nguyên lý Vị Nhân, một vũ trụ ắt phải có khởi đầu và do đó ắt phải có Đấng Sáng tạo … Những công chúng ấy chắc chắn sẽ thất vọng với một Hawking thay đổi lập trường 180 độ để tự bác bỏ quá khứ của chính mình. Thật vậy, nếu Hawking cuối đời đúng thì suy ra tất cả những lý thuyết của Hawking lúc trẻ đều trở thành vô giá trị. Nhưng những lý thuyết ấy không vô giá trị, vì nó dựa trên những lý thuyết khoa học vững chắc không thể sai lầm, như Thuyết Tương đối Tổng quát của Einstein, Định luật 2 của Nhiệt Động lực học … Do đó, về logic, Hawking cuối đời phải SAI! Những phát biểu của Hawking về vũ trụ tự phát là phi logic, vô nghĩa, đúng như John Lennox đã nói.

Vậy đã đến lúc phải quay lại với câu hỏi của Hawking, “Ai tạo ra Chúa?”. Câu hỏi này có hợp lý không? Hay nó cũng phi logic như những phát biểu của Hawking về vũ trụ tự phát?

Có thể trả lời ngay: Bất kỳ ai thấm nhuần ý nghĩa triết học của Định lý Gödel cũng sẽ thấy ngay câu hỏi “Ai tạo ra Chúa?” của Hawking là vô lý, là phi logic!

Định lý Goedel và tính phi lý của câu hỏi “Ai tạo ra Chúa?”

Định lý Gödel là một định lý toán học, nhưng ý nghĩa triết học của nó bao trùm lên hết thảy mọi lĩnh vực nhận thức. Tại sao vậy? Vì nếu toán học là hệ logic mạnh nhất mà bất toàn thì những hệ thống nhận thức yếu hơn về logic sẽ càng bất toàn. Tính bất toàn của toán học nói riêng và của nhận thức duy lý nói chung biểu lộ rõ nhất ở tính hạn chế của nó. Nói cách khác, nhận thức duy lý có giới hạn.

Thật vậy, Định lý Gödel đã chỉ ra rằng toán học là bất toàn, hoặc toán học có sức mạnh hạn chế, vì có những câu hỏi trong toán học mà toán học không thể trả lời.

Điều thú vị là năm 2002, Stephen Hawking đã áp dụng Định lý Gödel vào vật lý để tuyên bố rằng:

Theo triết học thực chứng của khoa học, một lý thuyết vật lý là một mô hình toán học. Vì vậy, nếu có những kết quả toán học không thể chứng minh được thì cũng có những bài toán vật lý không thể dự đoán được16Định lý Gödel, Nền tảng của Khoa học Nhận thức Hiện đại, Phạm Việt Hưng, NXB tri Thức 2019, trang 130..

Có nghĩa là Hawking cũng thừa nhận rằng lý lẽ có giới hạn, vật lý học cũng bất toàn. Ấy thế mà ông lại nêu lên một câu hỏi vượt quá giới hạn của lý lẽ như câu hỏi “Ai tạo ra Chúa?”. Điều đó chứng tỏ câu hỏi này của Hawking cũng vô lý và phi logic như những ý kiến của ông về vũ trụ tự phát.

Thật vậy, trong khi tranh luận, nếu ai đó cố tình nêu lên những câu hỏi vượt ra ngoài giới hạn của logic rồi đòi người khác phải trả lời bằng logic thì người ấy tự chứng minh mình thiếu hiểu biết về Định lý Gödel. Đó chính là cái vô lý về logic mà Kurt Gödel, cha đẻ của Định lý Bất toàn, đã cảnh báo từ lâu:

Nếu quả thật là có những bài toán toán học không quyết định được bởi lý trí của con người thì điều đó ngụ ý rằng lý lẽ của con người là cực kỳ vô lý khi hỏi những câu hỏi không thể trả lời, trong khi cứ nằng nặc nhấn mạnh rằng chỉ có lý lẽ mới có thể trả lời những câu hỏi đó17If it were true [that there are mathematical problems undecidable by the human mind] it would mean that human reason is utterly irrational in asking questions it cannot answer, while asserting emphatically that only reason can answer them http://kevincarmody.com/math/goedel.html.

Câu hỏi “Ai tạo ra Chúa?” thuộc loại câu hỏi không thể trả lời, vì nó vượt quá giới hạn của khoa học. Giới hạn của vũ trụ học là điểm khởi đầu của vũ trụ – “nguyên tử nguyên thủy” hoặc “điểm kỳ dị”. Đến giới hạn này, khoa học không thể biết gì hơn nữa. Mọi nỗ lực giải thích bằng khoa học về sự khởi đầu của vũ trụ đều là không tưởng và hão huyền.

Gödel tuyên bố: “Không thể giải thích mọi thứ được”!

Chúa là một khái niệm không thể giải thích được. Bạn chỉ có thể thừa nhận Chúa như một TIÊN ĐỀ của nhận thức luận, của vũ trụ học, của khoa học về sự sống.

Những nhà khoa học thông minh nhất đều dừng lại ở “nguyên tử nguyên thủy” hoặc “điểm kỳ dị”, không giải thích nữa. Đến đây, logic dừng lại để nhường chỗ cho TRỰC GIÁC hoặc NIỀM TIN.

Nếu trực giác của bạn không mách bảo bạn dừng lại để đặt niềm tin vào Đấng Sáng Tạo, thì bạn phải tiếp tục chứng minh “ai” hoặc “cái gì” tạo ra cái khởi đầu của vũ trụ, thay vì bạn chất vấn về Chúa, bởi như đã nói ở trên, đối với những người tin vào Đấng Sáng Tạo thì Chúa là một tiên đề của Nhận thức luận. Bạn không thể chất vấn một tiên đề. Giống như bạn không thể chất vấn Tiên đề 5 của Euclid (Tiên đề đường song song). Hơn 2000 năm nỗ lực chứng minh Tiên đề 5 đã dẫn tới một kết luận mang tính cách mạng về nhận thức, rằng Tiên đề 5 quả thật là một tiên đề.

Giả sử có ai đó chất vấn Tiên đề 5: “Tại sao qua một điểm cho trước ở ngoài một đường thẳng cho trước chỉ có thể kẻ được một đường thẳng duy nhất song song với đường thẳng đã cho?”, thì tôi sẽ nói với người ấy rằng:

Hỏi như thế là vô lý, kém hiểu biết về logic, kém hiểu biết về triết học toán học, kém hiểu biết về lịch sử toán học. Từ thế kỷ 17, thần đồng toán học Blaise Pascal đã khẳng định rằng hình học tuy rất mạnh, nhưng rốt cuộc vẫn phải dựa trên niềm tin vào hệ tiên đề của nó. Tiên đề là cái không thể chứng minh, mà chỉ có thể thừa nhận bằng TRỰC GIÁC. Đến thế kỷ 20, Kurt Gödel đã chứng minh tư tưởng của Pascal bằng toán học không thể chối cãi.

Tương tự, nếu chất vấn Hawking “Tại sao không tồn tại một tập hợp nào có lực lượng lớn hơn tập tự nhiên và bé hơn tập số thực?” thì nhà bác học sẽ trả lời sao đây?

Đó là một chất vấn cực kỳ vô lý, vì Gödel và Cohen (một học trò của Gödel) đã chứng minh câu hỏi đó là một bài toán bất khả quyết định.

Nếu đã biết bài toán đó là bất khả quyết định mà còn cố tình đem ra hỏi người khác thì điều đó chỉ chứng tỏ rằng người hỏi là “cực kỳ vô lý”, nếu không phải là “xấu tính”.

Kết luận: Nếu Chúa (Đấng Sáng tạo) là một TIÊN ĐỀ của nhận thức luận khoa học thì câu hỏi “Ai tạo ra Chúa?” là một câu hỏi ngớ ngẩn, “cực kỳ vô lý”, kém hiểu biết về Định lý Gödel.

Chúng ta có thể thấy rõ hơn tính “cực kỳ vô lý” ấy nếu ta đem so sánh nó với những quan điểm của chính Hawking trong bài giảng tuyệt vời của ông năm 2002, nhan đề “Gödel & sự kết thúc của vật lý” (Gödel & The End of Physics).

Thật vậy, trong bài giảng này, Hawking đã thể hiện sự thấm nhuần Định lý Gödel đến mức cho rằng vật lý học không thể có một lý thuyết đầy đủ về vũ trụ. Nói cách khác, vật lý học sẽ không thể giải thích được nguồn gốc vũ trụ. Đây, Hawking nói:

Nhưng chúng ta không phải là thiên thần nhìn vũ trụ từ bên ngoài. Thay vào đó, cả chúng ta lẫn các mô hình của chúng ta đều là một bộ phận của vũ trụ mà chúng ta đang mô tả. Như vậy, một lý thuyết vật lý là một hệ tự quy chiếu, như trong định lý của Gödel. Do đó người ta có thể cho rằng nó hoặc không nhất quán hoặc không đầy đủ. Cho đến nay, các lý thuyết hiện có vừa không nhất quán vừa không đầy đủ18But we are not angels, who view the universe from the outside. Instead, we and our models, are both part of the universe we are describing. Thus a physical theory, is self referencing, like in Gödel’s theorem. One might therefore expect it to be either inconsistent, or incomplete. The theories we have so far, are ~both inconsistent, and incomplete. http://yclept.ucdavis.edu/course/215c.S17/TEX/GodelAndEndOfPhysics.pdf > Định lý Gödel, Nền tảng của Khoa học Nhận thức Hiện đại, Phạm Việt Hưng, NXB Tri Thức 2019, trang 130.

1 (2)

Đó là một ý kiến xuất sắc. Logic của ý kiến nói trên hoàn toàn dựa trên Định lý Gödel. Thật vậy, theo Định lý Gödel, một hệ logic không thể hiểu đầy đủ về chính nó (A tự phán xét A sẽ là một hệ tự quy chiếu). Muốn hiểu một hệ logic đầy đủ hơn, phải đi ra ngoài hệ ấy. Thí dụ, muốn hiểu hình học đầy đủ hơn, phải dùng đến số học. Muốn hiểu toán học đầy đủ hơn phải đi ra ngoài toán học. Giáo sư Tạ Quang Bửu đã nói điều này một cách ngắn gọn, rằng “Cái đúng của toán học phải tìm ngoài toán học”.

Stephen Hawking cũng thấm nhuần ý nghĩa đó, nên ông cho rằng vật lý học không thể hiểu đầy đủ về vũ trụ: mọi lý thuyết vật lý luôn luôn nằm bên trong vũ trụ, và do đó nó là một hệ tự quy chiếu. Theo Định lý Gödel, mọi hệ tự quy chiếu đều dẫn tới mâu thuẫn hoặc không thể tự chứng. Đó là lý do vì sao các lý thuyết vật lý hiện nay vừa không nhất quán vừa không đầy đủ, như chính Hawking đã nói.

Nếu thế thì làm sao vật lý học có thể giải thích được nguồn gốc vũ trụ?

Rõ ràng việc cố giải thích nguồn gốc vũ trụ một cách tuỳ tiện của Hawking rằng vũ trụ có thể tự sinh ra nó từ hư không là chuyện thần tiên phi khoa học, phi logic, trái với những gì Hawking nói về Định lý Gödel, và trái với vũ trụ quan của chính Hawking khi còn trẻ. 

a3

Tóm lại, đối với câu hỏi về NGUỒN GỐC VŨ TRỤ, khoa học phải dừng lại, nhường chỗ cho triết học. Triết học có 2 câu trả lời:

Một, vũ trụ đã được thiết kế, và Nhà Thiết kế chính là Đấng Sáng tạo. Đây là câu trả lời của rất nhiều nhà khoa học giỏi nhất mọi thời đại như Nicolaus Copernicus (1473-1543), Galileo Galilei (1564-1642), René Descartes (1596-1650), Blaise Pascal (1623-1662), Isaac Newton (1643-1727), Louis Pasteur (1822-1895), Gregor Mendel (1822-1884), Lord Kelvin (1824-1907), Nicola Tesla (1856-1943), Max Planck (1858-1947), Albert Einstein (1879-1955), Werner Heisenberg (1901-1976), Kurt Gödel (1906-1978) … Đối với những nhà khoa học này, Đấng Sáng tạo là một TIÊN ĐỀ của khoa học, chứ không phải một định lý!

Hai, vũ trụ tự sinh ra nó từ hư không. Đây là câu trả lời của Stephen Hawking lúc cuối đời, mà những thảo luận ở trên cho thấy đây là một phát biểu “ngạo mạn và kiêu căng”, phi logic và phản lại chính Hawking lúc còn trẻ.

Chủ nghĩa tự nhiên không chấp nhận tiên đề về sự hiện hữu của Đấng Sáng tạo. Đó là quyền lựa chọn của họ. Mỗi người, tùy theo trình độ hiểu biết và trực giác của mình, có thể đồng ý hoặc không đồng ý với một tiên đề. Tuy nhiên, dù đồng ý hay không, bạn không thể chất vấn đòi giải thích một tiên đề. Đòi hỏi đó vượt quá phạm trù logic, và thể hiện sự thiếu hiểu biết về logic. Câu hỏi “Ai tạo ra Chúa?” chính là một câu hỏi chất vấn một tiên đề, vì thế nó là một câu hỏi “cực kỳ vô lý”, thể hiện sự thiếu hiểu biết về các quy tắc logic.

Ngoài điểm khởi đầu của vũ trụ, khoa học hiện đại còn cung cấp thêm một bằng chứng khác, không thể chối cãi được, đó là Mã DNA – thông tin của sự sống.

Theo Lý thuyết Thông tin, mọi thông tin đều bắt nguồn từ một trí tuệ thông minh. Vậy ắt phải có Nhà Lập trình của Sự Sống. Nhà lập trình ấy chính là Đấng Sáng tạo. Có lẽ không ai dám đặt câu hỏi “Ai tạo ra Nhà Lập Trình của Sự Sống?”, bởi nhận thức duy lý buộc phải dừng lại ở MÃ DNA. Khoa học chắc chắn không bao giờ giải thích được nguồn gốc vật chất của Mã DNA, vì mã DNA là một thông tin, và thông tin không bao giờ đẻ ra từ vật chất. Thông tin chỉ có thể xuất phát từ một trí tuệ thông minh.

Kết luận: Câu hỏi “Ai tạo ra Chúa?” của Stephen Hawking là một câu hỏi vô nghĩa, tương tự như tuyên bố của ông về vũ trụ tự phát. Đó là lý do John Lennox phải thốt lên lời thất vọng: “Vô nghĩa vẫn là vô nghĩa, ngay cả khi chúng được nói ra bởi các nhà khoa học nổi tiếng thế giới”.

4

DJP, Sydney 26/05/2021


Ý Niệm « Sống Lại » Trong Thánh-Kinh Cựu Ước Và Trong Tư Tưởng Do-Thái Vào Thời Đầu Tây Lịch Kỷ Nguyên.

Mấy nhận xét tổng quát

1) Nên chú ý là những kiểu nói « sống lại », « phục sinh » hay « phục hoạt » mà ta quen dùng, thì chưa nói lên đủ ý về niềm tin của chúng ta, vì đây không phải là sống đi sống lại, hết kiếp này sang kiếp khác, như quan niệm luân hồi của người Ấn-độ, cũng không phải là « trường sinh » do thuốc tiên của Đạo giáo, lại cũng không phải là « bất tử » như người Hi-lạp quan niệm về thần linh, hay là chu du đến miền cực lạc ở Tây phương xa vời. Mấy quan niệm đó chú trọng đến thân phận cá nhân của con người sẽ ra làm sao. Quan niệm mà chúng ta nói ở đây, đành rằng có liên quan đến thân phận cá nhân, nhưng cốt yếu là nhằm vào mối liên lạc thân tình giữa ta và ai khác, là một vị tuyệt đối khác hẳn và ở bên kia thế giới hình sắc này.

Thường thường các tôn giáo trình bầy quan niệm của mình về thế giới bên kia, về cái bờ bên kia – bỉ ngạn – như là một chân lý dĩ nhiên, vĩnh viễn đã có sẵn như thế ở ngoài tầm hiểu biết của con người phàm tục, nhưng bỗng dưng có một vị thần trí hay một thánh nhân khả kính nào đó, thông hiểu mọi việc trời đất, lại có từ tâm, dạy cho tín đồ biết ngay và biết hết một cách tường tận, chỉ cần cúi đầu không suy nghĩ, nhắm mắt tin theo, là đạt chân lý tuyệt đối một cách dễ dàng. Có nhiều tôn giáo dạy cho tín đồ biết rất tỉ mỉ về thế giới bên kia, y như ở thế giới này, có những sự vật, những nhân vật như thế nào, và sau khi chết người ta phải đi qua những chặng đường nào và phải xử sự làm sao để thoát hiểm.

Quan niệm của đạo Do-thái và đạo Thiên Chúa thì tránh không nói nhiều đến những điều ở ngoài trí tưởng tượng của con người, tránh không gán cho thế giới bên kia những điều ta quen biết ở thế giới này. Thậm chí còn cấm tuyệt không được tìm những bí thuật, như đồng bóng, để liên lạc với thế giới bên kia, để tiên đoán, để bói toán về số phận con người.

Vì thế quan niệm « sống lại », quan niệm đạo Do thái và đạo Thiên Chúa về thân phận con người ở thế giới bên kia – cũng như quan niệm về chính Thiên Chúa – không phải đã sẵn có như thế, rồi ngày một ngày hai từ trời đem xuống. Nó đã được thành hình dần dần trong nhiều giai đoạn của lịch sử dân Chúa, sau khi người ta trải qua nhiều biến cố đặc biệt đầy ý nghĩa, sau khi nhận ra cái sở đoản của các giải pháp hợp lý đã được hiền nhân quân tử đó đây nêu ra, và sau khi người ta nhận ra quan niệm đang thành hình đó như là một tin tưởng về cuộc đời đem lại cho nhân sinh của ta một ý nghĩa vượt ra bên ngoài thế giới này. Tin tưởng đó không có tính cách bó buộc như là một hiện tượng tất yếu trong thiên nhiên, người ta có thể tự do thuận theo hay là không thuận theo. Từ đó mới suy nghĩ để giải thích và tìm ngôn từ để nói lên sao cho hợp, trình bầy sao cho ai nấy hiểu ra được, rồi theo đó mà hành đạo cho đúng đường lối. Tuy vậy ngôn từ quen dùng trong thế giới này thì có nhiều, nhưng khi dùng để nói về thế giới bên kia, thì thường cũng là bất cập, nói lên không hết ý, không đúng hẳn, vì thế phải chắp nối dùng nhiều ngôn từ, nhiều hình ảnh tượng trưng.

Nên chú ý : niềm tin tưởng đó căn cứ vào một quan niệm lạc quan về nhân sinh, không vô định mà cũng không tất định. Nghĩa là : người ta sinh ra ở đời, không phải là do ngẫu nhiên biến hoá một cách vô tình, vô định như thế, cũng không phải là do nhân quả báo ân báo oán một cách tất định, nhưng là do một vị thượng trí an bài (không vô định), vừa chú tâm vào vận mệnh con người (không vô tình), vừa để con người tự do lựa chọn (không tất định). Cho nên khi nói « sống lại », thì tất cả những kiểu nói khác nhau đều cùng nhằm nói lên con người sẽ ra sao, tuỳ theo liên lạc thân mật hay không với Thiên Chúa. Và khi nói lên như thế, bao giờ người ta cũng nói lên từ những hình ảnh của nhân sinh quan thông thường của thời đại.

2) Có thể nói là quan niệm « sống lại » đã xuất hiện khá muộn trong tư tưởng Do-thái, nghĩa là sau khi mất nước và bị đem đi đầy ở Ba-bi-luân (thế kỷ VI trước TLKN), và nhất là vào thời dưới quyền đô hộ của người Hi-lạp (thế kỷ III-II trước TLKN). Trước đó người ta đã tin Thiên Chúa trong nhiều thế kỷ, mà chưa thấy cần phải tin có « sống lại » ở đời sau. Vì lẽ rằng người ta vẫn còn giữ quan niệm cổ sơ, cũng giống như quan niệm của người Hi-lạp cổ, nghĩa là vẫn tin rằng khi người ta chết đi thì xuống âm phủ. Ở cõi âm, người ta như là một cái bóng tàn, không còn khí lực hoạt động gì được, không còn trí nhớ, không nhận ra ai cả, cũng không nhận ra mình là ai nữa. Vì thế cho nên quan niệm rằng hành vi thiện ác đều có các thứ thưởng phạt ở trong thế gian này cả. Ai ở hiền thì mong gặp lành ở đời này, như « đa tử đa tôn đa phú quý, đắc tài đắc lộc đắc trường sinh ».

Điều cốt yếu là từ mấy thế kỷ trước khi mất nước, người Do-thái đã tin Thiên Chúa có từ tâm và có quyền lực, đã giải phóng cho dân tộc và giao ước đặc biệt với tổ phụ của dân tộc, và nhất là tin rằng dù sao Thiên Chúa cũng vẫn trung thành giữ lời giao ước, làm cho người ta về sau này, cả trong những giai đoạn khủng hoảng cùng cực, như khi nước mất nhà tan, khi cá nhân bị hủy hoại một cách oan ức vô lý, thì cũng vẫn còn có thể hi vọng và trông cậy một cách tuyệt đối.

Về đề tài nêu ra trên đây, có hai cuốn sách nghiên cứu tỉ mỉ đem lại nhiều tài liệu quý giá : một là cuốn sách Sống lại, Bất tử, Hằng sống của Nickelsburg, hai là cuốn sách Cuộc sống sau khi chết của Cavallin. Cả hai tác giả cùng chống lại một quan niệm quá thông thường, nhưng lại quá đơn giản, cho rằng nhân sinh quan của người Do-thái và của người Hi-lạp khác nhau ở chỗ là một bên thì có tính cách nhất nguyên – coi con người là một thực thể thống nhất – còn bên kia thì chủ trương nhị nguyên – coi con người là hai thực thể ghép vào nhau nhưng rất khác nhau: hồn là tinh anh bất tử, xác là vật chất có thể hư nát. Hai tác giả ấy nói đúng, vì một bên thì nhân sinh quan của đạo Do-thái và của đạo Thiên Chúa đã thay hình đổi dạng nhiều lần trong lịch sử, một bên thì trong văn hoá Hi-lạp, ai nấy đều biết là các học phái Platôn, Aristôtêlês,và các học phái khắc-kỷ Stoa, học phái duy-lạc Eâpikuros, đều không có một nhân sinh quan như nhau.

Sách của Cavallin nặng về khuynh hướng phân tích. Ông chia các bản văn thành năm loại : một là các bản văn của Thánh-Kinh viết bằng tiếng Híp-ri (Do-thái), hai là các bản văn có khuynh hướng khải huyền (Apocalypsis) đã được soạn ra trên đất Palestina, ba là các bản văn viết bằng tiếng Hi-lạp của người Do-thái di tản ra bên ngoài Palestina và lập nghiệp ở chung quanh Địa-trung-hải, bốn là các bản văn chú giải Thánh-Kinh của các thầy nho sĩ Do-thái (Rabbi), năm là những bản văn phủ nhận quan niệm có đời sống khác sau khi người ta chết. Mỗi bản văn được ông đặt vào hoàn cảnh và môi trường của nó để nghiên cứu. Tuy muốn phân tích hơn là tổng hợp, nhưng về cuối sách, ở trang 197, ông cũng phác họa ra một bảng đối chiếu, trong đó ông đưa ra 20 ý kiến làm tiêu chuẩn, để xem các tác giả của 30 bản văn quan trọng, mỗi người quan niệm về sự « sống lại » như thế nào, có những ý kiến nào và thiếu những ý kiến nào. Kết quả là ta có thể phân biệt ra chừng hai, ba mươi quan niệm khác nhau ít hay nhiều về sự « sống lại », có những điểm giống nhau, lại có những điểm trái nghịch nhau. Nói thế khác trong giai đoạn nghiên cứu đó thì người ta không có một quan niệm duy nhất về sự « sống lại ».

Sách của Cavallin, vì quá nặng về phân tích, cho nên có cái nhược điểm là không cho ta thấy các yếu tố làm thành mỗi quan niệm ăn khớp với nhau như thế nào, cũng không giải thích được vì sao có nhiều bản văn lại đưa ra một quan niệm giống nhau, và sau cùng không nói lên được sự biến chuyển của mỗi quan niệm, vì các yếu tố dùng làm tiêu chuẩn thì được trình bầy riêng rẽ như là ở ngoài thời gian, ở ngoài lịch sử.

Cách làm việc của Nickelsburg có tính cách tổng hợp hơn và vì thế làm cho độc giả thấy rõ cái lý sự của mỗi quan niệm. Những bản văn được viết ra trong những hoàn cảnh giống nhau, hay là trong những cách lập vấn tương tự, thì ông xếp vào thành một loại. Như thế người ta dễ dàng nhận ra các truyền thống đã biến chuyển và phân chia ra thành nhiều môn phái như thế nào. Tuy thế, các bản văn lại cũng có nhiều nguồn gốc, mà cái nhìn quá tổng hợp làm cho người ta dễ quên đi rằng thực tại có phần phiền phức hơn. Dù sao hai lối làm việc của hai tác giả cũng là bổ túc lẫn cho nhau.

Trong khi trình bầy, hay hơn cả là nên theo lối dàn bài của Nickelsburg. Tác giả nghiên cứu quan niệm « sống lại » trong bốn trường hợp : một là trong trường hợp đạo giáo bị bách hại, hai là trong trường hợp người công chính bị áp bức, ba là ngoài trường hợp đạo giáo bị bách hại và người công chính bị áp bức, bốn là trong quan niệm thần học của giáo phái Cum-ran. Thực ra thì trường hợp thứ nhất được bàn bạc nhiều hơn cả, tác giả dành cho nó ba chương, nghĩa là tới một nửa cuốn sách. Vì thế thiết tưởng có thể góp ba trường hợp sau thành một, gọi là ngoài trường hợp đạo giáo bị bách hại.

Trong trường hợp đạo giáo bị bách hại

Về giai đoạn dân Chúa bị nước mất nhà tan, bị đưa đi lưu đầy, bị người ngoại quốc, ngoại giáo bách hại, thì có khá nhiều bản văn viết về cái hi vọng được « sống lại ». Nickelsburg chia các bản văn đó thành ba loại : một là những bản văn có tính cách khải huyền (chương một), hai là những bản văn nói lên suy tư của hiền nhân (chương hai), ba là những bản văn bênh vực cho người công chính (chương ba).

Khi dân Do-thái thống nhất quốc gia và được thịnh vượng dưới triều các vua Đa-vit và Sa-lô-môn (thế kỷ X trước TLKN), thì nhận ra rằng Thiên Chúa (Đức Gia-vê) vừa có quyền lực, vừa có từ tâm, và đã giữ lời giao ước với dân Chúa. Nhưng có hai trường hợp làm cho niềm tin đó bị lung lay : đó là khi bị người Ba-bi-luân phá nước và bắt vua tôi đem đi đầy (thế kỷ VI trước TLKN) và khi bị vua Antiochus IV Epiphane cấm đạo (thế kỷ II trước TLKN). Thực vậy, đáng lý ra thì hễ dân Chúa trung thành giữ đạo, thì Chúa cho thịnh vượng. Cho nên khi đứng trước những quốc nạn như thế, người ta không khỏi bỡ ngỡ và đặt câu hỏi vì sao.

Trong sách viết về lịch sử các vua Do-thái về trước, người ta theo lập luận « đời cha ăn mặn, đời con khát nước », và nghĩ rằng vì các vua đã bất trung với luật Chúa, cho nên quốc gia điêu tàn. Nhưng lập luận đó đã bị vị ngôn sứ Ê-dê-ki-en bác bỏ vì lẽ cá nhân chịu trách nhiệm về hành vi của mình, chứ không có cái thói « quít làm cam chịu ».

Nhưng khi không tìm ra lý do vì sao, thì người ta bị khủng hoảng tinh thần, có khá nhiều người bỏ đạo, vì lập luận như sau : Nếu Đức Chúa vừa có quyền lực vừa có từ tâm đồng thời biết giữ lời hứa, thì không thể có cảnh điêu tàn như thế. Vậy bây giờ có cảnh điêu tàn, cho nên, một là vì Đức Chúa có quyền lực, nhưng lại không có từ tâm hay là quên lời hứa, hai là vì Đức Chúa có từ tâm và không quên lời hứa, nhưng lại không có quyền lực. Cho nên còn thờ Đức Chúa làm gì nữa ! Đó cũng là lập luận về thần linh mà triết học Hi-lạp đã đưa ra khi đứng trước đau khổ hỗn loạn trong cuộc đời.

Sau cuộc khủng hoảng như thế, còn một phần nhỏ, một phần còn lại của dân Do-thái vẫn trung thành giữ đạo. Dĩ nhiên là vì đã có những vị lãnh đạo giúp cho họ tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi hóc búa trên đây.

Câu trả lời thứ nhất là của phong trào khải huyền (Apocalypsis). Các bản văn thuộc loại này được xếp chung quanh cột trụ là bản văn Đa-ni-en 12, 1-3. Theo như Nickelsburg, thì phong trào đó chủ trương rằng phải chờ cho đến ngày tận thế thuộc về thời cùng tận, thời thế-mạt, lúc đó « trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy, người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục mà bị ghê tởm muôn đời. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ, những ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao » (Đn, 12, 1-3) ». Như thế có nghĩa là thân xác người ta sẽ sống lại, rồi Đức Chúa sẽ phán xét tất cả mọi người.

Các yếu tố đó đã có trong truyền thống về trước, nhất là truyền thống I-sai-a, báo trước là sẽ có phán xét trừng trị những người ngoại bang đàn áp dân Chúa, và dân Chúa sẽ sống lại, nghĩa là sẽ được phục hưng (Is 13-14 và 25-27). Ngoài ra còn báo trước là tôi tớ Chúa trước đây bị khổ nhục thì sẽ được đề cao.

Có một chi tiết quan trọng làm cho hai bản văn, trên đây khác nhau : khi sách I-sai-a (26, 19) dậy rằng : « Các vong nhân của Ngài sẽ sống lại, xác họ sẽ đứng lên », thì đó cũng như trong niềm hi vọng của Hô-sê (6, 1-2) hay là trong thị kiến (vision) của Ê-dê-ki-en (chương 27), thấy những bộ xương khô lại có được da thịt và sống lại, tất cả đều là những hình ảnh tượng trưng nói về cuộc phục hưng của dân Israel; còn trong sách Đa-ni-en thì nói về cá nhân những người công chính, trung thành với đạo giáo mà bị bắt bớ giam cầm giết lát.

Có một số sách cùng một loại như sách Đa-ni-en, thì cũng đi theo một hướng, nhưng có một vài chi tiết hơi khác. Sách Niên lịch các ngày đại lễ (Livre des Jubilés, 23, 27-31) thì có lẽ chịu ảnh hưởng văn hoá Hi-lạp cho nên nói rằng tinh thần được sống lại. Sách Chúc thư của tổ phụ Giu-đa (chương 25) thì cũng nói đến những người công chính được sống lại, nhưng còn thêm vào đó rằng khi dân Chúa được phục hưng thì các thánh tổ phụ cũng được sống lại. Sách Mô-sê thăng thiên (Assomption de Moise, chương 10) nói đến những hiền sĩ được nâng cao lên tận các ngôi sao, nhưng không nói đến ai sống lại cả.

Nói tóm lại thì các sách trong khuynh hướng khải-huyền thì thật có nói đến sống lại, nhưng coi đó như là một giải pháp đặc biệt cho một trường hợp đặc biệt, đó là trường hợp những người công chính bị bắt bớ : những người đã mất mạng, mất thân xác, vì đạo giáo, thì nay được đền bù lại, thân xác họ sẽ sống lại để dự cuộc phán xét; mà phán xét chẳng qua cũng chỉ là vì hoàn cảnh đặc biệt như thế, chứ không phải là một biến cố phổ thông, chung cho cả trời đất.

Câu trả lời thứ hai là giải đáp của các sách thuộc nhóm các nhà hiền sĩ. Trong các sách đó có kể nhiều truyện theo cùng một mẫu những truyện dậy khôn ngoan. Đại ý kể truyện những người công chính bị bắt bớ, bị kỳ thị, rồi sau được hồi phục, còn những kẻ hành hạ những người ấy, thì có khi bị phạt, có khi không. Ta có thể đan cử ra đây một bài truyện như : truyện ông Giu-se (Sách Sáng thế, chương 37-50), áng thơ về người tôi tớ của Đức Chúa ( Sách I-sai-a, chương 52-53), truyện bà Esther (Sách Esther), truyện bà Su-san-na (Sách Đa-ni-en, chương 13), vân vân.

Có một chi tiết đặc biệt là trong các truyện dậy khôn ngoan thì thường kể truyện người công chính bị bắt bớ, bị kết án, nhưng không bị chết, vì đến phút cuối cùng thì họ được cứu sống, được minh oan và được hồi phục trong cuộc sống này. Còn trong I-sai-a, chương 52-53 và trong Sách Khôn ngoan chương 4-5, thì người công chính (hiền sĩ, ngôn sứ hay là tôi tớ Đức Chúa) bị bắt bớ, bị kết án và bị xử tử : trong tình trạng ấy thì không thể có phục hồi trong cuộc sống này được, mà vì thế họ sẽ được phục hồi trong thế giới bên kia hay là trong thiên giới.

Đặt vào trong trường hợp những người đã chết, đã bỏ mình, vì đạo giáo, thì câu truyện người công chính bị bắt bớ rồi được hồi phục, mở ra một viễn tượng mới : đó là viễn tượng được đền bù, được thăng thưởng, được đề cao sau khi chết. Thực ra người hiền sĩ cũng chính là người công chính, vì trong Cựu Ước thì sự Khôn ngoan cũng là một tên khác để gọi Lề luật của Chúa. Vì thế có thể nói : cái tính bất tử mà sự khôn ngoan hay là lề luật Chúa đem lại cho người hiền sĩ hay là người công chính, thì cũng chính là một cuộc sống cao cả, bền vững hơn cái cuộc sống vật chất ở đời này[1]. Do đó ta hiểu vì sao những người công chính, dù họ có bị mất mạng, thì họ vẫn được sống muôn đời (Sách Khôn ngoan, 5, 15), và những người độc ác, một khi đã mở mắt trông thấy sự thật, thì đã nói với nhau rằng : « Cũng thế mà thôi, bọn chúng mình : thoạt sinh ra thì đã biến mất » (Sách Khôn ngoan, 5, 13). Thế mới biết, sống chết cũng có nhiều bậc nhiều loại khác nhau. Chính vì căn cứ vào lối phân biệt này mà về sau này các vị giáo-phụ của đạo Chúa Giê-su như Ô-ri-ghê-nê hay là thánh Am-brô-si-ô mới phân biệt cái chết ra làm ba loại.

Câu trả lời thứ ba là do những suy tư của người tín hữu về những biến cố xảy ra trước mắt. Ví dụ như trong Sách Ma-ca-bê, quyển thứ hai, có kể truyệân trước khi ông Ê-lê-a-da cùng với một gia đình một mẹ và bảy người con trai chịu chết vì đạo giáo, thì họ đã có những suy tư rất thâm trầm về sự sống lại. Những suy tư đó ăn rễ vào áng thơ « người tôi tớ Chúa » trong sách I-sai-a, vì những người chịu chết vì đạo giáo được gọi là tôi tớ Chúa.

Câu truyện đó ta đã nghe biết, cho nên không lạ gì nữa. Ở đây ta chỉ cần ghi lấy những điều các người đó đã nói lên trước khi bị gia hình. Ý kiến thứ nhất là những người chịu chết vì đạo giáo như thế chính là dân tộc Israel đang chịu đau khổ vì tội lỗi của mình (2 Mcb 7, 18 + 32), nhưng vẫn tin chắc chắn rằng Đức Chúa sẽ không bỏ rơi dân riêng của Ngài và rồi đây những những kẻ hành hạ dân Chúa sẽ bị trừng trị (2 Mcb 7, 16 + 33). Những điều đó sẽ được thực hiện trong cuộc chiến thắng của ông Giu-đa Ma-ca-bê và cái chết ghê sợ của vua An-ti-ô-khô. Niềm hi vọng sẽ được sống lại, thì là vì những người đó đã chết vì đạo giáo (2 Mcb 7, 9) : thân xác được sống lại là để đền bù cho cái thân xác đã chịu tra tấn xẻo cắt. Hiểu như thế thì việc sống lại có liên quan đến một trường hợp đặc biệt có bất công, chứ không phải là chung cho mọi người, vì kẻ hành hạ dân Chúa không có sống lại (2 Mcb 7, 14).

Còn hai ý kiến nữa cũng được bà mẹ bẩy người anh em nói lên. Bà này tượng trưng cho bà mẹ Xi-ôn, tức là mẹ của dân Chúa đang bị bách hại, như trong Sách I-sai-a phần thứ ba và trong Sách Khải huyền của (ngôn sứ) Ba-rúc [1]. Ý kiến thứ nhất : niềm tin sẽ sống lại thì tựa vào niềm tin Thiên Chúa tạo thành trời đất : « Chính Đấng Tạo Hóa càn khôn đã nắn đúc nên loài người,và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài, chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình » (2 Mcb 7, 23). Quan niệm này bắt nguồn từ I-sai-a (Is 43, 1+2+6+7; 44, 1+2; 46, 3+4), đã đem lại cho niềm tin sống lại một nền tảng phổ thông, chung cho mọi người, chứ không riêng cho một trường hợp đặc biệt. Ý kiến thứ hai : sống lại cũng là phục hưng lại cộng đồng tín hữu : « Các con đừng sợ tên đao phủ này; nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót, Người sẻ trả con và các anh con cho mẹ » (2 Mcb 7, 29).

Ngoài trường hợp đạo giáo bị bách hại

Ngoài trường hợp đạo giáo bị bách hại ra, thì cái cảnh kẻ ác được thịnh vượng mà người lành phải bần cùng, ai cũng thấy là nó đi ngược lại niềm tin có thưởng phạt ở đời này, như đã dậy trong sách Đệ Nhị Luật. Vì thế nó gây ra khủng hoảng tinh thần cho những người tin Chúa nhưng còn ở trình độ sách Đệ Nhị Luật. Đó là vấn đề được đặt ra ngay trước khi dân Chúa mất nước và bị đem đi đầy, và còn đặt ra sau này khi phái Pha-ri-siêu bị phái Xa-đốc đàn áp. Nếu bảo rằng thưởng phạt hay là báo ân báo oán, đều là ở đời này cả, thì chẳng lẽ ta lại kết luận rằng những người đàn áp dĩ nhiên phải là công chính, còn kẻ bị đàn áp thì tất nhiên là có tội?

Vấn đề được đề cập trong Sách Hê-nốc, từ chương 94 cho đến chương 104, được biên soạn vào quãng từ năm 95 đến 78 trước TLKN, nghĩa là ngay sau khi phái Pha-ri-siêu bị tàn sát dưới triều vua Alexandre Jannée. Tác giả đi vào cuộc tranh luận và lên tiếng nói với hai hạng người. Với những người công chính đã bị giết, tác giả nói : « Này các người công chính, đã vị nghĩa mà tử vong, các người đừng sợ, hãy tín cẩn (…) Hãy trông vào những kẻ đã tự cho mình là công chính, mà xem họ đã bị hủy diệt như thế nào. Cho tới lúc chết, họ không hề được ai cứu. Họ đã mai một đi, như thể là chưa bao giờ có họ. Linh hồn của họ buồn phiền mà xuống địa ngục »[1]. Rồi tác giả cho những người công chính biết chắc rằng tinh thần của họ sẽ sống hạnh phúc mà không bao giờ chết nữa. Còn với những người có tội ác đã chết đi sau khi hưởng một đời thịnh đạt, thì tác giả nói : « Các người phải biết rằng tinh thần các người sẽ bị điệu xuống địa ngục, sẽ phải buồn phiền, phải ở trong nơi tối tăm, ở trong cạm bẫy và giữa ngọn lửu cháy bừng bừng. Rồi còn phải bị lên án trong cuộc phán xét muôn dân. Các người thật là khốn nạn, các người sẽ không bao giờ được yên ». Đối với những người công chính hiện đang sống trong hoàn cảnh thua thiệt, thì tác giả bảo họ là phải hi vọng, vì chắc chắn là họ sẽ được thắng lợi trong cuộc phán xét muôn dân, sẽ được lên trời và sáng láng như các vì tinh tú, còn những kẻ có tội bây giờ thì sau này sẽ bị phạt.

Xem lại Sách Đa-ni-en, chương 12, thì ta thấy rõ lý do cuộc phán xét muôn dân và vì sao ngững người công chính sẽ được đề cao. Nhưng có điều đáng chú ý là ở đây không có nói gì đến việc thân xác người ta sẽ sống lại, mà chỉ nói đến tinh thần người ta hoặc là sẽ xuống địa ngục, hoặc là sẽ lên trời; lại cũng không nói gì đến những người có tội sẽ sống lại hay không.

Về việc sống lại theo như Sách Hê-nốc, Nickelsburg đưa ra hai nhận xét sau đây : « Một là nếu Đức Chúa cho những người công chính được hồi phục, thì không phải là vì họ đã vì Chúa mà chịu khổ sở oan uổng, nhưng chỉ là vì họ đã chịu khổ sở oan uổng, thế thôi. Hai là sự sống lại không phải là để đền bù cho cái chết oan uổng, nhưng là để trả lời cho câu hỏi về những người phải đau khổ và bị đàn áp, cho dù chưa đến nỗi phải chết ».

Nói tóm lại, chính vì cái cảnh người công chính phải đau khổ và bị đàn áp, nó quả là chướng tai gai mắt, cho nên người ta thấy là không còn có thể cứ bám víu vào quan niệm của Sách Đệ Nhị Luật cho rằng chỉ có thưởng phạt ở đời này mà thôi, và cũng vì thế nó mở ra cho ta cái viễn tượng là sẽ phải có cuộc phán xét muôn dân và sẽ có sống lại trong thế giới bên kia. Còn nếu ta không thấy Sách Hê-nốc nói gì đến việc thân xác sẽ sống lại, thì phải chăng đó là vì do ảnh hưởng của một luồng tư tưởng Hi-lạp? Hay là vì lẽ rằng thân xác người công chính không bị hủy hoại như trong trường hợp những người vị nghĩa vong thân, cho nên không cần phải đền bù gì cho thân xác họ?

Cho tới đây ta mới chỉ xét đến sự sống lại trong mấy trường hợp đặc biệt của những người bị bắt bớ, bị đàn áp. Cho nên những giải pháp đưa ra chỉ là những câu trả lời cho mấy trường hợp riêng rẽ như thế, chứ chưa phải là những giải pháp có tính cách phổ thông, chung cho mọi trường hợp. Muốn đi tới một giải pháp chung, thì cần phải đặt vấn đề ở bên ngoài trường hợp những người bị bắt bớ và bị đàn áp. Trong cách lập vấn như thế, Nickelsburg nghiên cứu năm bản văn đã được soạn thảo trong thời gian giữa Cựu Ước và Tân Ước, đó là : Thánh vịnh của vua Sa-lô-môn (viết vào khoảng từ năm 69 đến 47 trước TLKN), Chương thứ XXII trong Sách Hê-nốc ( vào khoảng năm 170 trước TLKN), Chương thứ VII trong Sách Esdras, quyển thứ IV (vào khoảng cuối thế kỷ I sau TLKN), Lời dạy của bà cốt. (Oracles sibyllins, khoảng từ năm 80 đến 50 trước TLKN), và Chương thứ XX trong sách Chúc thư của tổ phụ Ben-gia-minh (thế kỷ I trước TLKN).

Tác giả kết luận như sau : « Theo như những bản văn nghiên cứu trong chương sách này thì việc sống lại vẫn còn được đặt ra trong khung cảnh cuộc phán xét muôn dân. Tuy vậy việc sống lại và cuộc phán xét đã có một vai trò quan hệ hơn là trong các bản văn về trước. Những người công chính sẽ được trọng thưởng vì họ đã tuân theo đạo giáo (Torah), cho dù họ đã được thưởng ở đời này rồi. Còn những người có tội thì họ sẽ bị kết án vì họ độc ác, chứ không phải vì họ đã hành hạ người công chính; họ sẽ bị phạt ở đời sau vô cùng, cho dù ở đời này họ đã bị phạt rồi »[1]. Đó là quan niệm chung của mấy bản văn đó, tuy nhiên cũng có một vài bản văn gợi ra ý kiến rằng những người công chính sẽ được sống vô cùng. Riêng sách Thánh vịnh của vua Sa-lô-môn thì có nói rằng những người có tội ác thì xuống địa ngục sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn. Một vài đoạn văn khác thì có nói đến việc mọi người sẽ sống lại và sẽ có phán xét muôn dân.

Xem như thế, ta thấy là ít lâu trước khi đạo Chúa Giê-su ra đời thì trong tư tưởng Do-thái đã xuất hiện quan niệm mọi người sẽ sống lại và sẽ có phán xét muôn dân.

Sau cùng thì đề cập đến lập trường của giáo phái Cum-ran. Nickelsburg đã đưa ra nhận xét chung sau đây : « Các cuộn sách của giáo phái Cum-ran đã được in ra cho tới nay có một điểm đáng chú ý : ta không thấy có đoạn văn nào có thể giải thích một cách chắc chắn như là có ý nói đến việc sống lại hay là về tính bất tử »[1]. Chính vì thế mà tư tưởng của giáo phái ấy đã được giải thích ra theo nhiều phương hướng khác nhau.

Đọc các thánh-vịnh dùng trong giáo phái, ta thấy có nói đến việc đạo giáo bị bắt bớ, nhưng người ta chỉ tạ ân Đức Chúa vì mình được thoát. Có thế thôi. Như thế có nghĩa là : « Vì lẽ cuộc bắt bớ tín hữu không đưa đến chỗ chết, và vì người ta cũng không phải sợ như thế, cho nên không thấy cần phải nói đến việc sống lại hay là nói đến các việc sau khi chết. Nếu không có bệnh thì cũng không cần thuốc ».

Cũng nên nói thêm là tư tưởng thần học của phái Cum-ran, khi bàn về cuộc sống muôn đời thì có một cách đặt vấn đề đặc biệt. Ít khi họ nói đến cái chết của thân xác. Đó là vì khi dùng những từ ngữ « cuộc sống », « cái chết », thì họ hiểu đó là hai ngả đường trong vận mệnh cuối cùng của người ta, sau khi thân xác chết đi. Họ cho rằng ngay từ đời sống hiện tại, con người ta đã bắt đầu đi theo một trong hai ngả đường đó rồi. Ai sống trong giao ước của Đức Chúa thì ngay từ bây giờ đã được sống muôn đời rồi. Ta gọi đó là cánh-chung-luận đã thực hiện (eschatologie réalisée). Những người trong giáo phái tất nhiên là sẽ được sống muôn đời một cách hoàn toàn, vì ngay từ bây giờ họ đã sống với các thiên sứ, đã được đưa lên tận trời và được sáng chói lọi như các vì tinh tú. Vì thế nếu không có gì cách biệt giữa cuộc sống muôn đời trong lúc này và trong lúc sau, thì cái chết của thân xác không có gì là quan trọng cả, không có gì đáng chú ý[1].

Cái lối nhìn như thế về cuộc sống và cái chết sẽ đưa các thánh giáo phụ trong đạo Chúa Giê-su đến chỗ phân biệt cái chết ra làm ba hạng.

Kết luận

Xem như thế thì ta thấy là trong tư tưởng Do-thái thời Cựu Ước và thời kỳ giữa Cựu Ước và Tân Ước đã có khá nhiều quan niệm khác nhau về sự « sống lại », khác nhau đến nỗi nhiều khi không dung hoà được với nhau. Đặt những quan niệm đó vào những thời đại và những trường hợp khác nhau, đó là một cách tương đối hoá, đồng thời cũng là một phương pháp để nhận ra tính cách thống nhất của chúng.

Tính cách thống nhất này bắt nguồn từ khi người ta nghiệm ra rằng đạo giáo hay là Lề Luật của Chúa là nguồn đem lại sức sống. Ta đọc trong sách Đệ Nhị Luật : « Hãy để tâm vào tất cả những lời mà hôm nay tôi cảnh cáo anh em, hãy truyền những lời đó cho con cái anh em, để chúng lo đem ra thực hành tất cả những lời của Luật này. Thật vậy, đó không phải là một lời trống rỗng đối với anh em, mà đó là sự sống của anh em (…)» (Đnl 32, 46-47).

Nhưng sự sống là cái gì? Cái gì là sự sống mà Thiên Chúa đã hứa cho? Xin trả lời : thánh sử, lịch sử của dân Chúa, chính là lịch sử các chặng đường đã đi để dần dần tìm ra sự sống ấy là gì.

Đọc tiếp câu 47 trong sách Đnl, chương 32, ta tìm ra chặng đường thứ nhất : « (…)và nhờ lời ấy, anh em sẽ được sống trên đất mà anh em sắp qua sông Gio-đan để chiếm hữu ». Như thế có nghĩa là : sống tức là thân xác khỏe mạnh lâu dài trên một miền đất phì nhiêu, mà không phải sợ các dân tộc khác đe doạ, sống tức là có con cháu đầy đàn và có một quốc gia riêng cho mình. Chính vì đã nghe theo lời Chúa gọi và hứa cho như thế, cho nên các tổ phụ người Do-thái đã dám bỏ quê nhà ra đi, rồi lại bỏ đi ra khỏi đất Ai-cập là nơi họ đã phải làm nô lệ.

Ở chặng đường này người ta nghiệm thấy rằng hễ giữ Luật của Chúa thì cá nhân cũng như quốc gia được phồn thịnh. Như thế dần dần nảy ra ý kiến là thưởng phạt gì cũng là ở đời này cả, và Thiên Chúa cũng dần dần chuyển thành một đồng minh hữu ích, thậm chí thành ra như là một dụng cụ, một phương tiện phụng sự cho con người ! Đó là cái nguy lớn : tôn giáo thành ra một phương tiện, người ta theo Chúa đâu có phải là vì Chúa, nhưng là vì mình, vì có lợi cho mình mà thôi. Đó là điều ông tổ học thuyết vô thần thế kỷ XIX, là Feuerbach, đã nêu ra. Đó cũng là câu hỏi mà quỉ Xa-tan đã đặt ra cho Đức Chúa, khi nói về ông Gióp[1].

Chặng đường thứ hai : Biến cố nước mất nhà tan, rồi vua cũng như dân bị đưa đi lưu đầy (thế kỷ VI trước TLKN), đó là khủng hoảng lớn cho niềm tin Thiên Chúa trước đây : phải chăng Thiên Chúa bội tín hay là bất lực? Nếu thực như thế thì giao ước với Thiên Chúa mà làm gì?

Nhưng có khủng hoảng như thế niềm tin Thiên Chúa mới có thể chín chắn hơn và chuyển hướng ra khỏi niềm tin vụ lợi. Không phải ai cũng chuyển hướng được như thế. Có một số đông đã bỏ đạo. Còn một số nhỏ vẫn giữ được niềm tin Thiên Chúa, mặc dầu hoàn cảnh éo le. Niềm tin của số còn lại là do người ta xác định được ra rằng : 1) Thiên Chúa không phải là một phương tiện mà người ta sử dụng tùy tiện; 2) Sự sống không phải chỉ là hạn hẹp vào cái thân xác này mà thôi, mà còn có cái gì khác nữa, còn có cái gì ở đâu nữa.

Nhưng cái khác đó là gì và ở đâu? Câu hỏi ta đặt ra ở đây cũng chính là câu hỏi đã đặt ra trong những bản văn ta vừa trình bầy trước đây.

Như đã nói, trong trường hợp đạo giáo bị bắt bớ, người tín hữu thấy là cần phải có gì đền bù cho những cái mà người công chính đã bị mất đi vì trung thành với Chúa : nếu đã bị hạ thấp, bị lăng nhục, thì sẽ được tôn trọng, được nâng cao lên và sáng chói như sao trên trời; nếu thân xác đã bị tra tấn, bị xẻo cắt hay bị giết, thì thân xác sẽ được sống lại. Phải chăng đó chỉ là một mơ ước rất tự nhiên, do cái ý chí muốn sống của muôn loài? Chắc là thế. Nhưng cái mơ ước đó không phải là không có nền tảng vì nó căn cứ vào lời Thiên Chúa hứa cho sự sống, và người ta nhận biết Chúa có quyền lực trong việc giải phóng cho dân tộc khỏi làm nô lệ vua Ai-cập, trong việc tạo thiên lập địa, đồng thời Ngài giữ lời hứa. Trong niềm tin đó, những người vị nghĩa vong thân tin chắc rằng Thiên Chúa sẽ cho họ được sống lại vinh quang, và những kẻ đàn áp họ sẽ bị trừng trị.

Còn ngoài trường hợp đó ra thì cái cảnh người công chính bị đàn áp và kẻ độc ác được thịnh vượng cũng làm cho người ta suy nghĩ và đi tới một kết luận tương tự, nhưng lại có phần phổ thông hơn, vì nó chung cho mọi trường hợp. Người ta suy luận rằng sau khi chết thì sẽ có phán xét muôn dân, và ai nấy sẽ được thưởng phạt tùy theo con đường mình đã chọn.

Như thế quan niệm chung là : chết không phải là hết, vì lẽ Thiên Chúa có quyền lực và giữ lời hứa.

Tuy vậy vẫn còn một vài vấn đề chưa được giải quyết, ví dụ như : Khi sống lại thì chỉ có linh hồn (hay tinh thần) mà thôi, hay là cũng có thân xác nữa? Những kẻ dữ có sống lại để bị phạt muôn đời vô cùng, hay là sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn? « Sống lại » có phải là lại sống như cũ, lại tiếp tục cái đời sống như bây giờ, hay là – như giáo phái Cum-ran đã nhận định – sẽ có một cuộc sống ở một mức độ siêu việt, cao sang, nghĩa là mới hẳn, khác hẳn cuộc sống bây giờ? Để nói về cuộc sống mới này, người ta không có sẵn từ ngữ nào thích hợp, cho nên quen dùng những biểu tượng như : được tôn vinh, được nâng cao lên tận trời, được sáng chói lọi như các vì sao. Ngoài ra vẫn còn có những người Do-thái, như phái Xa-đốc, cứ giữ lại truyền thống cũ, họ tín cẩn vào quyền lực của Thiên Chúa, vào lời Chúa đã hứa, nhưng họ không tin là sẽ có « sống lại », vì đó là điều không thấy Thánh-Kinh dạy một cách rõ ràng.

Chặng đường thứ ba : Chính trong trong lúc tư tưởng Do-thái chia ra năm bè bẩy mối, không đồng ý với nhau về vận mệnh con người, về quan niệm « sống lại », thì đạo của Đức Giê-su xuất hiện, đem lại tin vui, tin mừng, đã được đón nhận và ghi lại trong sách Phúc Aâm.

Quan niệm « sống lại » mà trước đây trong cộng đồng dân Chúa, người ta suy luận, mơ ước và hi vọng theo nhiều phương hướng, thì từ nay đã có một số chứng nhân, đã chứng kiến đời sống, giảng thuyết, hành vi, cuộc tử nạn và sự « sống lại » của Đức Giê-su. Họ thấy những sự kiện ấy là hợp với truyền thống dân Chúa vẫn giữ được niềm tin Thiên Chúa trung tín và có quyền lực. Từ nay họ trở thành chứng nhân, có can đảm chứng thực những điều mắt thấy tai nghe đã đưa họ đến một quan niệm mới về Thiên Chúa. Và đây là chặng đường cuối cùng trong việc tìm hiểu Thiên Chúa và vận mệnh con người. Từ đây bắt đầu một kỷ nguyên mới. Vấn đề thật là mênh mông, bao trùm 20 thế kỷ lịch sử đạo Chúa Giê-su, không thể trình bầy trong phạm vi nhỏ hẹp của bài này được.

Trần Văn Toàn
Giáo sư Triết và Thần Học Đại Chủng Viện Lille Pháp

Nguồn: http://vietcatholicnews.org/News/Html/267292.htm

Tác động triết học của cuộc cách mạng thông tin

Phạm Việt Hưng

Cuộc cách mạng thông tin không chỉ có tác động lớn đối với đời sống hàng ngày, mà còn buộc chúng ta phải thay đổi thế giới quan: Thế giới không chỉ có vật chất mà còn có thực thể phi vật chất là thông tin, hơn thế nữa, thông tin đóng vai trò cốt lõi như “bộ não” điều khiển vũ trụ, bao gồm sự sống!

 Tác động của cuộc cách mạng thông tinơ1]

Khám phá về thông tin của sự sống, tức mã DNA, phải được xem là khám phá vĩ đại nhất trong các khám phá vĩ đại, bởi nó dẫn tới một nhận thức mới mang tính chất cách mạng: hoá ra sự sống không chỉ là một cỗ máy vật chất thuần tuý, mà là một cỗ máy thông tin. Mọi mô hình về sự sống thiếu vắng thông tin đều sẽ trở nên thiếu sót, vì nó không thể mô tả sự sống một cách chính xác và đầy đủ. Để có một bức tranh về sự sống chính xác hơn, đầy đủ hơn, khoa học cần phải từ bỏ thế giới quan cũ – thế giới quan thuần túy vật chất – và trang bị một thế giới quan mới, chấp nhận một thực thể phi vật chất là thông tin như một thành phần độc lập với vật chất cùng tham gia vào mọi hoạt động của sự sống, thậm chí thông tin đóng vai trò chỉ huy mọi hoạt động của sự sống.

Kết luận đó có thể mở rộng ra đối với toàn vũ trụ, bởi xét cho cùng, vũ trụ cũng là một cỗ máy hoạt động theo những chương trình xác định. Cỗ máy ấy không thể hoạt động nếu không có thông tin hướng dẫn. Vậy để có một bức tranh chính xác hơn, đầy đủ hơn về vũ trụ, khoa học cũng phải từ bỏ thế giới quan thuần túy vật chất và trang bị một thế giới quan mới, trong đó thành phần phi vật chất là thông tin đóng vai trò chỉ huy toàn bộ hoạt động của vũ trụ.

Nhận định nói trên cho thấy vai trò chìa khoá của khái niệm thông tin trong sự nhận thức nói chung. Hoàn toàn không cường điệu khi nói rằng trong thời đại ngày nay, nếu không hiểu rõ khái niệm thông tin sẽ không thể hiểu được thế giới.

Tất nhiên từ xa xưa nhân loại đã tiếp cận với thông tin, đã sử dụng thông tin, đã sống với thông tin … nhưng phải đợi đến cuộc cách mạng thông tin bắt đầu từ giữa thế kỷ 20 người ta mới thực sự hiểu THÔNG TIN LÀ GÌ và nhận thức được VAI TRÒ QUYẾT ĐỊNH của thông tin đối với sự sống nói riêng và vũ trụ nói chung.

Nếu bạn quan tâm tới lịch sử khoa học, có thể bạn sẽ cảm thấy vô cùng ngạc nhiên khi biết rằng những công trình nghiên cứu đầu tiên về KHÁI NIỆM THÔNG TIN đã bùng nổ gần như ĐỒNG THỜI CÙNG MỘT LÚC trong cả 3 lĩnh vực then chốt của khoa học là toán học, vật lý học và sinh học, mặc dù những công trình nghiên cứu toán học và vật lý dẫn tới lý thuyết thông tin chẳng liên quan gì với các công trình nghiên cứu sinh học dẫn tới việc khám phá ra thông tin của sự sống.

Điều đáng ngạc nhiên nhất là khái niệm thông tin như một chương trình điều hành một cỗ máy được khám phá gần như đồng thời cùng một lúc trong hai lĩnh vực khoa học tưởng như rất xa lạ với nhau, đó là khoa học computer và khoa học về sự sống – hóa ra chương trình được viết cho computer và chương trình “được viết” trong DNA rất giống nhau, chúng có cùng một bản chất là những chương trình hướng dẫn và chỉ huy sự hoạt động của một cỗ máy!

Từ đó người ta rút ra một kết luận cơ bản: Mọi cỗ máy đều có một chương trình điều khiển sự hoạt động của nó và một cỗ máy chỉ có thể hoạt động khi nó có chương trình điều khiển. Nếu không có chương trình điều khiển, cỗ máy sẽ ngừng hoạt động, hoặc cỗ máy ấy sẽ “chết”!

Đó là một ĐỊNH LUẬT áp dụng cho mọi cỗ máy, từ cỗ máy do con người chế tạo ra đến những cỗ máy trong tự nhiên như sự sống và vũ trụ, nếu ta coi sự sống và vũ trụ là những cỗ máy!

Kết luận nói trên quan trọng đến nỗi người ta nghiên cứu những nguyên lý chung cho một cỗ máy rồi đem áp dụng cho tất cả các cỗ máy. Cụ thể, nhiều nguyên lý của computer có thể áp dụng để nghiên cứu con người và ngược lại. Chẳng hạn, việc nghiên cứu chương trình computer đánh cờ giúp cho khoa học phân biệt được những tư duy theo chương trình trong bộ não với tư duy tổng hợp, tư duy triết học, tư duy sáng tạo, qua đó có thể thấy con người kém computer ở chỗ nào và mạnh hơn computer ở chỗ nào. Đây là một hệ quả tuyệt vời của cuộc cách mạng thông tin, cho phép hình thành một mối quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa con người với computer, trong đó tư duy theo chương trình được giao cho computer, còn tư duy tổng hợp, tư duy triết học, tư duy sáng tạo là việc của con người!

Nói cách khác, nhờ khoa học computer chúng ta hiểu rõ sự sống hơn, và ngược lại nhờ khoa học về sự sống, con người có thể sáng tạo ra những computer ngày càng thông minh hơn.

Toàn bộ câu chuyện ở trên cho thấy cuộc cách mạng thông tin quan trọng như thế nào. Vậy sẽ là một khiếm khuyết lớn về nhận thức nếu một nhà khoa học trong thời đại ngày nay không biết cuộc cách mạng ấy đã ra đời từ bao giờ và ra đời như thế nào. Lược sử tối giản dưới đây sẽ bù đắp sự khiếm khuyết ấy:

2 Năm 1943 – 1945, ra đời chiếc máy tính điện tử đầu tiên ENIAC. Phần cứng là kết quả ứng dụng của công nghệ lượng tử. Phần mềm, tức ngôn ngữ lập trình, là kết quả của việc ứng dụng phương pháp số hóa và mã hóa mà Gödel đã áp dụng trong việc chứng minh Định lý Gödel. Vì thế Gödel được coi là Ông tổ của ngôn ngữ lập trình và được coi là một trong những Cha đẻ của Lý thuyết Thông tin.

3 Năm 1948, Claude Shannon công bố công trình “The Mathematical Theory of Communication” (Lý thuyết Toán học về thông tin liên lạc), lần đầu tiên đưa ra khái niệm “bit” như một “lượng tử” của thông tin, nhờ đó lần đầu tiên đã toán học hóa khái niệm thông tin – thông tin trở thành một đại lượng có thể đo được, mặc dù nó là một thực thể phi vật chất. Thành tựu này đóng vai trò quyết định trong việc phát triển phần cứng của các hệ thống thông tin, đặc biệt trong việc thiết kế và sản xuất các bộ nhớ và đường truyền thông tin.

4 Cũng trong năm 1948, Nortbert Wiener công bố công trình “Cybernetics or Control and Communication in the animal and the machine” (Điều khiển học hay Sự điều khiển và Thông tin liên lạc trong động vật và trong máy móc), lần đầu tiên sự sống và máy móc được xem như những hệ thống được điều khiển bởi một hệ điều hành, và sự điều hành ấy được thực hiện thông qua các tín hiệu thông tin.

Năm 1949, chiếc máy tính điện tử thứ hai mang tên EDVAC ra đời

5 Năm 1953, Crick và Watson khám phá ra cấu trúc phân tử DNA, mở màn cho một thời đại sinh học hoàn toàn mới – sinh học nghiên cứu thông tin của sự sống (thường được gọi là sinh học phân tử). Khái niệm thông tin của sự sống tạo nên cuộc cách mạng về nhận thức bản chất sự sống – sự sống không đơn giản chỉ là một cỗ máy vật lý hay hóa học, mà còn là một cỗ máy thông tin. Vì thế khám phá ra DNA được coi là một trong những khám phá vĩ đại nhất mọi thời đại.

Bạn có thể quên những sự kiện lịch sử khoa học nào khác, nhưng xin bạn đừng quên những sự kiện then chốt nói trên, nếu bạn muốn nhìn thấy bản chất thực sự của sự sống và vũ trụ.

Toàn bộ câu chuyện nói trên đã cung cấp cho chúng ta một cái nhìn toàn cảnh về tác động của cuộc cách mạng thông tin đối với sự nhận thức nói chung.

Bây giờ hãy xem xét kỹ hơn tác động của cuộc cách mạng thông tin đối với nhận thức về bản chất sự sống.

Sự sống là một cỗ máy động lực học thuần túy?

Trước khi có khái niệm về thông tin, các nhà sinh học quan niệm sự sống chỉ đơn giản là một cỗ máy động lực học – một hệ thống vật chất hoạt động thuần túy theo các nguyên lý vật lý và hoá học.

Với quan điểm đó, người ta cho rằng sớm muộn, với những hiểu biết đầy đủ về vật lý và hoá học, người ta sẽ giải thích được tất cả các bí mật của sự sống.

  • Đại biểu nổi bật cho tư tưởng này là Jean Baptiste Lamarck (1744 – 1829), nhà sinh học nổi tiếng người Pháp. Ông khẳng định:

Sự sống chỉ là một hiện tượng vật lý. Tất cả mọi biểu hiện của sự sống đều dựa trên những nguyên nhân cơ học, vật lý, và hoá học, những nguyên nhân này mang tính chất vật chất hữu cơ” (Life is merely a physical phenomenon. All manifestations of life are based on mechanical, physical, and chemical causes, being properties of organic matter)1Philosophie Zoologique, Paris, 1809, Vol 1, p. 104 f > In the Beginning was information, Werner Gitt, p.82. Dĩ nhiên tuyên bố nói trên được viết bằng tiếng Pháp. Khi dịch sang tiếng Anh, có những bản dịch khác nhau. Sau đây là một bản dịch khác:

Sự sống chẳng là cái gì khác một hiện tượng vật lý. Mọi khía cạnh của sự sống đều khởi nguồn trong các quá trình cơ học, vật lý và hoá học, những quá trình này dựa trên các tính chất của bản thân vật chất hữu cơ” (Life is nothing but a physical phenomenon. All life features originate in mechanical, physical, and chemical processes which are based on the properties of organic matter itself)2In the beginning was information, Werner Gitt, p. 99..

Xin lưu ý rằng chính Lamarck mới thực sự là cha đẻ của Thuyết tiến hoá chứ không phải Darwin. Độc giả có thể thấy rõ điều này qua bài báo sau đây:

“Lamarck, cha đẻ Thuyết tiến hóa: Cuộc sống và sự nghiệp” (Lamarck, the Founder of Evolution: His Life and Work)3https://www.amazon.com.au/Lamarck-Founder-Evolution-Life-Work/dp/1444680749 của Alpheus S. Packard.

Nếu ai đó không muốn thừa nhận Lamarck là cha đẻ Thuyết tiến hoá thì cũng không thể phủ nhận sự thật là Darwin chịu ảnh hưởng sâu sắc của Lamarck, đặc biệt trong những khái niệm về thích nghi và di truyền. Cả Lamarck lẫn Darwin đều hiểu sai về di truyền, chẳng hạn như hai ông đều tin rằng những biến đổi do tác động của môi trường có thể di truyền lại cho các thế hệ sau. Thí dụ điển hình cho niềm tin này là trường hợp hươu cao cổ – do phải vươn cổ cao lên để tìm thức ăn trên cao nên cổ hươu cứ dài dần ra. Ngày nay ta biết rõ niềm tin này là sai, nhưng đó là niềm tin từng được coi là “khoa học”, trước khi các Định luật Di truyền của Mendel được cả thế giới công nhận.

Trong cuốn “Con người không thể đoán trước”, André Bourguignon nhận định: “Vấn đề rắc rối nhất vẫn là vấn đề về những quan hệ giữa tư tưởng Darwin với tư tưởng Lamarck. Vì người ta không thể không ngạc nhiên vì những sự giống nhau giữa hai lý thuyết, cũng như vì trong toàn bộ sự nghiệp của Darwin, ông đã không ngừng xích lại gần lại với người tiền bối của ông”4Con người không thể đoán trước, André Bourguignon, NXB Văn hóa Thông tin, 2004, trang 154..

Tuy nhiên câu chuyện hôm nay không có mục đích tìm hiểu ai là cha đẻ Thuyết tiến hoá, mà chỉ có ý nhấn mạnh rằng Darwin đã thừa hưởng rất nhiều quan điểm sai lầm của Lamarck, trong đó có quan niệm về bản chất sự sống, rằng sự sống chẳng là cái gì khác một cỗ máy thuần tuý động lực học, và do đó có thể giải thích nó hoàn toàn bằng các định luật cơ học, vật lý và hoá học!

6

Nhưng không chỉ Darwin chịu ảnh hưởng bởi Lamarck, hầu như toàn bộ các nhà sinh học trước thời đại thông tin đều suy nghĩ như Lamarck. Thí dụ:

  • Nhà sinh học tiến hóa người Đức Manfred Eigen, Giáo sự Đại học Göttingen, từng đoạt Giải Nobel hóa học năm 1967, cũng tuyên bố chắc nịch:

“Logic của sự sống bắt nguồn trong vật lý và hoá học”5In the beginning was information, Werner Gitt, p. 82.

  • Reuben William Kaplan, một nhà vi sinh học người Đức, viết:

“Nguồn gốc của sự sống có thể được giải thích theo các giả thuyết mô tả đầy đủ chuỗi sự kiện kể từ nguồn gốc của “protobiont” (tiền thân của tế bào nhân sơ), và thực tế là tất cả những sự kiện này có thể được suy ra từ các định luật vật lý, hoá học và các định luật khác có giá trị đối với các hệ thống vật chất”6In the beginning was information, Werner Gitt, p. 99..

Thậm chí sau khi thông tin của sự sống đã được khám phá, vẫn có nhiều nhà sinh học tin rằng sự sống rốt cuộc vẫn chỉ là một cỗ máy động lực học, vì thông tin có thể nẩy sinh từ vật chất (!). Ngày nay chúng ta biết rõ rằng nhận thức này là SAI, vì thông tin không phải là vật chất, và vật chất không thể đẻ ra thông tin. Nhưng chúng ta cần biết rằng nhiều nhà sinh học vẫn cố bám lấy mô hình Lamarck để giải thích sự sống. Và để cho mô hình ấy có thể tồn tại, họ buộc phải chứng minh rằng vật chất có thể đẻ ra thông tin (!).

Không chỉ có những nhà khoa học có trình độ thấp mới cố chấp như thế, mà ngay cả một số người được coi là có trình độ cao cũng cố chấp không kém, điển hình là trường hợp của Manfred Eigen, người từng đoạt Giải Nobel hóa học năm 1967. Ông này khẳng định: “Thông tin nẩy sinh từ cái không phải là thông tin” (Information arises from non-information)7In the beginning was information, Werner Gitt, p. 99.. Ý ông này muốn nói thông tin có thể nẩy sinh từ vật chất, điều mà ngày nay mọi kỹ sư IT (công nghệ thông tin) đều biết là SAI.

Trong hội nghị ngày 18/06/2019 tại Viện Công nghệ Sinh học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học & Công nghệ Việt Nam, một nhà sinh học đứng lên phát biểu khẳng định rằng thông tin cũng là vật chất. Lập tức ý kiến này đã bị một kỹ sư IT bác bỏ bằng một thí dụ rất đơn giản: Một USB trống rỗng thông tin được nạp đầy thông tin sẽ không hề thay đổi khối lượng hoặc bất kỳ chỉ số vật chất nào khác.

Một thí dụ khác: Cùng một thông tin có thể chứa đựng trong nhiều dạng vật chất khác nhau, điều đó nói lên rằng thông tin độc lập với vật chất, hoặc thông tin bất biến khi nó được lưu trữ trong các dạng vật chất khác nhau. Chẳng hạn bản nhạc AVE MARIA của Bach-Gounod, dù nó được ghi trên giấy hay được lưu trữ trong một file MP3, hoặc được phát đi dưới dạng sóng âm thanh thì vẫn là bản Ave Maria của Bach-Gounod.

Tóm lại, thông tin không phải là vật chất, và do đó nó không thể đẻ ra từ vật chất. Đó là kết luận của HỘI NGHỊ QUỐC TẾ LẦN THỨ 7 VỀ NGUỒN GỐC SỰ SỐNG8In the beginning was information, Werner Gitt, p. 106 diễn ra tại Mainz, CHLB Đức từ ngày 10 đến 15/07/1983.

Đáng tiếc là kết luận vô cùng quan trọng ấy đã không được phổ biến rộng rãi, đến nỗi nhiều nhà khoa học bằng cấp đầy mình cho đến nay vẫn không hay biết gì về kết luận đó, hoặc không muốn biết, hoặc biết mà không muốn chấp nhận. Tại sao vậy? Vì nó lật đổ quan điểm về sự sống thuần tuý vật chất của Lamarck!

Đó là một cuộc cách mạng về triết học nhận thức: nó chỉ ra rằng mô hình thế giới thuần tuý vật chất của Lamarck không đủ để giải thích sự sống. Từ nay, để giải thích sự sống, bắt buộc phải tính đến vai trò của thông tin!

Một khi đã thấm nhuần kết luận của Hội nghị Quốc tế về Nguồn gốc Sự Sống ở Mainz năm 1983, không ai còn có thể tin vào câu chuyện hoang đường của Darwin về “Cái ao nhỏ ấm áp” – nơi sự sống nẩy sinh một cách ngẫu nhiên từ vật chất vô sinh dưới tác dụng của các phản ứng hoá học thuần tuý. Ai cũng biết rằng dù cho các tương tác hoá học kéo dài hàng tỷ năm cũng không bao giờ có sự sống, nếu không có chương trình kiến tạo sự sống do mã DNA chỉ huy. Nếu Darwin sống lại vào thời đại của chúng ta, chắc chắn ông cũng sẽ rút lui khỏi những dự án nghiên cứu rập khuôn “Cái ao nhỏ ấm áp”. 

Tất nhiên, Lamarck và Darwin rất đáng được thông cảm, vì các ông sống trong các thế kỷ 18 – 19, khi khoa học chưa hề có khái niệm về thông tin của sự sống.

Nhưng tại sao các nhà khoa học khác trong thế kỷ 19 như Louis Pasteur, Gregor Mendel, Lord Kelvin không sai lầm như Lamarck và Darwin?

Câu trả lời: Cả 3 nhà khoa học này, Pasteur, Mendel, Kelvin, đều có dự cảm thiên tài rằng sự sống còn chứa đựng những bí mật vượt quá tầm với của vật lý và hóa học!

Những bí mật của sự sống vượt quá vật lý và hóa học

Hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp, Pasteur, Mendel, Kelvin đều không nhìn sự sống đơn giản như Lamarck và Darwin đã nhìn, tức là không coi sự sống chỉ một cỗ máy thuần túy động lực học. Thông qua công trình nghiên cứu của những nhà khoa học này, hoặc qua những phát biểu trực tiếp, chúng ta có thể thấy cả ba nhà khoa học này đều dự cảm thấy sự sống còn chứa đựng những bí mật nào đó vượt quá khả năng giải thích của vật lý và hoá học.

Louis Pasteur (1822 – 1895)

7 Cả 2 định luật về sự sống do Pasteur khám phá đều cho thấy Pasteur không nghĩ sự sống chỉ đơn giản là một cỗ máy động lực học. Nói cách khác, đối với Pasteur, ngoài những tính chất động lực học mà sự sống biểu lộ, nó còn chứa đựng những bí mật khác mà khoa học không biết hoặc chưa biết. 

Thật vậy, khi tuyên bố và chứng minh rằng “sự sống chỉ ra đời từ sự sống”, Pasteur đã “ngầm nói” với chúng ta rằng không thể chỉ ra sự sống đầu tiên, bởi một cách logic, bất kỳ sự sống nào cũng có cha mẹ của nó. Nói cách khác, đối với Pasteur, một chuỗi logic không thể tự chứng minh mắt xích đầu tiên. Với hiểu biết hiện nay, đó chính là hệ quả của Định lý Gödel. Điều này chứng tỏ Pasteur có trực giác triết học sâu sắc hơn Darwin rất nhiều. 

Trong toàn bộ tiểu sử khoa học vốn rất phong phú và đồ sộ của Pasteur, có thể thấy Pasteur không bao giờ mất thì giờ vào việc tìm kiếm hoặc chứng minh nguồn gốc sự sống. Thậm chí ông trở thành kẻ cản đường đối với những nghiên cứu về nguồn gốc sự sống. Định luật Tạo Sinh là vật cản đường thứ nhất, vì nó trực tiếp bác bỏ tham vọng chứng minh sự sống ra đời từ vật chất không sống! Đối với Pasteur, tham vọng này là hão huyền, vì sự sống không đơn giản như người ta tưởng.

Sinh học hiện đại chứng minh Pasteur đúng: Lý thuyết nguồn gốc sự sống bị chặn lại ở câu hỏi về nguồn mã DNA: “Mã DNA từ đâu mà ra?”. Giải thưởng 5 triệu USD do nhóm Perry Marshall lập ra hiện vẫn đang sẵn sàng trao cho bất kỳ ai trả lời được câu hỏi đó9 Xem Evolution 2.0 https://viethungpham.com/2018/08/08/evolution-2-0-prize-giai-thuong-5-trieu-usd-cho-thuyet-tien-ho/. Nhưng không thấy nhà sinh học nào tỏ ra hào hứng với giải thưởng này. Có lẽ vì họ thầm biết rằng đó là một thách đố vô vọng.

Định luật Pasteur về tính bất đối xứng của sự sống còn cho thấy trực giác thiên tài của Pasteur rõ hơn.

Nếu sự sống đơn thuần là một cỗ máy động lực học thì hãy dùng vật lý và hoá học để trả lời xem “tại sao sự sống lại bất đối xứng?”. Không ai trả lời được. Nhiều nhà sinh học đã công khai thừa nhận rằng họ không biết tại sao sự sống lại bất đối xứng.  Không ai biết một nguyên nhân vật lý hay hoá học nào làm cho các phân tử của sự sống bất đối xứng. Điều này gián tiếp nói lên rằng mô hình sự sống của Lamarck và Darwin quá thô sơ để giải thích sự sống.

Bản thân Pasteur tiên đoán tính bất đối xứng của sự sống là hệ quả trực tiếp hoặc gián tiếp của vũ trụ, từ đó ông nêu lên một tiên đoán rất táo bạo: Vũ trụ là bất đối xứng! Không ai dám mở miệng ủng hộ hay phản đối Pasteur, vì điều này vượt quá tầm với của mọi nhà khoa học cùng thời với ông. Năm 1957, vật lý học chứng minh vũ trụ là bất đối xứng, và công trình này đã đoạt Giải Nobel vật lý năm đó, gây chấn động thế giới. Có nghĩa là Pasteur đúng! Một lần nữa, lịch sử cho thấy tầm nhìn của Pasteur đã vượt quá xa thời đại của ông. 

Vậy tiên đoán của Pasteur có ý nghĩa gì đối với sự sống? Nó nói lên rằng có những yếu tố ở bên ngoài sự sống tác động vào sự sống mà sinh học không biết. Do đó mô hình Lamarck và Darwin là quá thô sơ để giải thích sự sống. 

Gregor Mendel (1822 – 1884)

8 Nếu Sinh học Di truyền là sinh học hiện đại thì Mendel là cha đẻ của Sinh học Di truyền. Chỉ riêng nhận định đó đã đủ để thấy vai trò của Mendel lớn như thế nào.

Khi Mendel nghiên cứu các quy luật di truyền, ông chỉ mô tả nó theo câu hỏi “như thế nào” (how), tức là cơ chế di truyền tác động theo quy luật như thế nào, chứ ông không hề giải thích “tại sao” – ông không hề có ý định dùng các định luật vật lý hay hóa học để giải thích tại sao sự sống lại di truyền như thế. Nói một cách dễ hiểu, chỉ có Ông Trời, hay Thượng Đế, hay Chúa mới biết tại sao. Còn con người, với khoa học, chỉ có thể mô tả lại sự hoạt động của tự nhiên như thế nào mà thôi. Điều đó cũng gián tiếp nói lên rằng Mendel biết rằng có những yếu tố ngoài vật lý và hóa học tác động lên sự sống, thậm chí yếu tố đó là chìa khóa trong việc kiến tạo và duy trì sự sống. Ngày nay chúng ta biết rõ rằng đó là thông tin di truyền, hay thông tin của sự sống. Mendel không trực tiếp khám phá ra thông tin di truyền, nhưng ông là cha đẻ của khoa học di truyền dẫn tới khám phá ra thông tin di truyền.

Những ai đã hiểu bản chất của thông tin, rằng thông tin là một thực thể phi vật chất, thì sẽ thấy rõ rằng mô hình sự sống thuần túy vật chất của Lamarck và Darwin là quá thô sơ, không đủ để hiểu sự sống.

Darwin sống cùng thời với Mendel, nhưng thật đáng tiếc ông không biết gì về Mendel. Nếu biết, có thể ông sẽ rút bỏ tham vọng chứng minh nguồn gốc sự sống trong “Cái ao nhỏ ấm áp”, bởi ông sẽ không biết làm thế nào để “Cái ao nhỏ ấm áp” bỗng nhiên nẩy sinh ra thông tin di truyền!

Lord Kelvin (1824 – 1907)

9 Với trực giác thiên tài, Kelvin cảm nhận rất rõ rằng sự sống có những bí ẩn vượt quá khả năng hiểu biết của khoa học vật chất thuần túy. Hơn bất kỳ ai khác, ông là người công khai tuyên bố điều này, và thẳng thắn bác bỏ lý thuyết nguồn gốc sự sống của Darwin. Thậm chí ông khuyên các nhà sinh học nên từ bỏ tham vọng chứng minh nguồn gốc sự sống. Đây, hãy nghe ông nói:

  • Tôi tin rằng một lần nữa các nhà sinh học hiện đại đang đi tới một sự chấp nhận chắc chắn về một cái gì đó vượt quá ngay cả lực hấp dẫn, lực hoá học và các lực vật lý; và rằng cái không biết ấy là một nguyên lý về sự sống10Modern biologists are coming, I believe, once more to a firm acceptance of something beyond mere gravitational, chemical, and physical forces; and that unknown thing is a vital principle https://zapatopi.net/kelvin/quotes/ .

Có lẽ không ai nói rõ hơn như thế nữa, rằng có một cái gì đó không phải các lực vật lý và hóa học tác động lên sự sống! Và cái không biết ấy là một nguyên lý của sự sống! Vậy mô hình sự sống là một cỗ máy thuần túy động lực học của Lamarck và Darwin làm sao có thể giải thích bản chất sự sống? Qua đó có thể thấy tư duy của Kelvin vượt xa người cùng thời với ông là Darwin.

  • Tôi cần phải nói công khai rằng sự khởi đầu và sự duy trì sự sống trên trái đất hoàn toàn vượt quá phạm vi của mọi phỏng đoán hợp lý trong khoa học động lực. Đóng góp duy nhất của khoa học động lực cho sinh học lý thuyết là sự phủ định tuyệt đối về sự khởi đầu tự động hoặc sự duy trì tự động của sự sống11I need scarcely say that the beginning and maintenance of life on earth is absolutely and infinitely beyond the range of all sound speculation in dynamical science. The only contribution of dynamics to theoretical biology is absolute negation of automatic commencement or automatic maintenance of life https://zapatopi.net/kelvin/quotes/.

Tuyên bố này khẳng định vấn đề bản chất sự sống vượt quá khả năng của các khoa học động lực, tức vật lý và hóa học. Có nghĩa Kelvin thẳng thừng bác bỏ Lý thuyết về nguồn gốc sự sống của Darwin. Khoa học hiện đại chứng minh Kelvin đúng, vì Lý thuyết nguồn gốc sự sống bế tắc ở câu hỏi về nguồn mã DNA. 

  • Toán học và động lực học làm cho chúng ta phá sản khi chúng ta chiêm ngắm trái đất, thích hợp với sự sống nhưng không có sự sống, và cố gắng tưởng tượng sự khởi đầu sự sống trên đó. Điều này chắc chắn không xảy ra bởi bất kỳ tác động nào của hoá học, hoặc điện, hoặc tinh thể gắn kết các phân tử dưới ảnh hưởng của lực, hoặc bởi bất kỳ một kiểu tập hợp ngẫu nhiên nào của các nguyên tử. Chúng ta phải dừng lại, mặt đối mặt với bí mật và phép mầu của sự sáng tạo các sinh vật sống12Mathematics and dynamics fail us when we contemplate the Earth, fitted for life but lifeless, and try to imagine the commencement of life upon it. This certainly did not take place by any action of chemistry, or electricity, or crystalline grouping of molecules under the influence of force, or by any possible kind of fortuitous concourse of atoms. We must pause, face to face with the mystery and miracle of creation of living creatures https://zapatopi.net/kelvin/quotes/.

Một lần nữa Kelvin khẳng định sự sống chứa đựng những bí mật như những phép mầu vượt quá khả năng của vật lý học. Ông khuyên các nhà sinh học đang theo đuổi nghiên cứu về nguồn gốc sự sống hãy dừng lại, đừng mất thì giờ nữa!

  • Nhiều nhà tự nhiên học vẫn bám chặt lấy một phỏng đoán rất cổ lỗ cho rằng dưới những điều kiện thiên văn rất khác với hiện nay, vật chất chết có thể đã tập hợp lại với nhau, hoặc bị tinh thể hoá, hoặc lên men để biến thành vi sinh vật sống, hoặc biến thành những tế bào hữu cơ, hoặc chất nguyên sinh. Nhưng khoa học đã mang đến một đống bằng chứng quy nạp chống lại giả thuyết về sự hình thành sự sống tự phát, như các bạn đã nghe thấy từ người tiền nhiệm của tôi trong ghế chủ tịch (của Hội Hoàng gia Anh). Sự khảo sát kỹ lưỡng đủ cẩn thận trong mọi trường hợp cho tới tận ngày nay đã khám phá ra rằng sự sống đến từ sự sống trước nó. Vật chất chết không thể trở thành sống mà không có vật chất sống trước nó. Đối với tôi dường như điều này quá rõ ràng như một bài giảng khoa học về định luật hấp dẫn vậy13A very ancient speculation still clung to by many naturalists (so much so, that I have a choice of modern terms to quote in expressing it), supposes that, under meteorological conditions very different from the present, dead matter may have run together or crystallized or fermented into ‘germs of life,’ or ‘organic cells,’ or ‘protoplasm.’ But science brings a vast mass of inductive evidence against this hypothesis of spontaneous generation, as you have heard from my predecessor in the presidential chair. Careful enough scrutiny has, in every case up to the present day, discovered life as antecedent to life. Dead matter cannot become living without coming under the influence of matter previously alive. This seems to me as sure a teaching of science as the law of gravitation https://zapatopi.net/kelvin/quotes/.

Kelvin thẳng thừng bác bỏ quan điểm sự sống hình thành ngẫu nhiên từ vật chất vô sinh và khẳng định sự sống chỉ ra đời từ sự sống, đúng như Định luật Pasteur về Tạo Sinh. Có nghĩa là mô hình sự sống thuần tuý vật chất là không đủ để biết bản chất sự sống. Kelvin coi đó là một sự thực hiển nhiên như Định luật vạn vật hấp dẫn vậy, điều này gián tiếp ông chê những ai không hiểu điều đó là những kẻ dốt nát.

KẾT LUẬN

Louis Pasteur, Gregor Mendel, Lord Kelvin là ba nhà khoa học thiên tài của thế kỷ 19, cả ba đều vượt xa thời đại của mình khi dự cảm thấy rằng còn có những bí mật của sự sống nằm ngoài vật lý và hoá học. Ngày nay chúng ta biết đó là THÔNG TIN CỦA SỰ SỐNG!

Vậy để nhận thức sự sống, hãy từ bỏ mô hình Lamarck-Darwin – mô hình sự sống thuần tuý vật chất, tức là phải làm một cuộc cách mạng về nhận thức để chuyển sang một mô hình mới, trong đó một thực thể phi vật chất là thông tin phải được xem như một hiện thực tồn tại khách quan, cùng tham gia vào mọi hoạt động của sự sống, và hơn thế nữa, nó còn đóng vai trò quyết định trong việc kiến tạo và duy trì sự sống.

DJP, Sydney 24/03/2021

Nguồn: https://viethungpham.com/

VƯƠNG QUỐC CỦA TRÍ TUỆ: CUỘC CHIẾN KHÔNG NGỪNG GIỮA ĐỨC TIN VÀ THUYẾT VÔ THẦN

VƯƠNG QUỐC CỦA TRÍ TUỆ:
CUỘC CHIẾN KHÔNG NGỪNG GIỮA ĐỨC TIN VÀ THUYẾT VÔ THẦN

Tác giả: William A. Borst, Ph.D.
Chuyển ngữ: Tuấn Việt
Từ: catholicculture.org

MỤC LỤC

  1. Nguồn gốc Pháp quốc
  2. Những gã khổng lồ của Thuyết vô thần
  3. Xung đột nội bộ
  4. Một lực lượng đang hành quân
  5. Những người vô thần mới
  6. Một Tư tế vô thần
  7. Câu trả lời của các Giáo hoàng

Trong phần dẫn nhập của cuốn sách The Twilight of Atheism [Thời kì thoái trào của Thuyết vô thần], tác giả Aleister McGrath nhắc đến diễn văn của Winston Churchill tại Đại học Harvard vào năm 1943, trong bài diễn văn đó, Churchill đã tiên báo rằng “vương quốc của tương lai sẽ là vương quốc của trí tuệ” (empires of the future will be empires of the mind). Những ý thức hệ sẽ chi phối tương lai chứ không phải là những quốc gia riêng lẻ. Churchill nói điều này nhằm ám chỉ chủ nghĩa Quốc xã và chủ nghĩa Cộng sản, tuy vậy, sự tiên đoán của ông vẫn xuất hiện trong các tiêu đề báo chí mỗi ngày.

1. Nguồn gốc Pháp quốc

Điều nguy hiểm nhất trong mọi tư duy mang tính chất thống trị là Thuyết vô thần. Nó bao hàm một phạm vi rộng lớn từ việc không tin vào Thiên Chúa hay một Hữu thể Thiêng liêng nào đó cho đến một sự từ khước mãnh liệt và dứt khoát về bất cứ niềm tin tôn giáo nào và xem đó như là một thứ dụ dỗ và nô lệ. Thuật ngữ atheist xuất hiện trước tiên ở Hy lạp từ thời cổ và được hiểu như là chủ trương  phủ nhận tôn giáo của quốc gia thời bấy giờ hơn là không tin Thiên Chúa. Chính vì vậy, những người Kitô hữu tiên khởi từ chối thờ lạy Caesar cũng bị gọi là atheist, đồng thời họ cũng bị gọi là kẻ bội giáo, và họ chịu tử đạo chỉ vì không tin như đồng bào của họ.

Cách mạng Pháp đã đem lại ý nghĩa mới cho hạn từ này. Mặc dù nhiều người lãnh đạo cách mạng căm ghét Giáo hội Công giáo, nhưng họ vẫn không minh nhiên phủ nhận Thiên Chúa. Trong khi Voltaire tìm cách loại trừ Giáo hội và những cái bẫy của việc tôn thờ của tôn giáo, thì những Philosophes, những trí thức bừng bừng ngọn lửa cách mạng đã bổ sung thêm việc phủ nhận Thiên Chúa. Họ tin rằng việc áp dụng phương pháp khoa học một cách triệt để có thể dẫn đến việc phủ nhận Thiên Chúa. Baron Paul-Henri-Dietrich d’Holbach, người đầu tiên trong lịch sử tự tuyên bố mình là người vô thần, đã thề sẽ loại trừ hoàn toàn sự siêu việt (transcendent), để cho thấy tất cả đều phát xuất từ con người. Ông ta tin rằng ông ta đang giải phóng nhân loại ra khỏi vòng xiềng xích mê muội của một niềm tin vô lý vào siêu nhiên. Suy nghĩ của ông đã dẫn tới việc sùng bái lý trí (cult of reason) tách rời khoa học ra khỏi mối dây tôn giáo của nó.

Mặc dù đã cố gắng hết sức, cuộc cách mạng đã không áp đặt Thuyết vô thần như là quốc giáo trong suốt mười năm thống trị. Mãi đến thế kỉ XX, chủ nghĩa cộng sản vô thần mới thiết lập một quốc gia vô thần ở Liên Xô, Trung Hoa và Cuba.

2. Những gã khổng lồ của Thuyết vô thần

Theo McGrath, có ba gã khổng lồ của thuyết vô thần đã xuất hiện từ sau Cách mạng Pháp. Quan điểm, tính khí và suy nghĩ của họ đã xây dựng nền móng cho sự đả phá tín ngưỡng trong Thời Mới (Modern), nhằm phá hoại các niềm tin tôn giáo truyền thống trong hơn một thế kỉ. Ludwig Feuerbach, Karl Marx, và Sigmund Freud được xem như những tư tế vô thần (atheistic priesthood), những người đã biến chuyển một giả thuyết cách mạng táo bạo trở thành điều chắc chắn vững vàng trong suốt một thời kì lịch sử, đặt Kitô giáo vào thế phòng thủ liên tục. Suy tư chung của họ, được nối kết với thuyết hoài nghi (skepticism) của Emmanuel Kant, làm phát sinh học thuyết Thời Mới (Modernism) gây nhiều thiệt hại cho các tôn giáo lớn trong thế kỉ XX và XXI.

Feuerbach sinh ra trong bầu khí cách mạng năm 1804. Ông học tại Đại học Berlin, nơi đây, ông được tiếp cận với tư tưởng của G. W. F. Hegel. Ông rời bỏ Giáo hội đang quá mải mê tập trung vào một thiên đàng xa vời nào đó hơn là chú ý đến những điều kiện sinh sống trên trái đất. Feuerbach muốn tạo nên một cơn động đất về mặt trí tuệ, nhằm làm rung chuyển những cột trụ đức tin ở Tây Phương, để làm sụp đổ toàn bộ kiến trúc Giáo hội. Ông tin rằng nhân loại đã bịa ra ý niệm về Thiên Chúa như là một sự an ủi hoặc để lãng quên những đau khổ của cuộc sống. Trong tác phẩm The Essence of Christianity (Bản chất của Kitô giáo), ông đã tìm cách chứng minh nhân loại bị đàn áp bởi chính phát minh của chính mình.

Karl Marx đã đưa thuyết vô thần sang một chiều kích mới. Ông tin rằng tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân. Ông cảm thấy rằng các cơ cấu quyền lực sử dụng tôn giáo để ru ngủ quần chúng nhân dân, để quần chúng không nhận ra sự vô ích của cuộc đời và nhận ra những kẻ đang đàn áp họ. Như một loại vũ khí của cơ cấu quyền lực, tôn giáo kìm giữ người nghèo trong tình trạng đói khổ và bất mãn. Marx lý luận rằng nếu xã hội xóa bỏ các điều kiện xã hội tạo nên nhu cầu tôn giáo, tôn giáo tự động sẽ biến mất.

Theo Freud, tôn giáo xuất hiện do một áp lực tâm lý học sâu xa phản ánh lịch sử tiến hóa phức tạp của nhân loại. Tư tưởng tôn giáo không phải là những lừa dối có chủ ý, nhưng chúng phát xuất từ vô thức của con người, từ cái gọi là id. Đối với ông, các thời kì tôn giáo trong lịch sử được xem như những ngày thơ ấu mông muội của nhân loại. Niềm tin vào một Thiên Chúa ngã vị chỉ hơn kém là một ảo giác ấu trĩ (infantile delusion) mà thôi,  phát sinh do những ước muốn trong vô thức được bảo vệ, được an toàn. Với thuyết vô thần thời mới (modern atheism), thế giới đang ở trong tình trạng trưởng thành của nó. Một xã hội càng trưởng thành và càng được dân sự hóa, thì nhu cầu tôn giáo giảm sút.

3. Xung đột nội bộ

Những ảnh hưởng khác của cuộc cách mạng Pháp vẫn còn tồn đọng cho đến ngày nay. Thuyết vô thần là buồng năng lượng tăng cường sức mạnh cho thuyết thời mới (modernism) thấm nhuần cuộc chiến văn hóa, cuộc chiến này kéo dài hơn mọi cuộc chiến khác trong lịch sử Hoa Kì cộng lại. Cuộc chiến về mặt trí tuệ và tâm hồn này có thể dễ dàng rút gọn vào cuộc chiến không bao giờ ngừng giữa những niềm tin còn lại từ cuộc Cách mạng Pháp với các truyền thống tôn giáo chán ngán của nền văn minh Tây phương.

Những mặt xung khắc trong cuộc xung đột ý thức hệ này có thể được giải thích tốt nhất bằng hình ảnh của hai thành phố Jerusalem và Athens. Những thành phố lịch sử này đại diện cho hai lực lượng – mặc khải và lý trí – đã đem lại sức sống và tồn tại ở Phương Tây suốt 500 năm. Trong nhiều thế kỉ dưới sự hướng dẫn của Giáo hội, hai lực lượng này hoạt động hài hòa với nhau. Với sự trỗi dậy của thuyết Thời mới ở thế kỉ XIX, mọi thứ đã thay đổi tận căn. Từ đó, hình ảnh Jerusalem và Athens, hay đức tin và lý trí, sẽ không bao giờ xuất hiện trong cùng một hành trình ý thức hệ. Đúng như Churchill đã tiên đoán, những thành phố biểu tượng này đại diện cho một cuộc xung đột nội bộ của trí tuệ diễn ra trong bối cảnh của cuộc tranh luận ý thức hệ trong thế kỉ XXI.

Vào tháng 11, nhà báo Maggie Gallagher đã tường thuật về một cuộc gặp mặt thường niên của Salk Institute for Biological Studies tại La Jolla, California, trong đó bà tỏ rõ thái độ hiếu chiến của Athens nhắm vào Jerusalem. Bà muốn cho thấy khoa học cũng ganh đua với tôn giáo trong việc loan báo tin mừng, khi đặt tên cho bài viết tiêu đề: Người kể câu chuyện vĩ đại nhất chưa từng có (teller of the greatest story ever told). Trong khi nói tới các nhà khoa học tham dự như người hùng mạnh của Athens, nhiều người trong số đó theo thuyết vô thần hoặc bất khả tri, nhưng bà không thể che giấu được được “đôi chân đất” của họ, khi luôn tìm cách đàn áp những người và những ý tưởng đe dọa tư tưởng nền tảng của họ.

Với nỗ lực vô vọng trong việc phá hoại niềm tin tôn giáo, họ đã tỏ ra như những đứa trẻ không bình thường khi tự hỏi làm thế nào Đấng Tạo Hóa nhân lành có thể ở đằng sau sự hiện hữu của chúng ta. Những người khác thì cho thấy sự mênh mông và vẻ đẹp của vũ trụ như là sự vinh quang và vẻ đẹp tuyệt vời hơn bất cứ điều gì khác được miêu tả trong Thánh Kinh, hay từ khái niệm Thiên Chúa, và xem đó như là bằng chứng của việc Thiên Chúa không hiện hữu. Sự dấn thân vào lý trí và luận lý không thể giúp họ nhận ra sự mâu thuẫn đầy châm biếm trong chính quan điểm của họ.

4. Một lực lượng đang hành quân

Tác giả Aleister McGrath nghĩ rằng thuyết vô thần đang ở trong thời kì thoái trào, bởi vì tương lai không hy vọng tìm thấy điều gì giống như một thế giới không tưởng (utopia) mà thuyết vô thần đã hứa. Nó đã vất bỏ những “con đường cao tốc của lịch sử” với cái chết và tàn phế của hàng triệu người. Ông tin rằng những người lạc quan về mặt chính trị và những người nhạy cảm về mặt văn hóa đều đã trở lại với tôn giáo nghiêm túc khi đối diện với sự sụp đổ của chủ nghĩa Cộng sản.

McGrath đã tính toán sai lầm một cách nghiêm trọng về cái chết yểu của thuyết vô thần. Thật vậy, chính quyền của chủ nghĩa cộng sản đã mất nhiều quyền lực ở phương Tây, nhưng như một lực lượng văn hóa, nó vẫn cổ vũ cho tư tưởng triết học vô thần của nó trên toàn thế giới. Giáo sư Richard A. Shweder đã vẫy tay làm hiệu cho sự hồi sinh của thuyết vô thần trong một bài báo ở trang kế bên trang của ban biên tập (op-ed piece) trên tạp chí New York Times số 11/26, với tựa đề Atheists Agonistes. Ông thông báo rằng những lực lượng vô thần đang trên đường hành quân, bởi vì thực trạng tôn giáo đã khiêu khích họ. Những người vô thần đã tìm thấy sức mạnh mới trong nguồn gốc lịch sử của họ. Họ không nhắm tới Kinh Thánh, nhưng quay trở lại với những ngày Cách mạng Pháp, khi thế giới bừng tỉnh thức dậy vào một buổi bình minh sau một giấc ngủ của những thời kì đen tối và được chiếu sáng với chân lý đích thực.

Những người vô thần không quên rằng Thời kì Ánh sáng đã cung cấp bức phác họa cho một thế giới mới dũng cảm, không có mê tín dị đoan và ngu dốt. Mặc dù McGrath đã rung hồi chuông báo tử, thuyết vô thần vẫn đang trở nên lão luyện hơn trong việc đưa ra những nghi ngờ của mình bằng cách khoác nó vào trong chiếc áo của kinh tin kính thế tục, như là tách rời Giáo hội ra khỏi nhà nước và đề cao chủ nghĩa nữ quyền cực đoan. Trong khi những người vô thần vẫn là con số tối thiểu nhất trong số những người hăng hái đả phá tín ngưỡng, sự nghi ngờ của họ đã thu hút những người quý phái theo chủ nghĩa tự do, có thể nhắc tới một số tên tuổi nổi bật với những khuôn mặt sáng chói như là Kurt Vonnegut, Warren Buffett, Larry Flynt, George Soros, Woody Allen, George Carlin, và sau cùng là Katherine Hepburn. Danh sách những người vô thần có ảnh hưởng lớn sẽ không đầy đủ nếu thiếu Christopher Hitchens, tác giả cuốn sách The Case Against Religion (Vụ kiện chống Tôn giáo) tiếp tục duy trì ngọn lửa chống tôn giáo một cách bất mãn điên cuồng.

5. Những người vô thần mới

McGrath cũng đã quên một lực lượng mới trong số những người vô thần. Mặc dù đã có cuộc đối đầu riêng tư với Thiên Chúa, nhưng Charles Darwin không hoàn toàn là người vô thần. Học thuyết tiến hóa của ông không nhằm chống lại niềm tin tôn giáo, nhưng nhiều người đã sử dụng những đề xướng trong học thuyết ấy để chứng minh sự thiếu hợp lý của Kinh Thánh. Học thuyết ấy được những người vô thần sử dụng từ thế kỉ XVIII. Trước đó, những người vô thần không bao giờ giải thích được quyền sáng tạo tối thượng của Thiên Chúa, mãi cho đến khi tác phẩm  Origins of the Species (Nguồn gốc các loài) của Darwin trở nên phổ biến vào năm 1859.

Người đi đầu trong thuyết vô thần Darwin là Richard Dawkins, tác giả của một cuốn sách bán chạy nhất (best seller) năm 2006, The God Delusion (Ảo giác về Thiên Chúa). Trái ngược với niềm tin phổ biến, Dawkins tin rằng việc tiến hóa phải dẫn đến thuyết vô thần. Mô tả sơ lược bài báo được đăng trên Wired Magazine số ra tháng Mười một của tác giả Gary Wolf, với tựa đề The Church of Non-Believers (Giáo hội của những kẻ vô tín) , Dawkins giới thiệu những người theo Thuyết tân vô thần (New Atheists), một nhánh của nhóm những anh em trí tuệ (intellectual brothers) đang ngày càng đẩy mạnh một chiến dịch chống lại niềm tin vào Thiên Chúa. Cuốn sách có sức ảnh hưởng rất lớn của ông, The Blind Watchmaker (Thợ làm đồng hồ mù lòa), mặc dù vẫn còn nhiều vấn đề gây tranh cãi, đã đưa Dawkins, vị giáo sư 65 tuổi của Oxford, lên một vị trí đáng chú ý. Ông ghê tởm niềm tin vào Thiên Chúa vì các Giáo hội sử dụng nỗi sợ hãi và phán xét để làm tưởng tổn tâm lý con người. Ông chống lại quyền của cha mẹ trong việc giáo dục con cái theo niềm tin tôn giáo của họ. Ông gọi tôn giáo là thứ hoàn toàn xấu xa (unmitigated evil) cần phải bị tiêu diệt. 

Một lực lượng vô thần xung kích khác được mô tả trong bài viết của Wired là Sam Harris. Trong cuốn sách của mình xuất bản năm 2004, The End of Faith: Religion, Terror, and the Future of Religion (Sự kết thúc của Đức tin: Tôn giáo, Nỗi kinh hoàng, và Tương lai của Tôn giáo), Harris  đã đề cập nhiều hơn đến phương pháp khải huyền. Ông cho rằng con người phải từ bỏ niềm tin tôn giáo hoặc nó sẽ đánh dấu sự kết thúc nền văn minh, nhưng ông quá dễ dàng quên lãng việc giết chết hơn 175 triệu người trong những bàn tay khát máu của các chính phủ vô thần trong thế kỉ XX.

Trong cuốn sách xuất bản năm 2006 của mình, cuốn Letter to a Christian Nation (Thư gởi một Quốc gia Kitô giáo), Harris bàn luận về thói đạo đức giả của các tôn giáo. Ông đả phá Kitô giáo, đặc biệt Thánh Kinh, vì nó rao giảng một thứ luân lý hẹp hòi. Nó gây ra các cuộc chiến tranh, thảm sát, duy trì chế độ nô lệ, đặt con người ở trong một tình trạng lạc hậu ; ông tuyên bố rằng những người ở trong cái gọi là các tiểu bang đỏ của Hoa Kì có tỉ lệ tội ác và ly dị cao hơn. Cũng như Intelligent Design (Kế hoạch thông minh), ông chỉ ra một số lỗi hỏng trong tự nhiên, như là những con chim không biết bay, những đôi mắt mù lòa, để phủ nhận tính xác thực của nó.

6. Một Tư tế vô thần

Bài viết của Wolf đặc biệt làm nổi bật thực tế đó là: khác với những người vô thần trước đây trong thời kì Khai Sáng luôn tỏ ra chán ngán do mang tính phòng thủ, giờ đây họ đã xông xáo và tích cực hơn trong việc chiến đấu với tôn giáo bằng một sự nhiệt tình đầy giận dữ, một điều chưa từng thấy trong Thời Mời. Các lực lượng vô thần mới sẽ không chấp nhận ảo tưởng của tôn giáo như là vai trò xoa dịu trong việc giúp đỡ con người trong khi đối mặt với những đau đớn của hoạn nạn hoặc chết chóc. Các nhà vô thần thời mới tranh cãi với nhau rằng đây là sự hão huyền và nô dịch. Họ tin rằng Kitô giáo là sự trống rỗng, lố bịch về mặt trí tuệ, áp bức về mặt luân lý và không thể tự biện hộ được.

Những người vô thần xung kích chê bai những người giữ thái độ trung lập như là những người không có can đảm tin theo những lời thuyết phục của họ. Những tư tế vô thần này đang tiến hành một cuộc chiến không khoan nhượng đối với các tín ngưỡng và những tín hữu. Những người vô thần không tham gia trong các cuộc chiến này thì lăng mạ câu cách ngôn của Ernie Pyle rằng: “Không có kẻ vô thần nào khi sắp chết” (there are no atheists in a foxhole), như là một sự phân biệt đối xử không công bằng và không đúng.

Cuộc chiến của họ cũng diễn ra trong các tương quan công cộng. Nhận thức rằng hạn từ “vô thần” đã trở nên chán ngán với phần đông người Hoa Kì, nên vào năm 2003, những người vô thần đã sử dụng một thuật ngữ mới trong Hội nghị thường niên của họ họp ở Florida. Họ tự gọi mình là “Những người thông minh” (Brights), điều này rõ ràng cho thấy có sự nối kết với lối suy nghĩ thời Khai Sáng. Thuật ngữ bright muốn nhắm tới một cái gì đó rộng lớn hơn là một phong trào vô thần. Nó không chỉ đơn thuần phủ nhận Thiên Chúa – một điều mà không còn đứng vững – nhưng nhằm bài bác những lối suy nghĩ mê tín, ma thuật nói chung. Mặc dù họ phủ nhận, nhưng thật khó để không nhận thấy họ nghĩ về chính họ như là những người thông minh siêu phàm, không bị ảnh hưởng bởi những ràng buộc của niềm tin tôn giáo.

7. Câu trả lời của các Giáo hoàng

Theo giáo lý Hội Thánh Công giáo, thuyết vô thần là một tội chống lại nhân đức thờ phượng, bởi vì nó đánh giá sai lầm về con người, loại bỏ khả năng của ý chí tự do, và xem con người như những con vật trong học thuyết Darwin. Đã có khá nhiều tư tưởng xuất hiện trong dòng tư tưởng triết học trong thế kỉ XVI và XVII chống lại chủ nghĩa vô thần, Giáo hội Công giáo đã có một số kinh nghiệm trong việc đối diện với thuyết vô thần thực chứng (positive atheism). Chính cuộc Cách mạng Pháp đã mở ra những buổi ngồi lại của Giáo hội để giải quyết những nguy hiểm về mặt thiêng liêng và thể xác của những kẻ vô tín của thế giới.

Đối với thuyết tân đại và cộng sản, Giáo hoàng đã đưa ra những lưu ý rất hợp thời về những nguy hiểm tiềm tàng trong các học thuyết vô thần ấy. Ngay từ đầu năm 1846, Giáo hoàng Piô IX đã đưa ra những lưu ý liên quan đến sự tục hóa của thế giới với sự nổi lên của chủ thuyết thời mới và cộng sản duy vật. Trong Thông điệp Qui Pluribus, Giáo hoàng đã đưa ra những lên án chính thức đối với học thuyết vô luân của cái gọi là chủ nghĩa Cộng sản, vì trong chủ thuyết đó hoàn toàn trái ngược với luật tự nhiên. Năm 1878, Giáo hoàng Lêô XIII ra Thông điệp Quod Apostolici Muneris, xác định thuyết Cộng sản như là bệnh dịch chết người đã đặt chính mình vào trong một quan niệm rất hẹp hòi về xã hội loài người và sẽ dẫn đến đổ nát. Trong thông điệp Pascendi Dominici Gregis (1910), Giáo hoàng Piô X gọi chủ thuyết Thời mới là tổng hợp của các lạc giáo (synthesis of all the heresies). Năm 1937, Giáo hoàng Piô XI đã viết thông điệp Divini Redemptoris, nhằm trả lời cách dứt khoát với chủ nghĩa cộng sản vô thần. Thông điệp ấy nhắc lại phẩm giá của mọi loài Thiên Chúa dựng nên, và nhấn mạnh đến việc chủ nghĩa cộng sản đã phá huỷ không chỉ thân xác nhưng còn linh hồn con người.

Trong khi triều đại Giáo hoàng Gioan XXIII phần nào nới lỏng sự phòng thủ của Giáo hội trước chủ nghĩa cộng sản Soviet, đến Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nhắc nhở thế giới về những tội ác kinh khủng mà chủ nghĩa Cộng sản đã gây ra cho quê hương Ba Lan của ngài sau thế chiến. Theo Michael Novak, Giáo hoàng Benedict nhận thức rằng sự chuyển hướng nhắm tới thuyết vô thần ngày nay đã khác với những gì diễn ra ở thế kỉ XIX, khi nó hướng tới thế giới khách quan của lý trí khoa học. Mô hình mới của nó thì hung hãn hơn vì nó chủ quan thuần tuý (pure subjectivism), nó nằm ở trọng tâm của thời hiện đại và cuộc chiến văn hoá ngày nay. Nỗi lo ngại nhất của Giáo hoàng đó là sự độc tài của chủ nghĩa tương đối sẽ đưa thế giới trở về với việc công chính hoá kẻ sát nhân nhân danh lòng khoan dung và sự lựa chọn chủ quan đã thực sự rung lên hồi chuông cảnh báo.

Cũng giống như Churchill, Giáo hoàng Benedict nhìn nhận rõ ràng rằng Giáo hội phải dấn bước vào cuộc chiến đấu chống lại các lực lượng của nền văn hoá sự chết của thuyết vô thần, với những âm mưu xảo quyệt tấn công sự sống trên diện rộng. Có những học thuyết vô thần mới, Giáo hội cũng rất cần có những lực lượng xung kích mới để chống lại sự phát triển nguy hại của những thuyết vô thần này.

Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 92 (Tháng 01 & 02 năm 2016)

Khác biệt giữa triết học Tây Phương và… Thiền

Phùng Văn Hóa

Để có thể đưa ra một định nghĩa vắn gọn chính xác về triết học được mọi người công nhận là điều bất khả. Chính Martin Heidegger (1889 ?) Triết gia hàng đầu của thế kỷ 20 đã phải thú nhận “Tất cả những gì tôi đã cố gắng làm từ sáu mươi năm nay là hiểu cho được triết lý là gì chứ không phải cố đưa ra một triết thuyết” (M. Heidegger – Triết lý là gì? PCT dịch)

Dùng sáu mươi năm cuộc đời để tìm hiểu rút cục cũng phải lấy lại một câu định nghĩa của ARISTOTE đã có trước đó trên hai ngàn năm “Triết lý là kiến thức suy lý những nguyên lý và những nguyên do đầu tiên” (sđd). Rất có thể đây chỉ là cách suy diễn lời người xưa mà Heidegger vẫn thường làm. Thế nhưng dẫu sao nó cũng phản ánh không sai tính chất muôn thuở của triết học là muốn truy nguyên tới cùng kỳ lý cũng gọi là những nguyên nhân tối hậu của vạn vật.

Truy nguyên tới cùng cái chi là căn nguyên vũ trụ. Công việc này mang tính đặc trưng của triết học. Không thể lẫn lộn nó với bất cứ một loại học thuật nào. Tuy nhiên việc truy nguyên ấy xét cho thật thấu đáo thì nó lại không do triết học khởi xướng mà là thần thoại. Chỉ duy có điều là phải nhìn nhận nó (thần thoại) dưới khía cạnh minh triết.

Từ bấy lâu nay đối với dân gian không nói làm gì. Ngay cả trong giới triết sử người ta cũng đánh giá thần thoại chỉ là những câu chuyện hoang đường bịa đặt về các vị thần linh. Thế nhưng sự thực thì những vị “thần” ấy cần phải được nhìn nhận như là biểu tượng đơn thuần chứ không phải những nhân vật mang những cá tính dị thường.

Mục đích biểu tượng là nhằm diễn tả những chân lý thâm sâu cần được khám phá và điều bí ẩn lớn lao nhất đối với con người ở mọi nơi mọi thời cần phải khám phá ấy là tìm cho biết đâu là căn nguyên phát sinh vũ trụ vạn vật. Vậy thần thoại Hy Lạp cho ta biết cái chi là căn nguyên?

Đó chính là vị Thần mang tên Chaos được hiểu như là một khoảng không bao la vô tận trong đó chưa có một vật chi xuất hiện. Từ ở nơi vị Thần Chaos tức cái khoảng trống toang (le vide béant) là căn nguyên đó mà đã sản sinh ra vị thần khác có tên là Eros biểu trưng cho quá trình sinh trưởng và tuần hoàn vũ trụ. Tiếp đó là sự ra đời của hai vị Thần vĩ đại khác – Gaia tượng trưng cho trái đất và Zéus cho nguyên lý sinh nở.

Với vị thần Chaos căn nguyên nhưng lại hoàn toàn trống rỗng mà đã nảy sinh các vị thần khác. Đây chính là cái nét minh triết kỳ đặc nhất của thần thoại Hy lạp. Thế nhưng từ bấy lâu nay nó đã không hề được nhìn nhận, người ta dường như chẳng còn mảy may nhớ đến cái ông thần Chaos hoàn toàn trống không kia nữa. Ngay cả đối với F.Nietzche ông tổ của triết hiện sinh vô thần, người lớn tiếng nhất ngợi ca Thần thoại cũng chỉ biết dừng lại ở hai thần Dionysos và Apollon là những vị thần trong phả hệ chỉ được xếp vào loại con cái cháu chắt.

Khi minh định Thần Chaos vị thần rỗng không làm căn nguyên phát sinh vạn vật. Thần thoại Hy lạp quả thật xứng danh minh triết. Thế nhưng đây chỉ là một phút giây lóe sáng của trực giác, nó đã mau chóng phụt tắt nhường chỗ lại cho vị thần đêm đen là lý trí ngự trị.

Sự thể khiến người ta không sao có thể chấp nhận được trực giác Thần Chaos như thế chính ở chỗ cứ đinh ninh thần thoại tất nhiên chỉ là những câu chuyện bịa đặt hoang đường về các vị thần. Một khi đã cho thần thoại là những câu chuyện dân gian hoang đường thì tất nhiên cũng phải đến lúc người ta kết liễu nó – Về vấn đề này Burnet nhận định “Khi thôi không kể những chuyện hoang đường nữa là lúc các nhà bác học Milet (trường phái vũ trụ thiên nhiên luận) đã thực sự bước một bước tiến vĩ đại. Bước tiến ấy là bắt đầu nhìn nhận “cùng kỳ lý” hay nguyên nhân tối hậu của vạn vật không còn phải ở nơi Thần thánh mà lại ở chính những hành chất sơ bản nội tại trong thiên nhiên” (LTN – LSTHTP I).

Bởi đã coi Thần thoại chỉ là những câu chuyện hoang đường thế nên người ta không thể nào có thể lấy cái vị Thần Chaos hoàn toàn rỗng không ấy để làm căn nguyên (nguyên nhân tối hậu) cho vũ trụ vạn vật với lập luận cho rằng “ Bất kể cái gì có trong thiên nhiên này cũng đều phải do cái gì có mà phát sinh chứ không thể do cái không. Rồi khi phải trở về với chỗ đã do đó mà phát sinh mọi cái gì có cũng phải trở về với cái có chứ không thể trở về với cái không” (LTN – LSTHTP I ). Bất cứ cái gì có trong thiên nhiên này cũng đều phải do cái gì Có mà phát sinh chứ không thể do cái không. Chính bởi đó mà vị thần Chaos tuyệt đối rỗng không kia làm sao mà có thể được lấy làm căn nguyên vạn vật?

Từ đây Thần rỗng không Chaos đã phải lặn mất tăm mất tích để nhường chỗ cho vị thần quyền uy lừng lẫy là Thần Có (Hữu Thể) xuất hiện. Hữu thể học đã thống ngự toàn bộ triết học Tây phương đằng đẵng trong suốt 25 thế kỷ qua bằng tất cả sự độc đoán mà không một đối thủ nào có thể cự địch. Làm sao dám cự địch một khi mà Parmenide (TK VTCN), người sáng lập Hữu Thể học đã dõng dạc tuyên bố “Hữu Thể có – còn hư vô không có” (l’être est – le néant n’est pas).

Trong cuộc chiến này nó đòi hỏi ta phải chọn một trong hai hoặc có hoặc không. Lẽ tất nhiên tất cả những ai mà tâm trí bình thường đều chọn có. Chẳng phải toàn bộ thiên nhiên đều… có cả đấy ư, nào núi non, sông ngòi, mặt trăng mặt trời, đàn ông đàn bà, ngựa trâu… có họa là điên mới đứng về phía không.

Với tất cả những con người bình thường chúng ta ai thì cũng thấy vạn vật có. Thế nhưng trong triết học thì đây lại là vấn đề hoàn toàn khác. Cái có của những người bình thường là cái có bởi mắt thấy tai nghe, thân đụng chạm mà có, cái có ấy là do kết quả của giác quan, còn cái có trong triết học không phải của giác quan mà là của lý trí. Nói cách khác cái thấy vạn vật có của người bình thường chỉ là những cái có rời rạc phân tán, lúc có lúc không. Khi mạnh lúc yếu, còn cái có trong triết học phải là cái có thường hằng bất dịch. Chính cái có ấy mới, được gọi là Hữu Thể đối tượng tìm kiếm của triết học.

Để đạt được cái Có thường hằng bất dịch ấy người ta cho rằng nó chỉ có thể thực hiện thông qua con đường tri thức, tức tri thức luận.

I- Tri thức luận Platon

Như triết gia Johannes Hirschberger nhận định “Nói về Platon có nghĩa là nói về học thuyết “Những lý tưởng” nhưng người ta chỉ tiến gần lại với học thuyết “Lý tưởng” khi khởi đầu từ quan điểm của “Sự chân” (LTN – LSTHTP II).

Tại sao tiến gần lại với học thuyết “Những lý tưởng” lại phải khởi đầu từ quan điểm của sự chân? Lý do chẳng có gì khó hiểu đó là vì trong quan điểm của Platon “Những Lý Tưởng” chính là Sự Chân và ngược lại Sự Chân là những Lý Tưởng. Một khi đã hiểu như thế thì Tri thức luận cũng là một với học thuyết “Những Lý Tưởng” bởi lẽ cả hai cùng nhắm đến việc xác định thế nào là thực tại hay hữu thể tức “sự chân”.

Thông qua các cuộc đối thoại giả tưởng giữa Socrate với Théetète và Sophiste. Platon đã đưa ra quan điểm của mình về tri thức. Theo ông giác quan không được kể là tri thức bởi lẽ đối tượng của chúng chỉ là những gì rời rạc thất thường khi có lúc không hoặc lúc mạnh lúc yếu “Mỗi cảm giác, mỗi hình dạng của mỗi lúc khác nhau của mỗi cá nhân là những gì luôn đổi khác. Nếu lấy đó làm tiêu chuẩn cho thực tại thì có thể nói là thực tại hiện hữu nữa không hay không gì hiện hữu không còn gì tồn tại, phải nói mọi sự đều biến dịch” (LS TH TPII).

Nếu giác quan không phải tri thức bởi đối tượng của chúng toàn là những cái biến dịch rời rạc thay đổi thất thường. Vậy cái chi mới được kể là tri thức? Trong đối thoại Phédon. Platon xác định lý trí chính là tri thức “Chân lý không thể lãnh hội bằng những giác quan thể xác mà duy bằng lý trí, chi quan năng ấy mới lãnh hội sự vật như chúng là thực sự” (LSTHTPII).

Thế nào là lãnh hội sự vật như chúng là thực sự? Đó là nhìn nhận sự vật trong yếu tính của chúng. Người bình thường chúng ta khi nhìn sự vật chỉ thấy chúng có đó mà chẳng hề thắc mắc suy tư. Nhưng với triết gia thì khác họ muốn biết đến tận căn nguồn vạn vật. Vì sao mà nó có, nó có như thế nào? Cái có mà người thường nghe nhìn đụng chạm ấy không thể thỏa mãn triết gia bởi chúng tuy có đấy nhưng liền mất đấy. Có mà liền mất gọi là biến dịch mà biến dịch lại đồng nghĩa với hư vô.

Bởi chưng triết không đời nào chấp nhận hư vô thế nên tất cả nỗ lực là tìm cho ra cái chi thường tồn bất dịch cái ấy Tri thức luận Platon gọi là “những Lý Tưởng”.

Thế nào là Lý Tưởng? Xénocrate đưa ra định nghĩa “Lý Tưởng được coi như mô phạm cho những sự vật mà sự cấu thành của chúng đã được ghi trên bản tính của chúng tự đời đời” (LTN. LS THTP II).

Khi nói “Lý Tưởng” là nguyên nhân mô phạm thì cũng có nghĩa đó chính là bản thể của mọi sự vật. Bản thể trong quan niệm của Platon là một cái gì đó mang tính hoàn toàn đơn nhất vững chắc và luôn đồng tính với chính mình. Bản thể ấy còn được coi như một thứ Thực Tại tuyệt đối là nguyên lý nền tảng của vạn vật. Chúng không lệ thuộc vào bất cứ cái gì khác mà mọi sự vật lại lệ thuộc nó.

Với nghĩa bản thể như thế thì “Những Lý Tưởng” tất nhiên phải có tính phổ biến. Nghĩa là để có thể làm nguyên nhân mô phạm cho bất kỳ sự vật nào thời lẽ đương nhiên nó không thể là một trong các sự vật đó được. Một con ngựa vằn chẳng những không thể làm nguyên nhân mô phạm cho những con vật khác loài như heo bò… nhưng cũng không thể cho ngựa trắng, ngựa đen…

Để có thể làm mô phạm thì đó không phải một con ngựa đặc thù cá biệt nào mà chỉ có thể là một con ngựa chung chung, ngựa phổ quát và dĩ nhiên cái gọi là ngựa phổ quát này không thể có trong thực tế. Một khi ngựa phổ quát không có trong thực tế thì nó có thể có ở đâu nếu không phải ở trong đầu óc của con người hay nói cách khác ngựa phổ quát không phải là một con ngựa bằng xương bằng thịt mà chỉ là một ý niệm về ngựa.

Nếu ngựa phổ quát chỉ là một ý niệm về ngựa thì với cái gọi là Lý Tưởng sự thiện sự mỹ cũng thế, cũng chỉ là ý niệm. Theo như tri thức luận Platon cho biết thì những nhân đức như khiêm nhường, bác ái, trong sạch… vẫn có những nét đặc thù hơn kém vậy thì chúng cũng cần phải có một mô phạm tối cao làm nền tảng là sự thiện tuyệt đối, sự mỹ tuyệt đối đơn nhất và luôn đồng tính với chính mình.

Dù trong phạm vi sự vật hữu hình hay siêu hình thì “Những Lý Tưởng” thực chất chỉ là những ý niệm. Chính bởi đó mà triết Platon mới được gọi là Duy Niệm. Mặt khác tuy chỉ là ý niệm nghĩa là chỉ có ở trong đầu óc của con người thế nhưng trong quan niệm của Platon chúng lại là những thực tại có thực và hiện hữu ở bên ngoài con người. Bởi đó mà triết Platon cũng còn được gọi là Duy Thực có nghĩa “Những Lý Tưởng” không phải những ý niệm suông mà là thực tại.

Với tính chất duy thực này triết học Platon đương nhiên đã tách biệt thành ra hai thế giới đối lập. Một bên là thế giới của yếu tính tức “Những Lý Tưởng” một bên là thế giới giác quan. Một bên là thế giới hằng cửu bất dịch của bản thế giới. Một bên là thế giới hữu hạn biến dịch của hiện tượng giới.

Chia cắt bản thể hiện tượng thành có hai thế giới đối lập điều này khiến cho Tri thức luận Platon đã bị chính môn đệ là Aristote phê phán nặng nề với lập luận hết sức xác đáng rằng “Khi cho“ Những Lý Tưởng” tách biệt khỏi thế giới giác quan thì nó không thể là nguyên lý giảng nghĩa thực tại của vạn vật vì làm thế nào mà nó có thể là nguyên nhân cho một sự vật khác nếu nó tách biệt với sự vật ấy…” (LTN sđd). Để có thể làm nguyên nhân thì không thể tách biệt mà cần phải nội tại trong vật, thế nhưng thế nào là nội tại trong vật?

II- Tri thức luận Aristote

Trong một bức họa nổi tiếng của Raphael có nhan đề “Trường phái Nhã Điển” trình bày các triết gia chính yếu đã làm vinh danh cho Hy Lạp. Platon được hình dung với một ngón tay chỉ lên trời. Còn Aristote với một ngón tay chỉ xuống đất. Đó là những cử chỉ tượng trưng cho sự chống đối giữa học thuyết của hai nhà “Một đàng Platon triết gia của những ý tưởng được trình bày như kẻ, đã thất vọng với thực tại cảm giác và đi tìm trên lý giới những nguyên tắc giảng nghĩa bản tính của vạn vật. Trái lại Aristote được coi như một đối thủ sau khi đã chỉ trích Platon về khuynh hướng phân đôi thế giới thành vật giới và lý giới đang tìm trong chính thực tại những yếu tố cho việc hiểu biết vạn vật” (LTN. Sđd).

Mục đích triết học trước sau vẫn là để… giải nghĩa bản tính vạn vật. Sự đối nghịch giữa Platon và Aristote không phải ở nơi mục đích nhưng là ở quan điểm Platon với ngón tay chỉ trời có nghĩa rằng bản tính của vạn vật tức “Những Lý Tưởng” thì “ở trên trời” như một thực tại hằng hữu bất biến. Thực tại cũng gọi là Lý giới hoàn toàn tách biệt khỏi vật giới ám chỉ cho trái đất tức thế giới phù ảo của giác quan.

Aristote phủ nhận quan điểm này vì cho rằng nếu Lý giới hoàn toàn tách biệt khỏi vật giới như thế thì làm sao mà nó có thể là nguyên nhân sinh thành vạn vật? Theo ông để có thể làm nguyên nhân thì nhất thiết bản tính phải nội tại trong vạn vật. Bản tính nội tại trong vạn vật, điều ấy cũng có nghĩa mỗi sự vật đều làm nguyên nhân cho chính nó. Đây là sự khác biệt sâu xa giữa Platon và Aristote. Một đàng thì nói vạn vật sở dĩ có là do nguyên nhân tác động từ bên ngoài, một đàng lại bảo nguyên nhân ấy đến từ bên trong.

Aritote đã giải thích cái nguyên nhân từ bên trong ấy với ba nguyên lý đó là: 1. Thể chất (Matiere), 2. Khiếm khuyết (Privation) và 3. Mô thức (Forme).

Lý do cần phải có ba nguyên lý căn bản này thì mới có thể giải thích được tại sao vạn vật luôn biến dịch nhưng vẫn cứ chính là nó. Trước đây với các triết gia tiền phong như Thalès – Héraclite – Anaximandre… đó là điều không thể bởi lẽ họ đã chấp nhận các hành chất sơ bản như Nước – Lửa hoặc Khí là những nguyên lý nền tảng bất dịch không thể trao đổi tác động lẫn nhau. Do đó mà không thể giải thích được biến dịch để rồi dẫn đến một tình trạng mà Heidegger gọi là song luận nan giải hoặc Hữu Thế hoặc Hư Vô.

Để có thể giải thích về lẽ biến dịch Aristote chủ trương ngoài hai nguyên lý Hữu và Vô cần phải có nguyên lý thứ ba và nguyên lý này không thể được lẫn lộn với một nguyên lý nào trong hai nguyên lý đối nghịch “Trong mọi biến thái thiết yếu có ba nguyên lý, một là thể chất và hai nguyên lý đối nghịch nhau. Nhưng trong hai nguyên lý đối nghịch ấy là một song song với Hữu Thể, một lại song song với Hư Vô hay một là mô thức thể hiện trong thể chất còn cái kia lại là sự khiếm khuyết không có mô thức. Nếu kể thể chất và sự khiếm khuyết không mô thức là một nguyên lý thì chỉ còn lại có Thể chất và Mô Thức” (LTN. Sđd).

Nội dung nêu trên xem qua thật quá ư rối rắm, cái gì là nguyên lý song song với Hữu Thể rồi lại song song với Hư Vô? Thật ra tinh thần của đoạn văn chỉ muốn nói đến “nguyên lý khiếm khuyết” như một thứ nguyên nhân tác thành có chủ đích. Nguyên nhân ấy cũng gọi là thiên nhiên tính. Một cái bàn hay cái ghế có thể di chuyển là do nguyên nhân ngoại tại. Còn một con vật cái cây có thể sinh trưởng, cử động đi lại chỗ này chỗ khác là do thiên nhiên tính của chúng.

Thiên nhiên tính khi tác động trong vật thì nó luôn hướng về một chủ đích ấy không là gì khác mà là chính mình, bởi thế thiên nhiên tính cũng là một với đối tượng mà nó hướng về tức mô thức. “Vì thiên nhiên tính có hai mặt: Thể chất một bên và mô thức một bên và vì mô thức này lại là chủ đích và những cái khác phải quy hướng về chủ đích ấy nên sau cùng mô thức là một nguyên nhân tức là nguyên nhân chủ đích” (LTN Sđd).

Thiên nhiên tính sau cùng lại cũng chính là mô thức đối tượng mà nó hương về. Đến đây ta thấy sự đối chọi giữa hai quan điểm ngoại tại và nội tại chỉ là giả tạo bởi lẽ cả hai vẫn cùng theo đuổi một khuynh hướng không tách biệt tri thức với đối tượng của tri thức. Trong học thuyết “Những Lý Tưởng” (Théorie des Idées) thì Idées có nguyên ngữ Hy Lạp idein vừa là tác động nhìn xem vừa là đối tượng của sự nhìn xem ấy. Còn trong học thuyết về ba nguyên lý thì thiên nhiên tích tức nguyên lý khiếm khuyết lại cũng chính là mô thức, mục đích mà nó hướng tới.

Cùng một khuynh hướng không tách biệt tri thức khỏi đối tượng của tri thức thế nhưng tri thức luận Aristote lại đối chọi với Platon ở tính chất bất khả phân li của Mô thức. Nếu “Những Lý Tưởng” là thực tại yếu tính hoàn toàn tách biệt khỏi sự vật thì Mô thức lại dính liền với vật và chính nó tạo nên cơ cấu cho vật. Tuy nhiên sự đối chọi ấy cũng chỉ là một thứ khái niệm ngôn từ bởi chưng trong quan niệm của Aristote Mô thức cũng chính là yếu tính “Mô Thức là sự thiết định cấu tạo nên yếu tính của vạn vật” (LTN Sđd).

Khi nói Mô thức nội tại và làm cơ cấu cho vật, đó là nói về những sự vật đơn lẻ, cá biệt chứ không ám chỉ cho toàn thể vũ trụ vạn vật. Để có thể làm yếu tính cho vũ trụ vạn vật thì theo Aristote Mô Thức tức yếu tính nơi những sự vật đơn lẻ ấy lại phải được chi phối bởi nguyên nhân chủ đích nhờ ở một Mô Thức chính yếu tối cao và siêu việt hơn. Mô Thức ấy có tên là Đệ Nhất Nguyên Nhân hay Đệ Nhất Động Cơ. Chỉ có Mô Thức này mới là nguyên lý tuyệt đối cho trật tự tuần hoàn của vũ trụ.

Như trên đã nói sự khác biệt giữa hai nhà chỉ là giả tạo bởi chưng rút cục thì quan niệm Mô Thức của Aristote cũng chẳng khác chi “Những Lý Tưởng” của Palaton. Về cái gọi là Đệ Nhất Nguyên Nhân hay Đệ Nhất Động Cơ ấy Aristote bằng định luật gọi là không thể tiến triển mãi đến vô hạn được (non regressus ad infinitum) đã chứng minh rằng trong quá trình biến chuyển vô hạn xảy ra liên tiếp trong thời gian không thể đi lên mãi tới giới hạn khởi thủy được nhưng trong trật tự nhân quả hay nền tảng thì phải dừng lại ở một nguyên nhân đệ nhất. Còn Động cơ Đệ Nhất bất động là hệ quả của quan niệm Mô Thức và Hiển Thể. Theo quan niệm này thì chỉ khi đạt được tình trạng hoàn hảo của mô thức và hiển thể thì vạn vật mới thôi không biến thai di dịch nữa.

Đệ Nhất Nguyên Nhân hay Động Cơ bất động cũng là yếu tính và yếu tính ấy tất nhiên cũng lại giống như “Những Lý Tưởng” nghĩa là một cái chi đó đơn nhất bất động và hoàn toàn thoát ly khỏi mọi biến dịch của sự vật tức thế giới giác quan. Mặc dù yếu tính trong quan niệm của Aristote vẫn là một cái chi đó đơn nhất bất động nhưng nó cũng… “còn là sức sống và trí khôn (life and mind) và danh từ Thần (God) bắt đầu được áp dụng cho Đệ Nhật Động Cơ” (LTN Sđd).

Một khi mà yếu tính đã được gán cho đặc tính của Đấng Thần Linh như thế, thì không thể có cách chi mà có thể kéo cái đấng ấy “nội tại” trong vật. Làm như thế chẳng lẽ triết học lại lộn xòng với tôn giáo để thành ra một thứ phiếm thần giáo hay sao? Triết học dĩ nhiên không thể lộn xòng với tôn giáo thế nhưng trong cái tình cảnh đi cũng dở mà ở lại cũng không xong này mà Will Durant một triết sử gia hiện đại đã phải thốt lên một lời đầy bỡ ngỡ thế này “ôi! kỳ lạ thay ông Thần của Aristote, ông là một nhà vua “ngọa triều” một ông vua chỉ có ngự ngai vàng mà không hề cai trị” (LTN. Sđd).

III- Tri thức luận St Thomas D’aquin

Có thể nói triết học Hy Lạp ngay sau Aristote đã bước vào thời suy tàn và rồi sẽ có thể chấm dứt hẳn nếu nó không được Giáo hội vào thế kỷ 13 mà cụ thể là St. Thomas thâu nhận như là một triết lý hợp lý duy nhất đến nỗi triết gia thành Stagirite này đã trở thành thế giá tương tự như một đấng giáo phụ.

Sự du nhập triết Aristote vào Tây Phương diễn ra lẻ tẻ từ khá lâu khoảng thế kỷ sáu (SCN) thế nhưng phải cho đến thế kỷ 13–14 thì toàn bộ các tác phẩm của Aristote mới được dịch và phổ biến. Những bản dịch của những triết gia Hồi giáo như Avicenne (980–1037) và Averroès (1126–1198) triết học Aristote thoạt đầu đã xuất hiện dưới mắt Giáo hội thời đó như là một thứ học thuyết không những hàm hồ lại còn nguy hiểm. Tính chất nguy hiểm ở ngay cội nguồn xuất phát của nó. Trước hết Aristote là kẻ vô giáo sau nữa học thuyết của ông lại được các môn đệ của Mahomet bảo hộ và truyền bá. Do bởi nhận thức được mối nguy hiểm lớn lao này thế nên “vào năm 1210 TGM Sens và nhiều Giám mục khác nhóm họp Công đồng tại Paris đã lên án và cấm đọc Aristote và những tác phẩm về Thiên nhiên học của ông vào năm 1209 và Siêu hình học của ông vào năm 1215” (LTN. Sđd).

Mặc dù có những phản ứng như vậy nhưng cuối cùng Giáo hội mà cụ thể là Đức Giáo Hoàng Léon XIII vào năm 1870 trong Thông điệp Oeterni Patris đã phát ra mệnh lệnh hầu như cưỡng bách phải giảngdạy triết học Aristote trong tất cả các tổ chức Công giáo như một triết lý hợp lý duy nhất.

Lý do tại sao khiến Giáo hội ban đầu thì chống về sau lại chấp nhận cách nồng nhiệt như thế? Nguyên do cũng là bởi không ngoài cái nhu cầu cấp thiết muốn làm cuộc dung hoà giữa đức tin và lý trí.

Đức tin thuộc lãnh vực tôn giáo còn lý trí thuộc triết học. Giữa tôn giáo và triết học là hai lĩnh vực hoàn toàn khác nhau, một đàng là lòng tin một đàng là sự giải nghĩa. Để giải nghĩa tất nhiên là cần phải biết, không biết làm sao giải nghĩa. Thế nhưng nếu đã biết rồi thì có cần gì phải tin?

Tôn giáo và triết học quả thật khác biệt nhau như thế. Vậy tại sao Giáo hội lại nhất thiết cứ phải tìm cách dung hòa? Lý do sâu xa và cũng duy nhất đó là bởi tiên vàn đã chấp nhận con đường Có tức Hữu thể học. Nói rằng có thì ở đây dù cái có ấy có là toàn thể vũ trụ vạn vật cũng là có vật. Một khi mà vật (thể) đã có thì tất nhiên phải có cái nguyên nhân sinh ra vật. Chính ở nơi gọi là nguyên nhân sinh ra vật này mà tôn giáo và triết học gặp (dung hòa) nhau. Trong tôn giáo khi tìm cách giải nghĩa về căn nguyên và trụ vạn vật người ta gọi đó là Thần học là Đệ nhất triết học là khoa học Thánh (Sacra Doctrina). Xưa nay thần học chẳng vẫn được định nghĩa là khoa đào sâu tìm hiểu mầu nhiệm Thiên Chúa là gì?

Mục đích tri thức luận St. Thomas được sử dụng để giải thích mầu nhiệm Thiên Chúa và Ngài chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi Aristote. Điều ấy không ai có thể phủ nhận, tuy nhiên ảnh hưởng ấy lại không máy móc mà mang tính chất hoàn toàn sáng tạo. “Trước St Thoma d’ Aquin quan niệm Hữu Thể của Parmenide cả của Platon và Aristote đều chỉ được hiểu là vật thể (ens = étant) tức là yếu tính hay bản thể. Trái lại chỉ một mình St Thomas đã quan niệm Hữu Thể là hiện hữu (Esse) hay đúng hơn là “Tác động hiện hữu” (actus essendi hay existendi) (LTN-Sđd).

Quan niệm Hữu Thể trong triết học Hy Lạp là vật thể chỉ riêng với St Thomas mới là Hiện Hữu và Hiện Hữu đây tức là Đấng Thiên Chúa Hằng Hữu cũng được gọi là Tác Động Thuần Túy (Acte Pure). Toàn bộ tri thức luận St Thomas được sử dụng để chứng minh cho sự hiện hữu của Thiên Chúa thông qua năm con đường (quinque viae) sau đây:

1- Nguyên Lý Đệ Nhất Động Cơ

Tất cả những gì chuyển động hoặc biến dịch đều phải được chuyển động do một cái gì khác với nó tức bởi một động cơ có thể đẩy nó từ một trạng thái tiềm thể sang trạng thái hiển thể. Tuy nhiên không thể từ động cơ này đi lên động cơ khác đến vô hạn được (non regress ad infinimum). Bởi vậy nhất định là phải dừng lại ở một Đệ Nhất Động cơ nào không thể bị động bởi một động cơ nào và Đệ Nhất Động cơ ấy ta phải chấp nhận đó chính là Thiên Chúa.

2- Nguyên Lý Nguyên Nhân Tác Động

Cũng như sự chuyển động bất cứ một vật gì cũng không thể nào tự nó mà cần phải nhờ đến sức tác động của cái khác. Về nguyên nhân cũng thế ta xem cái gì cũng có nguyên nhân nhưng không thể đi lên mãi mãi vô hạn từ nguyên nhân này lên nguyên nhân khác được mà phải dừng lại ở cái nguyên nhân đầu tiên cũng gọi là nguyên nhân tác thành. Ta gọi nguyên nhân ấy là Thiên Chúa.

3- Nguyên lý khả thể và tất yếu

Cái khả thể (cái có thể có) là cái gì ngẫu nhiên có cũng được mà không có cũng được. Bởi đó mà nó (cái khả thể) đối lập với cái tất yếu là cái gì bó buộc phải có những cái khác mới có thể có được. Mặt khác cái khả thể không có được hiện hữu tức yếu tính của nó đó được chỉ là nhờ ở nguyên nhân tác thành tức là một nguyên nhân tất yếu. Nguyên nhân tất yếu ấy chính là Thiên Chúa.

4- Nguyên lý tương đối và tuyệt đối

Trong vạn vật nhận thấy có sự khác nhau cái này tốt hơn, đáng giá hơn… Nếu chỉ có toàn những cái tương đối như thế thì không thể lấy cái chi để mà làm chuẩn mực. Chính bởi vậy mà phải có một cái gì đó tuyệt đối Chân Thiện Mỹ, cái đó gọi là Thiên Chúa.

5- Nguyên lý chủ đích

Trong vạn vật thấy muôn sự muôn vật tuy không có ý thức cũng như chẳng có suy tư nhưng xem ra chúng tự nhiên hướng về một chủ đích nào đó như đã được tiền định cho chúng. Ví dụ như hạt táo tự nhiên phải trở thành cây táo, quả trứng gà phải nở ra con gà… Ngay cả loài người có tự do và thông minh cũng đương nhiên hướng về chủ đích tối cao là Chân Thiên Mỹ. Nếu muôn sự muôn vật và cả con người nữa luôn hướng về chủ đích mà lại chẳng có chủ đích nào để hướng về thì vô lý quá. Bởi thế cho nên tất nhiên là phải có chủ đích tuyệt đối là Thiên Chúa để muôn vật hướng về.

Cả năm chứng lý trên đây được đưa ra để chứng minh cho sự hiện hữu Thiên Chúa. Tuy nhiên như lời triết gia E. Gilson một nhà Thomisme nổi tiếng cho biết thì “Chỉ cần chấp nhận lý do tồn tại túc lý cho một hiện hữu nào bất cứ trong kinh nghiệm thương nghiệm thôi thì cũng đủ để chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa” (LTN. Sđd).

Chỉ cần chấp nhận một hiện hữu nào bất cứ, hạt cát chẳng hạn cũng đủ để chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa. Bởi chưng hễ đã có vật thì ắt phải có nguyên nhân sinh ra vật.

Ở đây ta thấy có hai vấn đề cần đặt lại một về hiện hữu và hai về nguyên nhân. Dưới cái nhìn thường nghiệm đúng là có hạt cát. Nhưng bằng cái nhìn khoa học thì đó chỉ là tập hợp của một số hạt bụi li ti và với mỗi hạt bụi li ti này lại là tập hợp vô vàn vô số những hạt cơ bản mà mắt thường không thể nhìn.

Tuy mắt thường không thể thấy nhưng chúng quả thực vẫn hiện hữu và sự hiện hữu ấy với khoa vật lý lượng tử ngày nay đó là những dạng sóng năng lượng. Abbert Einstein bằng công thức nổi tiếng E = MC2 đã chứng minh rằng khối lượng không gì khác hơn là một dạng năng lượng.

Cái nhìn thường nghiệm chỉ có thể thấy được khối lượng tức những cá thể như hạt cát, trái núi, nhà cửa, người ngợm… và cho chỉ có chúng là hiện hữu. Còn những cái mà mắt không thấy, tai không nghe, thân không đụng chạm… trí óc không thể nghĩ suy thì lại phủ nhận cho là chúng không hiện hữu là hư vô.

Đi tìm những cá thể (thường nghiệm) một cái nguyên nhân và dù có gán cho nguyên nhân ấy như là những nguyên nhân tối cao = Lý Tưởng – Mô Thức – Tác động thuần túy (Acte Pur) thì chúng cũng không hiện hữu. Làm sao mà những nguyên nhân ấy hiện hữu khi mà ngay cả những vật thể, hệ quả của cái nhìn thường nghiệm kia cũng không hiện hữu?

Vật thể không hiện hữu hay nói cách khác hiện hữu của chúng không thật, hội tụ đủ nhân duyên thì nói là có, nhân duyên hết thì gọi là mất. Tìm kiếm hiện hữu bằng con đường thường nghiệm thì không bao giờ có thể gặp, cái gặp được chỉ là hiện hữu giả Hữu Thểỏ Học Tây phương Hy Lạp đã đi tìm hiện hữu bằng con đường có của thường nghiệm. Rút cục như đã thấy đó chỉ là những cái có (Hữu Thể) giả tạo hay nói đúng hơn là những khái niệm ngôn từ chết khô giá lạnh.

Con người không bao giờ có thể thực sự an thoả với những giá trị giả tạo dù chúng có khoác vào mình bất cứ thứ áo mão nào = kinh tế, chính trị hay tôn giáo. Phải chăng chính bởi đó mà Tây phương tiêu biểu là giới tri thức ngày nay đang nôn nả hướng về phương Đông với hy vọng có thể tìm thấy ở đó cái mà họ muốn tìm?

Nguồn: conggiao.info